Thoát li sách giáo khoa trong dạy học Tự nhiên - Xã hội ở tiểu học

Tóm tắt Thoát li sách giáo khoa trong dạy học Tự nhiên - Xã hội ở tiểu học: ...cơ thể người (các giác quan, các hệ cơ quan chính, sự trao đổi chất, sự sinh sản ở người) và cơ sở khoa học của việc bảo vệ sức khỏe (ăn uống sạch sẽ, đề phòng bệnh tật, tai nạn). - Xã hội: Gồm những hiểu biết về môi trường xã hội xung quanh (gia đình, trường học, địa phương nơi HS sin...tiếp cận trực tiếp với những đối tượng học tập này sẽ giúp HS có hiểu biết về môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh, từ đó biết ứng xử đúng để có thể thích ứng và hội nhập. Với khuôn khổ một tài liệu in ấn, SGK chỉ có thể sử dụng kênh hình là hình vẽ hay ảnh chụp để hướng dẫn trẻ ...__________________________ 131 bằng nhận xét, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực chắc chắn sẽ “cởi trói” cho cả GV và HS, làm cho việc dạy và học trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Thứ ba, tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lí và đánh giá của đội ngũ QLGD. Hơn ai hết, đội ...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Thoát li sách giáo khoa trong dạy học Tự nhiên - Xã hội ở tiểu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là công việc bắt buộc. 
Đối với môn TN - XH nói riêng cũng như 
các môn học khác nói chung, vấn đề này 
dẫn đến một số bất cập như sau: 
Một là, SGK không đáp ứng được 
ngay các nhu cầu cập nhật, bổ sung kiến 
thức cũng như các vấn đề về phương 
pháp, các hình thức tổ chức dạy học mới 
cho người học. Chương trình giáo dục 
nói chung, chương trình môn TN - XH 
nói riêng không bất biến, khô cứng, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đỗ Thị Nga 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
127 
ngược lại, luôn mềm dẻo, linh hoạt để 
nắm bắt và phản ánh sự biến đổi không 
ngừng của cuộc sống xung quanh. Tuy 
nhiên, cần nhận thấy rằng, khi cần phải 
điều chỉnh, bổ sung những thông tin tri 
thức hay các phương pháp, các hình thức 
tổ chức dạy học mới này để dạy cho trẻ, 
thì SGK không dễ dàng làm được, mà 
phải chính người GV phải làm công việc 
này. 
Hai là, việc dạy học một cách cứng 
nhắc theo SGK sẽ không phát huy năng 
lực của người học. SGK ở mọi cấp học 
đang ngày càng được cải tiến theo xu 
hướng dạy học theo lối mở. Cùng một 
vấn đề đặt ra nhưng có nhiều nội dung 
dạy học được trình bày trong SGK. GV 
có nhiều cơ hội hơn trong việc chủ động 
tiếp cận và lựa chọn những nội dung dạy 
học thích hợp với các đối tượng HS khác 
nhau. Do điều kiện dạy học và mức độ 
nhận thức của HS TH ở từng vùng miền 
khác nhau, HS có thể được học nhiều hơn 
về kiến thức, được yêu cầu cao hơn về kĩ 
năng so với những gì được trình bày 
trong SGK hoặc ngược lại. Mặt khác, 
Thông tư 30 do Bộ Giáo dục và Đào tạo 
ban hành ngày 28-8-2014 đã chỉ rõ: 
“đánh giá để giúp HS phát huy các năng 
lực khác nhau, trong đó có năng lực tự 
đánh giá, giúp GV điều chỉnh, đổi mới 
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, 
phát hiện kịp thời những cố gắng, tiến bộ 
của HS để động viên, khích lệ và phát 
hiện các khó khăn để giúp đỡ các em.”. 
Những điều trên càng cho thấy: sự 
phụ thuộc của các nhà giáo dục vào bộ 
SGK duy nhất như hiện nay thực sự là 
một trở ngại lớn cho việc dạy học lấy HS 
làm trung tâm, dạy học theo hướng phát 
triển năng lực cá nhân, đáp ứng xu thế 
đổi mới giáo dục. 
