Thực nghiệm một số phương pháp gợi ý nhằm phát triển kĩ năng nói tiếng anh cho học sinh tiểu học tại Thanh Hóa

Tóm tắt Thực nghiệm một số phương pháp gợi ý nhằm phát triển kĩ năng nói tiếng anh cho học sinh tiểu học tại Thanh Hóa: ...iểu học trong một tháng và sau đó yêu cầu học sinh điền vào câu hỏi khảo sát. Đại diện nhóm nghiên cứu đưa vào những hoạt động nói trong sách giáo khoa và sử dụng một số biện pháp mới để dạy nói cho học sinh trong một tháng. Sau đó tiếp tục yêu cầu học sinh diền vào câu hỏi khảo sát N...nói. Chủ đề thứ hai đề cập đến sự đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng các phương pháp của học sinh. Chủ đề thứ ba đề cập đến mong muốn của học sinh trong việc áp dụng các phương pháp vào trong kĩ năng nói. a) Cảm nhận và thái độ của học sinh đối với việc áp dụng các phương pháp trong...n quan đến bản thân một ai đó như là: tên, tuổi, nghề nghiệp, sở thích, quê quán, Gọi một vài học sinh đưa ra thông tin bằng cách sử dụng các cấu trúc giới thiệu về bản thân. Giáo viên ghi lại những thông tin đó vào bảng một cách ngắn gọn nhất. Sau đó giáo viên sẽ nói cho cả lớp biết về ...

pdf6 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Thực nghiệm một số phương pháp gợi ý nhằm phát triển kĩ năng nói tiếng anh cho học sinh tiểu học tại Thanh Hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tốt hơn và cải thiện nhận thức về 
ngôn ngữ. Khi áp dụng các cách thức nói trên 
vào thực tế giảng dạy, những gì nên được giữ 
trong tâm trí rằng tương tác là một cách quan 
trọng của việc học. Do đó, việc tăng cường 
phát âm cần được đưa vào giảng dạy của giáo 
viên để cung cấp cho học sinh nhiều thời gian 
nói. 
2.1.2. Đặc điểm của các hoạt động nói 
thành công 
Ur (1996) đã chỉ ra đặc điểm của hoạt động 
nói thành công như sau: 
(i) Người học nói rất nhiều: Người tham gia 
bài học nói có thời gian nói càng nhiều thì hoạt 
Số 3 (233)-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 
57
động nói càng thành công, và ngược lại bài học 
nói sẽ trở nên tẻ nhạt và nhàm chán nếu học 
sinh không tham gia tích cực và bài nói và sẽ 
không đạt hiệu quả. 
(ii)Động cơ học tập cao: Người học sẽ tham 
gia bài nói tích cực hơn khi họ cảm thấy thích 
thú với bài học đó và đó chính là động lực giúp 
chúng tiến bộ trong các bài học nói chung và 
các hoạt động nói nói riêng. Động lực có thể 
giúp chúng cố gắng hết sức để đạt được mục 
đích của chúng. 
(iii)Sự tham gia của người học: Sự thảo 
luận trong lớp học không bị chi phối bởi số ít 
những học sinh hay nói và có khả năng nói 
trong lớp. Tất cả đều có cơ hội để nói và đóng 
góp bài nói của mình vào trong các hoạt động 
nói. Trong thực tế, một số hoạt động trong lớp 
học thành công trong việc đáp ứng các yếu tố 
trên. Do đó, giáo viên cần tạo ra sự cố gắng hết 
sức có thể để phát triển khả năng nói của học 
sinh và giúp học sinh dần hoàn thiện trong các 
bài nói cũng như các hoạt động nói. 
