Thư viện số khái niệm và thách thức

Tóm tắt Thư viện số khái niệm và thách thức: ...ư viện số cung cấp liên kết tới thông tin, thư viện số phải quyết định kiểu truy cập được cung cấp. Các vấn đề liên quan về quyền sở hữu và lưu trữ thông tin ngày càng trở nên quan trọng. Mạng thư viện Máy chủ thư viện Máy chủ từ xa PC thư viện PC tại nhà MODEM 5 3.2 Chỉ số hoá ...à nhà cung cấp thông tin khác, cả về mặt kinh tế lẫn về cải thiện mức dịch vụ.  Truyền thông khoa học: bài toán giá rất gay gắt vốn gắn với truyền thông khoa học truyền thống (như giá cung cấp truy cập quá mức tới số tạp chí học thuật thích hợp, tới bảo trì mức dịch vụ đầy đủ). 4. 2 Cải t...uy cập nhất quán và rõ ràng tới các lớp đối tượng số và dịch vụ tương tự, phân tán qua các kho không đồng nhất, cùng với tổ chức và dàn xếp bù phần mềm cho những biến đổi theo từng điểm. Để đạt được tính tương hỗ ngữ nghĩa đòi hỏi mô tả bằng tìm kiếm, trao đổi đối tượng và các giao thức tìm ...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Thư viện số khái niệm và thách thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 một trang Web là đơn giản. Sử dụng Z39.50 hạn chế người 
dùng tìm kiếm phân tán. CORBA là con đường tương lai. Nó là linh động hơn và cung cấp 
khả năng cho một môi trường tích hợp nhiều hơn Z39.50. 
2.2 Tài nguyên 
2.2.1 Phần cứng 
Phần cứng là một thành phần chính, bao gồm: máy chủ, terminal và mạng. Có ba 
loại terminal: (1) máy tính gia đình, người sử dụng làm việc tại nhà và dùng modem để truy 
cập các dịch vụ; (2) terminal trong thư viện; (3) máy tính mạng. Tất cả terminal được kết 
nối tới máy chủ có thể đặt ở thư viện hoặc ở trường học qua mạng. 
2.2.2 Đội ngũ 
Đội ngũ của một thư viện số không chỉ là những kỹ thuật viên, nhà quản lý thư 
viện hệ thống và nhân viên thư viện dịch vụ điện tử, mà là tất cả cán bộ của một thư viện 
truyền thống. 
4Hình 2 
3. Xây dựng thư viện số
Quá trình xây dựng một thư viện số điển hình bao hàm các pha sau:
 Tạo lập nội dung thư viện số
 Chỉ số hoá và lọc thông tin
 Trợ giúp truy cập phổ quát
 Bảo quản.
3.1 Tạo lập nội dung thư viện số 
Thứ nhất, khi tạo lập một thư viện số, phải xác định loại thông tin cung cấp và loại 
thông tin loại bỏ. Không may, hầu hết thông tin thư viện số muốn cung cấp không được số 
hoá, nên yêu cầu bổ sung là xác định các quyền ưu tiên số hoá và các quá trình chuyển đổi. 
Thứ hai là bản chất động của thông tin số hoá. Nội dung có thể thay đổi theo thời 
gian, đòi hỏi lưu trữ nhiều ấn bản, phải có cơ chế cho phép phân biệt ấn bản. Những thách 
thức liên quan khác bao gồm định danh các phương pháp bắt và chỉ số hoá vật tải liên tục ở 
thời gian thực và các kỹ thuật đối với xử lý, lưu trữ và quản trị lượng thông tin rất lớn và 
phức tạp. 
Thứ ba, vì các liên kết siêu văn bản cho phép thư viện số cung cấp liên kết tới 
thông tin, thư viện số phải quyết định kiểu truy cập được cung cấp. Các vấn đề liên quan về 
quyền sở hữu và lưu trữ thông tin ngày càng trở nên quan trọng. 