Thông qua việc phân tích mục tiêu, 
nội dung chương trình và SGK môn TN - 
XH, bài viết sẽ chỉ ra những nội dung học 
tập, những bài học của SGK môn TN - 
XH có thể được dạy với những phương 
tiện dạy học khác ngoài SGK. Với những 
phương tiện này, GVTH có thể tự tin và 
làm chủ tiến trình dạy học, dạy học sáng 
tạo nhằm không chỉ cung cấp kiến thức 
khoa học mà còn phát huy những năng 
lực khác nhau của HS. 
2. Khái quát đặc điểm, mục tiêu 
chương trình môn TN - XH 
2.1. Đặc điểm môn học 
Những hiểu biết về sự vật và hiện 
tượng tự nhiên và xã hội gần gũi với HS 
và cách vận dụng những hiểu biết đó vào 
thực tiễn cuộc sống của con người đã từ 
lâu trở thành đối tượng học tập của HS 
trên thế giới. Tập hợp những kiến thức 
thiết yếu ấy từ lâu đã tạo thành một môn 
học bắt buộc trong hầu hết các nhà 
trường TH. Tùy theo từng nước, môn học 
trên có nhiều tên gọi khác nhau và góc độ 
tiếp cận cũng khác nhau: Khoa học và 
công nghệ, Thường thức tự nhiên, Khoa 
học xã hội, Khoa học tự nhiên 
Ở Việt Nam, môn TN - XH được 
dạy cho HS từ lớp 1 đến lớp 5 trong 
chương trình cải cách bắt đầu từ năm học 
1995-1996 và được tiếp tục ở Chương 
trình TH sau năm 2000. Tên gọi “Tự 
nhiên - Xã hội” là cách gọi chung môn 
học ở cả hai giai đoạn học tập của HSTH, 
bao gồm phần Tự nhiên và Xã hội ở các 
khối lớp 1, 2, 3 và các phân môn Khoa 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
128 
học, Lịch sử và Địa lí ở các khối lớp 4, 5. 
Môn học cung cấp cho HS những hiểu 
biết ban đầu về môi trường tự nhiên và 
môi trường xã hội xung quanh. Kiến thức 
của nhiều môn học khác nhau như Sinh 
học, Hóa học, Vật lí, Lịch sử, Địa lí 
được cấu trúc lại thành một môn học với 
hệ thống những chủ đề nhất định xuyên 
suốt qua hai giai đoạn học tập của HSTH. 
2.2. Mục tiêu chương trình môn học 
2.2.1. Về kiến thức 
Dạy học Tự nhiên - Xã hội nhằm 
giúp HS có hiểu biết về các lĩnh vực: 
- Con người và sức khỏe: Gồm kiến 
thức về cơ thể người (các giác quan, các 
hệ cơ quan chính, sự trao đổi chất, sự 
sinh sản ở người) và cơ sở khoa học 
của việc bảo vệ sức khỏe (ăn uống sạch 
sẽ, đề phòng bệnh tật, tai nạn). 
- Xã hội: Gồm những hiểu biết về 
môi trường xã hội xung quanh (gia đình, 
trường học, địa phương nơi HS sinh ra và 
lớn lên, các vấn đề về môi trường, giao 
thông (giai đoạn 1); sơ lược lịch sử 
Việt Nam, địa lí Việt Nam và địa lí thế 
giới (giai đoạn 2). 
- Tự nhiên: Gồm những kiến thức về 
động thực vật, vật chất, năng lượng, môi 
trường tự nhiên và mối quan hệ giữa môi 
trường tự nhiên với con người, vấn đề 
khai thác và sử dụng tài nguyên thiên 
nhiên, sử dụng năng lượng, bảo vệ môi 
trường 
2.2.2. Về kĩ năng và thái độ 
Thông qua việc cung cấp kiến thức, 
môn học, một mặt, hình thành ở HS 
nhiều kĩ năng khoa học cơ bản như quan 
sát, mô tả, so sánh, đánh giá các mối 
quan hệ đơn giản trong tự nhiên và xã hội, 
kĩ năng thực hành khoa học, kĩ năng áp 
dụng kiến thức vào đời sống để bảo vệ 
sức khoẻ, giữ an toàn cho bản thân và gia 
đình; mặt khác, môn học còn hình thành 
ở HS những thái độ tích cực như tò mò, 
ham hiểu biết khoa học, yêu mến bảo vệ 
môi trường sống của mình, có ý thức tự 
giác thực hiện trong việc giữ sức khỏe, 
giữ an toàn, bảo vệ môi trường, yêu mến 
quê hương và đất nước Việt Nam 
2.3. Sách giáo khoa môn học 
Về tên gọi: Tự nhiên và Xã hội là 
tên gọi của SGK môn học của các khối 
lớp 1, 2, 3. SGK các khối lớp 4, 5 có tên 
gọi Khoa học, Lịch sử và Địa lí. 
Về cấu trúc: SGK ở cả hai giai 
đoạn được chia theo chủ đề, mỗi chủ đề 
gồm nhóm các bài học liên quan. SGK 
Tự nhiên và Xã hội, SGK môn Khoa học 
có hệ thống kí hiệu chỉ dẫn hoạt động học 
tập. Ví dụ: Kính lúp: hoạt động quan sát, 
nắm đấm và cây kéo: trò chơi học tập... 
Về đặc điểm: Cả kênh hình và kênh 
chữ đều đóng vai trò cung cấp kiến thức 
cho HS. Các kí hiệu hướng dẫn GV tổ 
chức các hoạt động học tập cho HS. 
Trong mỗi bài học thường có từ 3 đến 5 
hoạt động. Nhìn vào SGK, GV có thể dễ 
dàng xây dựng các hoạt động dạy học, 
HS quan sát SGK và học tập theo những 
hướng dẫn này. Cách thức xây dựng này 
của SGK có ưu điểm là giúp GV có thể 
nhanh chóng đưa ra một kế hoạch dạy 
học sát với mục tiêu bài dạy, ít sai sót và 
“an toàn”. Tuy nhiên, đây lại cũng chính 
là điểm yếu của sách vì nó dẫn đến sự lệ 
thuộc của GV vào SGK, làm GV có tâm 
lí vừa ngại vừa sợ dạy học sáng tạo. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đỗ Thị Nga 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
129 
3. Những bất cập của việc sử dụng 
một bộ SGK môn Tự nhiên – Xã hội 
3.1. Đối với những nội dung dạy học 
mang tính vùng miền 
Như đã trình bày, do một số nội 
dung của chương trình được xây dựng 
nhằm phù hợp với đặc điểm vùng miền 
cụ thể, những bài học của phần này khó 
có thể được xây dựng một cách chi tiết, 
cụ thể cho tất cả các vùng miền khác 
nhau, ngoài một số gợi ý chung chung. 
Nếu chỉ dạy học theo những chỉ dẫn 
trong một bộ SGK hay sách giáo viên 
(SGV) duy nhất, thì GV không thể dạy 
học sát với thực tế địa phương và điều 
này đồng nghĩa với việc HS khó có thể áp 
dụng kiến thức được học vào cuộc sống. 
Có thể kể tên một số bài như An toàn trên 
đường đi học, Cuộc sống xung quanh (Tự 
nhiên và Xã hội 1), Giữ sạch môi trường 
xung quanh nhà ở, (Tự nhiên và Xã hội 
2), Phòng cháy khi ở nhà, Tỉnh (thành 
phố) nơi bạn đang sống, Không chơi các 
trò chơi nguy hiểm (Tự nhiên và Xã hội 
3), Phòng tránh tai nạn đuối nước (Khoa 
học 4), Phòng tránh bị xâm hại (Khoa 
học 5). 