Mạng 
thư viện 
 Máy chủ
thư viện
Máy chủ 
từ xa PC thư viện
PC tại nhà
MODEM 
 5
3.2 Chỉ số hoá và lọc thông tin 
Sau khi vấn đề thu thập và lưu trữ được giải quyết, thách thức tiếp theo là tìm ra 
cách làm cho thông tin thích hợp có thể có đối với cá nhân có quyền tại thời điểm thích hợp. 
Các khách hàng phải có khả năng định danh, định vị và lọc thông tin sao cho chỉ thông tin 
thích hợp được đáp ứng và tổ chức nó thành các đơn vị quản lý được thông qua xếp hạng và 
phân loại. Tác nhân trí tuệ nhân tạo có thể được sử dụng nhiều để định vị và lọc thông tin 
trong tương lai. 
Có hai loại quá trình định vị thông tin khác nhau: 
 Loại thứ nhất là hữu ích trong tìm kiếm rộng, trong đó thông tin không cần được 
xác định cụ thể. Thông tin thích hợp bị tản mát nhiều trong một số nguồn tin 
không đồng nhất phân tán. Thách thức chính là biểu diễn tích hợp thông tin không 
liền mạch tới khách hàng. Sự lựa chọn là cung cấp các kỹ thuật tổ chức và phân 
loại có hiệu quả bó chùm thông tin thành đơn vị quản lý được. 
 Loại thứ hai bao hàm tìm kiếm trọng tâm, hoàn toàn xác định và rất hẹp. Loại này 
đòi hỏi thông tin rất chi tiết. Vì tính chính xác là quan trọng nhất, các kỹ thuật lọc 
hiệu quả được dùng nhằm đáp ứng một lượng thông tin thích hợp nhất. 
Mặt khác, giao diện người dùng là rất quan trọng. Thậm chí thông tin thích hợp nhất 
là không có giá trị, nếu khách hàng không hiểu sự trình bày. Những thư viện số tốt nhất là 
đồng dạng nhưng tuỳ biến, giao diện người dùng động có thể tích hợp trơn tru các kiểu dữ 
liệu thông thường từ nguồn có cấu trúc và không có cấu trúc với các kiểu dữ liệu đặc biệt 
(bản đồ, dữ liệu ba chiều và dữ liệu đồ hoạ liên tục). Những hệ thống này kết hợp các giải 
thuật và kỹ thuật cho phép tương hỗ ngữ nghĩa, sao cho người sử dụng có thể tìm kiếm ở 
lĩnh vực tri thức xa lạ bằng từ vựng và bản thể quen thuộc. 
Vấn đề quan trọng khác của định vị thông tin là tìm ra quan hệ khoá, đặc biệt trong 
các nguồn tin không đồng nhất phân tán. Khai mỏ dữ liệu, trích lọc mẫu, liên kết và dị 
thường từ những nguồn dữ liệu lớn là lĩnh vực nghiên cứu đầy hứa hẹn, có thể tạo ra phần 
đáng kể đối với các ứng dụng thư viện số multimedia cỡ lớn phức tạp. 
3.3 Trợ giúp truy cập phổ quát 
Mục đích cuối cùng của một thư viện số là truy cập phổ quát, phù hợp với mục đích 
thư viện truyền thống là cung cấp truy cập thông tin công cộng. Nhằm thực hiện truy cập 
phổ quát, thư viện số cần phải giải quyết bài toán tích hợp thông tin và các nguồn tin không 
đồng nhất phân tán bằng cách thiết kế và cài đặt giao diện người dùng hiệu quả và giải 
quyết bài toán từ vựng. 
Một trong những thách thức với cung cấp truy cập phổ quát là tạo ra các kỹ thuật trợ 
giúp tính đa dạng của thiết bị hiển thị thông tin trong điều khiển thông tin. Không chỉ có 
tính đa dạng của các hệ điều hành trong lĩnh vực máy tính, mà còn có tính đa dạng của các 
thiết bị hiển thị như tivi, máy fax, màn hình video và các thiết bị thông tin khác. 
Thách thức chủ yếu khác là làm sao cho băng thông hạn chế có thể dùng được cho 
truyền thông tin thích nghi với số lượng người sử dụng tăng lên và kho dữ liệu lớn hơn, 
phức tạp hơn. Để đạt được truy cập phổ quát hợp lý, sự sử dụng thông minh băng thông, bao 
hàm khả năng bảo đảm băng thông cho một khoảng thời gian cho trước được định rõ và các 
chính sách trợ giúp sử dụng được ban hành. 