3.2. Đối với những nội dung dạy học 
mà đối tượng HT của HS là chính môi 
trường tự nhiên và môi trường xã hội 
Trong môn TN - XH, những nội 
dung dạy học là sự vật, hiện tượng tự 
nhiên và xã hội gần gũi với trẻ chiếm một 
thời lượng và vị trí đáng kể. Ví dụ các 
kiến thức về tự nhiên thuộc các chủ đề về 
thiên văn học (Mặt trời, Trái đất, Hệ Mặt 
trời, Mặt trăng và các vì sao, các hiện 
tượng thời tiết gió, mưa, nóng, rét) về 
động - thực vật (môi trường sống, sự trao 
đổi chất, sự sinh sản...). Các kiến thức về 
xã hội thuộc các chủ đề Gia đình, Trường 
học, Quê hương như khung cảnh gia đình, 
trường học, lớp học của chính HS, khung 
cảnh quê hương (theo nghĩa hẹp: làng xã, 
phố phường nơi HS sinh ra và lớn lên; 
theo nghĩa rộng: tổ quốc Việt Nam với 
các các sự vật, hiện tượng địa lí, tiến 
trình lịch sử của dân tộc). Việc tiếp cận 
trực tiếp với những đối tượng học tập này 
sẽ giúp HS có hiểu biết về môi trường tự 
nhiên và xã hội xung quanh, từ đó biết 
ứng xử đúng để có thể thích ứng và hội 
nhập. 
Với khuôn khổ một tài liệu in ấn, 
SGK chỉ có thể sử dụng kênh hình là 
hình vẽ hay ảnh chụp để hướng dẫn trẻ 
tri giác sự vật, hiện tượng. Điều này gây 
khó khăn cho HS khi tư duy của trẻ ở giai 
đoạn này là tư duy trực quan cụ thể, nhận 
thức cảm tính. Chỉ bằng con đường tri 
giác trực tiếp các sự vật, hiện tượng, các 
thuộc tính tâm lí của trẻ như trí nhớ, tư 
duy, tưởng tượng sẽ dần phát triển và 
hoàn thiện. Mặc dù minh họa trong SGK 
cũng được coi là phương tiện dạy học 
trực quan tốt, nhưng nhiều khi chúng 
không thể thay thế môi trường thật sinh 
động, gần gũi với HS. Đối với những đối 
tượng học tập như hiện tượng trời nắng, 
trời mưa, bầu trời, các đám mây..., khung 
cảnh lớp học, trường học, gia đình hay 
làng xã, phố phường, HS nên được 
quan sát, tìm hiểu trực tiếp. 
3.3. Đối với những nội dung dạy học 
đòi hỏi HS phải được thực hành hay 
làm thí nghiệm 
Một phần kiến thức môn TN - XH 
là các nội dung về khoa học thực nghiệm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
130 
liên quan đến vật lí, hóa học, sinh học 
thuộc chủ đề Vật chất và Năng lượng, 
Thực vật và Động vật. Để giúp HS có cái 
nhìn biện chứng về thế giới xung quanh 
và tạo niềm tin khoa học ở các em, 
phương pháp thí nghiệm - thực hành nên 
được sử dụng thường xuyên. Trên thực tế, 
một số bài học trong SGK phân môn 
Khoa học đã được xây dựng theo hướng 
này. Tuy nhiên, với các chỉ dẫn quá cụ 
thể và chi tiết, GVTH thường hiểu và áp 
dụng rất máy móc. Đặc biệt đối với một 
số bài có những ảnh chụp đồ dùng thí 
nghiệm như chai, lọ có sẵn, GV thường 
than phiền là họ không biết tìm những 
chai lọ này ở đâu, mặc dù những chai lọ 
này có thể thay thế bằng những vật dụng 
khác một cách dễ dàng (Bài 35: Không 
khí cần cho sự cháy, bài 82: Âm thanh -
Khoa học 4). Lâu dần, GV có tâm lí ngại 
hoặc sợ dạy những nội dung này. Ngoài 
ra, không ít trường hợp SGK cung cấp 
kiến thức một cách áp đặt. Ví dụ: “Nhiệt 
độ của nước đang sôi là 100 độ C, của 
nước đá đang tan là 0 độ C” (Bài 50: 
Nóng, lạnh và nhiệt độ - Khoa học 4)... 
3.4. Đối với những nội dung dạy học 
đòi hỏi áp dụng công nghệ thông tin 
Trong dạy học TN - XH, rất cần 
đến dữ liệu điện tử trong các trường hợp 
như: khi cần cung cấp những sự vật, hiện 
tượng, những động thực vật xa lạ, khó 
hình dung đối với trẻ như hệ Mặt trời, sự 
sinh sản của côn trùng, của ếch, về thời 
tiết khắc nghiệt cũng như một số loài 
động vật đặc hữu của châu Nam Cực..., 
những hiện tượng xảy ra quá chậm hoặc 
quá nhanh hay các hiện tượng khó quan 
sát, nắm bắt như hạt nảy mầm, sự hô hấp 
hay quang hợp của cây xanh, đường đi 
của máu trong cơ thể, sự tiêu hóa thức 
ăn... Ngoài ra như đã đề cập, trẻ TH có tư 
duy trực quan sinh động, cụ thể. Những 
dữ liệu điện tử thường có ưu thế là màu 
sắc, âm thanh sống động nên hấp dẫn trẻ 
hơn so với những hình ảnh minh họa đơn 
điệu trong SGK. 
4. Kết luận và kiến nghị 
Mặc dù không thể phủ định vai trò 
chính của SGK nói chung, SGK môn TN 
- XH nói riêng, là chuyển tải nội dung 
chương trình đến người học một cách 
hiệu quả nhất, có thể thấy SGK, SGV 
hoặc sách thiết kế môn học trong rất 
nhiều trường hợp cũng chỉ đóng vai trò là 
một trong nhiều những phương tiện dạy 
học. Vì vậy, GVTH không cần thiết và 
không nên chỉ tuân thủ những chỉ dẫn 
trong những tài liệu này mà phải biết sử 
dụng nhiều phương tiện và hình thức tổ 
chức dạy học khác nhau, phù hợp với 
những nội dung dạy học và đối tượng HS 
cụ thể. 
Vậy, làm gì để GVTH có thể mạnh 
dạn thoát li SGK trong dạy học TN - XH 
ở TH? Có lẽ nên và cần thiết tiếp tục thực 
hiện một số biện pháp sau: 
Thứ nhất, xúc tiến và ban hành cơ 
chế nhiều bộ SGK môn TN - XH cũng 
như các môn học khác nói chung cho các 
vùng miền khác nhau trên cả nước. Như 
vậy, GV và HS chắc chắn sẽ có nhiều lựa 
chọn phù hợp hơn trong việc dạy và học 
môn học. 
Thứ hai, áp dụng triệt để tinh thần 
Thông tư 30 của Bộ Giáo dục và Đào tạo 
về đánh giá HS TH theo hướng phát huy 
các năng lực cá nhân. Cách đánh giá 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đỗ Thị Nga 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
131 
bằng nhận xét, đánh giá theo hướng tiếp 
cận năng lực chắc chắn sẽ “cởi trói” cho 
cả GV và HS, làm cho việc dạy và học 
trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. 
Thứ ba, tiếp tục bồi dưỡng, nâng 
cao năng lực quản lí và đánh giá của đội 
ngũ QLGD. Hơn ai hết, đội ngũ QLGD 
phải am hiểu chương trình, SGK, có năng 
lực đánh giá thực sự thì mới đánh giá 
đúng, công bằng, GV mới “tâm phục, 
khẩu phục” và có ý thức trau dồi nghiệp 
vụ. Ngoài ra, cần tiếp tục bồi dưỡng, 
nâng cao tay nghề cho GV qua các lớp 
bồi dưỡng chuyên môn, tập huấn, nâng 
chuẩn GV 
Thứ tư, giảm bớt áp lực từ các hoạt 
động phong trào, tạo điều kiện cho GV 
tập trung vào chuyên môn nhiều hơn để 
họ nhận thức được rằng ngày nay, SGK 
không còn là nguồn cung cấp kiến thức 
duy nhất. Ngoài SGK, HS có thể tiếp cận 
với nhiều nguồn thông tin khác nhau từ 
internet, báo chí, truyền hình, từ các 
phương tiện dạy học khác nhau Như 
vậy, việc dạy học chỉ bằng SGK như hiện 
nay của một bộ phận GV chắc chắn sẽ 
được xem xét lại. 