3.4 Bảo quản 
 6
Vật tải điện tử không dễ phân huỷ như các loại khác. Tuy nhiên, sự thay đổi liên tiếp 
và sự nâng cấp khác ở dạng tài liệu điện tử (như chuẩn MARC, SGML, HTML, XML, 
.v.v...) và các vấn đề không tương thích cần phải được quan tâm chu đáo để bảo vệ dữ liệu. 
4. Những áp lực thúc đẩy và xu hướng phát triển của thư viện số 
Hơn 10 năm qua, có một số lợi ích khiến sự chuyển tiếp tới và sự mở rộng thư viện 
số được kiên trì ủng hộ. Bốn áp lực và xu hướng chính là: kinh tế, sự truy cập, công nghệ 
mới và các chuẩn. 
4.1 Kinh tế 
Sản xuất, lưu trữ, phân phối và tái sản xuất thông tin điện tử là rẻ hơn so với thông 
tin truyền thống. Hơn nữa, các thư viện số có thể hợp tác với nhau bằng cách cung cấp một 
cổng (liên kết) tới thông tin quản lý hoặc cung cấp bởi thư viện khác, cho phép chuyên môn 
hoá cũng như duy trì ngân sách thu thập và sản xuất trong khi vẫn cung cấp truy cập tới một 
lượng lớn thông tin. Những áp lực kinh tế khác hướng thư viện đến số hoá bao gồm: 
 Lạm phát: sự tăng nhanh giá điều hành thư viện, đặc biệt ở thu thập hoặc mở rộng 
kho tài liệu các tạp chí học thuật. Trong 20 năm qua, giá tạp chí tăng vọt lên 400% 
trong khi giá sách và sách chuyên khảo tăng 40%. 
 Khối lượng: sự bùng nổ về lượng, tính đa dạng và tính phức tạp của thông tin. 
 Bảo trì: sự khủng hoảng bảo quản ở các kho tài liệu đang tồn tại, đặc biệt là giấy a 
xít. 
 Multimedia: lượng thông tin multimedia tăng lên đòi hỏi các tiện ích xem hoặc nghe 
đặc biệt và các yêu cầu phân thành mục lục và lưu trữ khác. 
 Sự cộng tác: những ưu điểm từ tài nguyên chia sẻ trong các thư viện và nhà cung cấp 
thông tin khác, cả về mặt kinh tế lẫn về cải thiện mức dịch vụ. 
 Truyền thông khoa học: bài toán giá rất gay gắt vốn gắn với truyền thông khoa học 
truyền thống (như giá cung cấp truy cập quá mức tới số tạp chí học thuật thích hợp, 
tới bảo trì mức dịch vụ đầy đủ). 
4. 2 Cải thiện mức dịch vụ 
Thư viện số có khả năng cung cấp một mức dịch vụ không thể đạt được trước đây, 
nghĩa là sự tìm kiếm câu và từ riêng lẻ và phân phát thông tin tới người dùng, một thông tin 
không bị phân huỷ theo thời gian, dù nó là văn bản, âm thanh hoặc ảnh. Thông tin trước đây 
là không có sẵn hoặc khó thu thập, hiện nay thường là sẵn có về mặt điện tử. Truy cập thông 
tin có thể được cải thiện bằng một số cách: thời gian truy cập/tốc độ tìm kiếm, tính sẵn có, 
nội dung/tính thích đáng, tính trực quan đã cải thiện/giao diện người dùng. Về mặt lịch sử, 
sự nghiên cứu nâng cao chất lượng dịch vụ thư viện tập trung vào sự cải thiện nói chung tới 
truy cập thông tin. Xu hướng hiện tại là tuỳ biến riêng lẻ hoặc đáp ứng các phương pháp 
truy cập thông tin và giao diện người dùng. 