Thứ năm, cần đánh giá giáo viên 
thực chất hơn qua việc nhìn nhận sự tiến 
bộ của HS với những am hiểu về khoa 
học, sự thuần thục về kĩ năng cũng như 
niềm vui và hứng thú học tập của các em. 
Có như vậy, người GV mới có động lực 
để thực hiện tốt hơn vai trò tổ chức, 
hướng dẫn HS phát huy các năng lực cá 
nhân trong học tập cũng như trong rèn 
luyện nhân cách. 
Giáo án sau đây sẽ minh họa cho 
việc có thể thoát li hoàn toàn SGK mà 
vẫn đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu của 
bài học bằng cách sử dụng môi trường tự 
nhiên để dạy học (xem phụ lục). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Sách giáo viên, sách giáo khoa Tự nhiên và xã hội 1, 
2, 3; Khoa học, Lịch sử và địa lí 4, 5. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư ban hành quy định đánh giá học sinh tiểu 
học – Số 30/2014/TT-BGDĐT. 
3. Hoàng Hòa Bình, Nguyễn Minh Thuyết (2012), Phương pháp dạy học Tiếng Việt nhìn 
từ tiểu học, Nxb Giáo dục Việt Nam. 
4. Đỗ Thị Nga (2013), Dạy học Tự nhiên - Xã hội ở tiểu học bằng phương pháp Bàn tay 
nặn bột, Nxb Giáo dục Việt Nam . 
5. Hoàng Thị Tuyết (2012), Lí luận dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, Nxb Thời đại. 
6. Nguyễn Thị Thấn (chủ biên), Nguyễn Thượng Giao, Đào Thị Hồng, Nguyễn Thị 
Hường, Nguyễn Tuyết Nga (2009), Phương pháp dạy học các môn học về tự nhiên và 
xã hội, Nxb Đại học Sư phạm. 
7. Nguyễn Khắc Viện (1998), Tâm lí học sinh tiểu học, Nxb Trẻ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
132 
PHỤ LỤC 
Bài 32: GIÓ (Tự nhiên và Xã hội 1) 
1. Mục tiêu bài học 
 Kiến thức: Qua bài học, HS biết: 
- Gió là một hiện tượng tự nhiên. 
- Con người có thể cảm nhận được bằng giác quan khi gió thổi vào người. 
- Nhận ra các dấu hiệu trời có gió hay không, gió nhẹ hay gió mạnh; 
 Kĩ năng: Hình thành ở HS một số kĩ năng khoa học cơ bản: 
- Kĩ năng quan sát: Quan sát bằng các giác quan như mắt nhìn, tai nghe, cảm nhận qua 
da các dấu hiệu tồn tại của gió; 
- Kĩ năng diễn đạt bằng lời nói; 
- Kĩ năng hợp tác làm việc nhóm; 
 Thái độ: Hình thành ở HS những thái độ tích cực: 
- Yêu thích tìm hiểu môi trường xung quanh; 
- Tò mò, ham hiểu biết về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên; 
2. Trình bày bài học trong SGK 
3. Phương tiện dạy học 
- Môi trường tự nhiên với điều kiện thời tiết thuận lợi, có gió thổi; 
- Một chuông lắc tay (hay còi) để tập hợp HS (có thể vỗ tay thay thế); 
- Một số chong chóng đồ chơi đủ cho các nhóm HS. 
4. Không gian tổ chức dạy học: Bên ngoài lớp học (sân trường, công viên) 
5. Các hoạt động dạy học 
Hoạt động 1. Giới thiệu bài mới (5p): 
Mục tiêu: Nêu vấn đề, khơi gợi óc tò mò ham hiểu biết khoa học ở HS; 
Hướng dẫn thực hiện: 
Bước 1. GV đưa HS ra sân trường, xếp hàng ngay ngắn ở chỗ có cây xanh râm mát. GV 
cho HS xem cái chong chóng và nêu vấn đề: 
- Cô có cái gì trên tay ? (chong chóng) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đỗ Thị Nga 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
133 
- Chong chóng đang làm gì ? (đang quay) 
- Chong chóng quay được là nhờ có gì ? (gió) 
Bước 2. GV giới thiệu bài: Như vậy, lúc này trời đang có gió thổi. Hôm nay chúng ta sẽ 
cùng tìm hiểu về gió 
Hoạt động 2. Quan sát-Vấn đáp (15-20 ph.) 