Do đặc điểm sản xuất và phân phối thông tin điện tử, có những tiết kiệm đáng kể về 
thời gian từ sản xuất tới sử dụng. Thông tin điện tử chỉ cần tạo lập và lưu trữ một lần là ngay 
lập tức sẵn có trên mạng đồng thời tới nhiều người dùng, trái với nhiều bản sao chép được 
tạo ra theo thời gian và cung cấp qua các kênh phân phối truyền thống. Chẳng hạn, nhiều 
Website Internet mới đưa ra thông tin ở thời gian thực, không có thời gian trễ trong in ấn và 
phân phối. 
 7
4.3 Sử dụng công nghệ mới 
Để đáp ứng có hiệu quả nhu cầu thông tin của khách hàng, thư viện số cần sử dụng 
một tổ hợp những thành tựu công nghệ và có khả năng thiết kế, xây dựng, quản trị và sử 
dụng các mạng điện tử toàn cầu. Nó phải có khả năng thích nghi nhanh với những thay đổi 
động trong công nghệ và đương đầu với kích cỡ, quy mô và tính phức tạp của các mạng lẫn 
thông tin có sẵn truyền qua chúng. 
Nhiều thành tựu công nghệ trong sản xuất, quản trị và phân phối thông tin là nguyên 
nhân tạo khả năng cho thư viện số, bao gồm: 
 Vật tải lưu trữ; 
 Số hoá hoặc các kỹ thuật bắt thông tin (như công nghệ nhận dạng ký tự quang OCR); 
 Chỉ số hoá tự động và tổ chức lượng thông tin lớn; 
 Tốc độ tính toán; 
 Công nghệ mạng (bao hàm nén dữ liệu); 
 Tìm kiếm và phục hồi dựa trên nội dung; 
 Tìm kiếm và phục hồi dựa trên đặc tính hoặc dựa trên kết cấu; 
 Chỉ số hoá toàn văn; 
 Khai phá tri thức hoặc tài nguyên; 
 Multimedia và siêu văn bản hypertext; 
 Các chuẩn: SGML (Standard General Markup Language), HTML (Hypertext 
Markup Language) và Z39.50; 
 Các kỹ thuật hướng đối tượng; 
 Cải tiến trong thiết kế giao diện người dùng và trực quan dữ liệu. 
4.4 Các chuẩn 
Để thư viện số thực sự là cổng toàn cầu, quan trọng là có các chuẩn kỹ thuật được thế 
giới chấp nhận đối với biểu diễn, tạo dạng, truyền thông tin và các giao thức. Đây là cách 
duy nhất đảm bảo tính tương thích. Vì thế, tính tương thích giữa thiết bị, dữ liệu, thực hành 
và thủ tục là cần thiết nhằm đạt được truy cập phổ quát và trao đổi thông tin điện tử toàn 
cầu. Không may, có nhiều rào cản xã hội, văn hoá và chính trị trước phát triển các chuẩn 
quốc tế, ngay cả khi lợi ích là rõ ràng với tất cả mọi người. 
Một số tổ chức quốc tế để hết tâm trí vào phát triển chuẩn, bao gồm: Tổ chức chuẩn 
hoá quốc tế ISO (International Organization for Standardization) - có trách nhiệm đối với 
ngôn ngữ đánh dấu chung chuẩn hoá SGML; IETF (Internet Engineering Task Force) quan 
tâm đặc biệt đến kiến trúc Internet, tương tác và vận hành Internet. Một trong những chuẩn 
quan trọng nhất từ viễn cảnh thư viện số là chuẩn tìm kiếm thông tin phân tán Z39.50. 
Trong khi các chuẩn tài liệu và thông tin như SGML, HTML, TEI (Text Encoding 
Initiative), VRML (Virtual Reality Modeling Language) và MARC (Machine-Readable 
Cataloging) tồn tại, trên thực tế, hầu hết sự trao đổi thông tin điện tử xảy ra qua E-mail, FTP 
nặc danh, Gopher và các nền tảng trình duyệt Web với TeX, LaTeX, PostScript, PDF, văn 
bản ASCII và tài liệu định dạng Word và WordPerfect. Hầu hết trong những dạng này 
không có các cơ chế phân biệt phần đóng góp của nhiều tác giả hoặc nhiều ấn bản, cũng 
không có khả năng bao hàm các liên kết động tới thông tin khác. Nhiều dạng sử dụng trong 
thực tế là thương mại, giữ độc quyền và vì thế chúng không có khả năng truy cập phổ quát. 
 8
5. Các vấn đề nghiên cứu thư viện số trong tương hỗ ngữ nghĩa 
5.1 Tính tương hỗ ngữ nghĩa là thách thức lớn 
Cách nhìn chia sẻ là một mạng toàn thể các kho phân tán, trong đó loại đối tượng 
bất kỳ có thể được tìm qua các tập hợp chỉ số khác nhau. Tương lai gần, các công nghệ phải 
được phát triển để tìm kiếm trong suốt qua các kho phân tán, điều khiển bất kỳ những biến 
đổi ở các giao thức và dạng, nghĩa là quan tâm tính tương hỗ cấu trúc. Tương lai xa, các 
công nghệ phải được phát triển để điều khiển trong suốt những biến đổi ở nội dung và tri 
thức. Đây là những bước đi theo cách đối sánh khái niệm yêu cầu bởi người sử dụng với đối 
tượng chỉ số hoá trong kho tài liệu. 
Tính tương hỗ ngữ nghĩa sâu sa là khả năng của người sử dụng truy cập nhất quán 
và rõ ràng tới các lớp đối tượng số và dịch vụ tương tự, phân tán qua các kho không đồng 
nhất, cùng với tổ chức và dàn xếp bù phần mềm cho những biến đổi theo từng điểm. Để đạt 
được tính tương hỗ ngữ nghĩa đòi hỏi mô tả bằng tìm kiếm, trao đổi đối tượng và các giao 
thức tìm kiếm đối tượng. Vấn đề ở đây bao hàm định nghĩa, sử dụng, bắt và tính toán siêu 
dữ liệu từ các đối tượng, cả văn bản lẫn multimedia, sử dụng mô tả đối tượng tính toán, tổ 
chức và tích hợp các kho không đồng nhất với ngữ nghĩa khác hẳn nhau, bó chùm và tổ 
chức phân cấp tự động thông tin, các giải thuật đánh giá tự động, xếp hạng và thẩm định 
chất lượng, thể loại và các đặc tính thông tin khác. 
Định nghĩa và sử dụng siêu dữ liệu, bó chùm và tổ chức phân cấp tự động thông tin 
là các thành phần chính để xây dựng các hệ thống phân loại tự động đối với thư viện số. 
5.2 Nghiên cứu về tính tương hỗ 
Các hệ thống phân loại thư viện và các từ điển đồng nghĩa chủ đề riêng biệt như 
phân loại thư viện quốc hội Mỹ, phân loại Dewey và hệ thống ngôn ngữ y học thống nhất 
UMLS là những nỗ lực đáng kể của con người để có người quản lý thư viện được huấn 
luyện giỏi về hệ thống phân loại, gán nhãn tri thức nhất quán. Các hệ thống phân loại thư 
viện và các từ điển đồng nghĩa thường bắt danh từ/cụm danh từ và chỉ biểu diễn các quan hệ 
hạn chế. Biểu diễn này thường thô nhưng chính xác. 
Các biểu diễn trí tuệ nhân tạo như mạng ngữ nghĩa, hệ chuyên gia và bản thể học 
phản ảnh cách tiếp cận bắt tri thức khác. Các biểu diễn như thế thường giàu hơn và mịn hơn. 
Chỉ các nguyên mẫu thực nghiệm trong những lĩnh vực hẹp được tạo ra. Tính hữu ích của 
chúng trong các ứng dụng thư viện số cỡ lớn vẫn là đáng nghi ngờ. 
Cách tiếp cận truyền thống để tạo ra các hệ thống phân loại và nguồn tri thức trong 
khoa học thư viện và trí tuệ nhân tạo kinh điển thường được xem xét từ trên xuống top-
down vì biểu diễn tri thức và dạng được định nghĩa trước bởi các chuyên gia và nhà quản lý 
thư viện có kinh nghiệm. Quá trình sáng tạo tri thức là có cấu trúc và hoàn toàn xác định. 