Mục tiêu 
- HS nhận biết các dấu hiệu cho thấy trời đang có gió 
- HS có kĩ năng quan sát các sự vật, hiện tượng tự nhiên 
Bước 1: Chia nhóm HS, giao nhiệm vụ: (5 ph) 
Hướng dẫn thực hiện: 
- GV chia nhóm, đặt tên nhóm HS (có thể là: nhóm Nắng, nhóm Bầu trời, nhóm Mặt 
trời), cử nhóm trưởng 
- GV giao nhiệm vụ, cho HS nhắc lại nhiệm vụ vài lần để ghi nhớ; 
+ Nhiệm vụ 1: Quan sát xung quanh, tìm những dấu hiệu cho biết trời đang có gió. 
+ Nhiệm vụ 2: Cho biết: khi gió thổi vào người, bạn cảm thấy thế nào ? 
- Gợi ý thực hiện nhiệm vụ: Quan sát cây cối, quan sát quần áo hay tóc của bạn, áo dài 
của cô giáo, quan sát lá cờ (nế có) để tìm ra những dấu hiệu trời đang có gió; đứng yên 
lặng, nhắm mắt lại để cảm nhận cảm giác lúc gió thổi vào người 
- Quy định an toàn, khen thưởng: GV dặn dò HS không đi quá xa, không vào khu vực 
bếp ăn, không ra ngoài cổng trường không chạy nhảy, la hét ảnh hưởng đến các lớp khác 
(nếu HS quan sát ở sân trường); đi theo nhóm, nhóm trưởng có nhiệm vụ bao quát nhóm, 
nghe tiếng lắc chuông của GV phải trở về nơi tập kết; nhóm nào hoàn thành tốt nhiệm vụ 
sẽ được tham gia chơi trò chơi “Chong chóng quay” 
Bước 2. Quan sát - vấn đáp 
Hướng dẫn thực hiện 
HS tiến hành quan sát theo nhóm, GV theo dõi các nhóm HS, giúp đỡ nếu cần thiết. 
Sau đó, HS tập hợp theo hiệu lệnh của GV về nơi tập kết. GV nhắc lại nhiệm vụ quan sát, 
cho HS trao đổi với các bạn trong nhóm về những gì mình quan sát được. Nhóm trưởng 
thay mặt nhóm báo cáo kết quả quan sát của nhóm. GV khen ngợi HS, tuyên dương các 
nhóm làm tốt nhất, giới thiệu HĐ tiếp theo: Trò chơi “Chong chóng quay”. 
Hoạt động 3. Trò chơi “Chong chóng quay”. (7-10 ph) 
Mục tiêu 
- HS tiếp tục tìm hiểu về gió thông qua trò chơi; 
- Tạo không khí thi đua vui vẻ, nhẹ nhàng giúp HS tích cực tham gia hoạt động 
Hướng dẫn thực hiện 
GV phát cho mỗi nhóm 01 chong chóng, phổ biến luật chơi: lần lượt mỗi thành viên 
của mỗi nhóm sẽ cầm chong chóng trên tay, xếp hàng, chạy một vòng xung quanh chỗ tập 
kết sao cho chong chóng của mình quay thật nhanh, thật đẹp. Các bạn còn lại vỗ tay cổ vũ 
cho bạn mình. Sau khi HS thực hiện xong trò chơi, GV nhận xét, khen ngợi cả lớp. Tiết 
học kết thúc. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 30-3-2015; ngày phản biện đánh giá: 20-5-2015; 
ngày chấp nhận đăng: 05-6-2015) 

File đính kèm:

  • pdfthoat_li_sach_giao_khoa_trong_day_hoc_tu_nhien_xa_hoi_o_tieu.pdf
Ebook liên quan