Cách tiếp cận từ dưới lên bottom-up bổ sung để sáng tạo tri thức được đề xuất bởi các nhà 
nghiên cứu về học máy, phân tích thống kê và mạng nơ-ron. 
Dựa vào cơ sở dữ liệu thực, các nhà nghiên cứu phát triển các chương trình phân 
đoạn và chỉ số hoá tài liệu một cách hệ thống, nhận dạng mẫu trong các cơ sở dữ liệu 
multimedia khác nhau. Phân tích các cơ sở dữ liệu chứa dữ liệu có cấu trúc và số thường 
được coi là khai thác dữ liệu/khám phá tri thức. Tạo ra tri thức một cách giải thuật từ các cơ 
sở dữ liệu multimedia, đặc biệt là văn bản được coi là lõi của quản trị tri thức. 
 9
Trong số các kỹ thuật phân tích và chỉ số hoá ngữ nghĩa được coi là có thể mở rộng 
được, các lớp giải thuật và phương pháp sau đây được khảo sát và thử nghiệm trong thư 
viện số. 
 5.2.1 Nhận dạng đối tượng, phân đoạn và chỉ số hoá 
Các kỹ thuật quan trọng nhất trong tìm kiếm thông tin bao hàm nhận dạng đặc tính 
khoá ở đối tượng. Chỉ số hoá tự động và xử lý ngôn ngữ tự nhiên thường được dùng để trích 
lọc tự động từ khoá/cụm danh từ có nghĩa từ văn bản. Các kỹ thuật chỉ số hoá và phân đoạn 
dựa vào văn bản, màu sắc và hình dạng thường được dùng để nhận dạng ảnh. Đối với ứng 
dụng audio và video, nhận dạng tiếng nói và phân đoạn cảnh được dùng để nhận dạng ký 
hiệu có nghĩa trong luồng audio và video. 
Thư viện số phát triển một kỹ thuật phân đoạn danh từ đối với chỉ số hoá tài liệu 
văn bản. Đối với chỉ số hoá thuật ngữ, chỉ số hoá cụm danh từ để xác định các khái niệm từ 
một kho tài liệu. Nó bắt đầu với một quá trình mã hoá văn bản để tách biệt ký tự phân cách 
và các ký hiệu. Nó tuân theo chỉ mục tiếng nói từng phần POST và các luật phân đoạn danh 
từ ngữ pháp. Đối với thư viện số, kỹ thuật phân đoạn danh từ sản xuất chỉ số chính xác hơn 
chỉ số hoá từ đảo và trợ giúp tìm kiếm dựa vào nội dung. Bằng cách dùng kỹ thuật xử lý 
ngôn ngữ tự nhiên mở rộng được, thư viện số có khả năng chỉ số hoá hiệu quả, tự động và 
chính xác các kho tài liệu của riêng nó. 
5.2.2 Phân tích ngữ nghĩa 
Một số lớp kỹ thuật được sử dụng đối với phân tích ngữ nghĩa văn bản và đối tượng 
bao gồm: 
 Học máy ký hiệu như không gian ấn bản. 
 Thu gộp và phân loại dựa vào đồ thị như thu gộp phân cấp của Ward. 
 Phân tích thống kê đa mục tiêu như chỉ số hoá ngữ nghĩa, xác định tỷ xích 
đa chiều, hồi quy. 
 Tính toán dựa vào mạng nơ-ron nhân tạo như mạng lan truyền ngược, ánh 
xạ tự tổ chức Kohonen và lập trình tiến hoá/lập trình di truyền. 
Các kỹ thuật phổ biến này là lựa chọn tốt cho xử lý, phân tích và tóm tắt lượng 
thông tin multimedia lớn, thay đổi nhanh và khác nhau. 
Kỹ thuật không gian khái niệm là một ví dụ về phân tích thống kê, ngữ nghĩa kho 
tài liệu thư viện số cỡ lớn. Không gian khái niệm được tính toán cho các kho tài liệu có cỡ 
100000 trang Web, 1 triệu bản tóm tắt công nghệ và 10 triệu bản tóm tắt y học. 
5.2.3 Biểu diễn tri thức 
Các kết quả từ quá trình phân tích ngữ nghĩa có thể được trình bày bằng một trong 
những biểu diễn tri thức sau đây: 
 Các hệ thống phân loại 
 Các mạng ngữ nghĩa 
 Các luật quyết định hoặc logic vị từ. 
Nhiều nhà nghiên cứu cố gắng tích hợp các kết quả như thế với các cấu trúc tri thức 
sáng tạo của con người đang tồn tại như bản thể học, chủ đề và từ điển đồng nghĩa. Sự kích 
hoạt dàn trải dựa vào các phương pháp suy diễn thường được sử dụng để nghiên cứu kỹ 
lưỡng các cấu trúc tri thức cỡ lớn khác nhau. 
5.2.4 Tương tác người - máy HCI 
 10
Một trong những xu hướng chính ở hầu hết ứng dụng thư viện số là đặt trọng tâm 
vào HCI đồ hoạ thân thiện người dùng. Các trình duyệt dựa vào Web đối với văn bản, ảnh 
và video làm người sử dụng tăng thêm kỳ vọng về biểu diễn và thao tác thông tin. Những 
thành tựu ở các ngôn ngữ và nền tảng phát triển như Java, OpenGL, VRML và sự sẵn có 
của các workstation đồ hoạ cao cấp làm cho trực quan thông tin trở thành một lĩnh vực 
nghiên cứu nhiều triển vọng. 
Những thử nghiệm đầu tiên khẳng định sức quyến rũ đồ hoạ của trực quan 3D, đặc 
biệt đối với thế hệ Web gần đây. Nói riêng, hầu hết người sử dụng thư viện số có thể biểu lộ 
các phong cách nhận thức khác nhau và có xu hướng thích 3D hơn. Nghiên cứu HCI nhiều 
hơn trong ngữ cảnh của thư viện số là cần thiết vì sự phong phú về nội dung và dạng vật tải 
thư viện số và tính đa dạng trong phong cách và nhu cầu của người sử dụng. 
6. Kết luận 
Thư viện số là một dạng của công nghệ thông tin, trong đó ảnh hưởng xã hội có tính 
chất quan trọng như là thành tựu công nghệ. 
Thư viện số trở nên quan trọng về mặt quốc gia và quốc tế, một phần là do sự tăng 
theo hàm mũ của thông tin trên Web. 
Công nghệ thư viện số sẽ thống trị Internet của thế kỷ 21. Có một tỷ kho phân tán 
trên khắp thế giới, trong đó mỗi một cộng đồng nhỏ bảo trì một kho tài liệu tri thức riêng 
của mình. Chỉ số hoá ngữ nghĩa là có giá trị đối với mỗi một kho, dùng ngữ nghĩa mở rộng 
nhằm tạo ra trợ giúp tìm kiếm và điều hướng cho hệ thống thuật ngữ chuyên ngành của mỗi 
một cộng đồng. Sự chuyển qua khái niệm chỉ số hoá ngữ nghĩa tạo khả năng cho thành viên 
của một cộng đồng dễ dàng tìm kiếm hệ thống thuật ngữ của cộng đồng khác. 
 Tài liệu tham khảo 
[1] A.Barth, M.Breu, A.Endres, A.de Kemp, Digital Libraries in Computer Science, 
Springer, 1998. 
[2] B.R.Schatz, Information Retrieval in Digital Libraries, Science 275 (1997) 327-334. 
[3] I.H.Witten, R.McNab, The New Zealand Digital Library, The Electronic Library 15 
(1997) 495-504. 
[4] Special Issue of JNCA on Digital Libraries, Journal of Network and Computer 
Applications, Vol. 20, 1997. 
[5] K.Fullerton, J.Greenberg, M.McClure, E.Rasmussen, D.Stewart, A Digital Library for 
Education: the PEN-DOR Project, The Electronic Library 17 (1999) 75-82. 

File đính kèm:

  • pdfthu_vien_so_khai_niem_va_thach_thuc.pdf