 2.1.3. Các vấn đề của hoạt động nói 
Theo Ur (1996), hiện nay đang tồn tại một 
số vấn đề trong hoạt động nói như sau: 
1) Sự hạn chế: Không giống như các hoạt 
động nghe, đọc, viết, hoạt động nói yêu cầu 
một số lượng kiến thức và khả nẳng nhất định 
của người nói để truyền đạt đến người nghe 
những mục đích, ý định cùa mình. Học sinh 
thường bị hạn chế về việc sử dụng từ, cách để 
miêu tả một sự vật, hiện tượng bằng ngôn ngữ 
thứ hai trong lớp học. Học sinh sợ nói sai, sợ bị 
mất mặt trước bạn bè và bị giáo viên phê bình. 
2) Không có gì để nói: Mặc dù học sinh 
không bị hạn chế bởi một số lí do nêu ra ở trên, 
chúng ta vẫn thường nghe học sinh phàn nàn 
rằng các em không thể nghĩ ra điều gì để nói, 
họ không có cảm xúc để thể hiện ra bên ngoài 
những vấn đề đang được đề cập trong bài học. 
3) Sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ: Trong mọi lớp 
học, hoặc ở một số lớp học, học sinh chia sẻ 
mọi thứ với nhau bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, học 
sinh có xu hướng sử dụng nó bởi vì nó dễ dàng 
hơn để thể hiện tình cảm. Để giúp học sinh 
phát triển kĩ năng giao tiếp, người ta khuyên 
rằng người giáo viên nên giúp học sinh vượt 
qua những vấn đề trong các hoạt động nói. 
2.2. Thực trạng việc dạy và học kĩ năng 
nói 
2.2.1. Đối tượng khảo sát 
Việc khảo sát đã được thực hiện ở Trường 
Tiểu học tại huyện Quảng Xương của tỉnh 
Thanh Hóa, với sự tham gia của 70 học sinh 
của lớp 5. Các học sinh tham gia vào khảo sát 
ở độ tuổi 11 - 12, trong đó 29 em là nam, 41 
em là nữ, tất cả các em đều sống ở vùng quê, 
trong cùng một xã thuần về nông nghiệp và 
kinh doanh nhỏ. Các em đều mới bắt đầu học 
tiếng Anh. Đối với những học sinh này, tiếng 
Anh không phải là thế mạnh của các em nhưng 
nó lại là một môn học trong chương trình học 
kì, các em mới được học tiếng Anh trong thời 
gian ngắn. Nhưng các em lại có khả năng bắt 
chước rất tốt. 
Để biết được hiệu quả của giảng dạy nói 
bằng cách sử dụng các phương pháp giảng dạy, 
chúng tôi quan sát các bài giảng của giáo viên 
trong các tiết học nói và đưa cho học sinh câu 
hỏi khảo sát, bởi vì “kĩ năng nói” theo học sinh 
là dễ nhất vì các em có thể bắt chước theo thầy, 
cô giáo của mình. 
Cách thức chính trong việc thu thập dữ liệu 
trong nghiên cứu này là câu hỏi khảo sát. Câu 
hỏi khảo sát đã được lựa chọn vì nó cho phép 
thu thập một số lượng lớn những thông tin liên 
quan đến bài nghiên cứu trong một thời gian 
ngắn. Câu hỏi khảo sát bao gồm: câu hỏi khảo 
sát trước và sau quá trình sử dụng các phương 
pháp dạy kĩ năng nói với những câu hỏi mở và 
lựa chọn sử dụng cho 70 học sinh lớp 5. 
2.2.2. Cách khảo sát 
Đại diện nhóm nghiên cứu dạy hai lớp bao 
gồm 70 học sinh của trường Tiểu học trong 
một tháng và sau đó yêu cầu học sinh điền vào 
câu hỏi khảo sát. Đại diện nhóm nghiên cứu 
đưa vào những hoạt động nói trong sách giáo 
khoa và sử dụng một số biện pháp mới để dạy 
nói cho học sinh trong một tháng. Sau đó tiếp 
tục yêu cầu học sinh diền vào câu hỏi khảo sát 
 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 3 (233)-2015 
58 
sau khi đã được học kĩ năng nói bằng phương 
pháp mới. Sau đó tìm ra những kết quả đã đạt 
được trong việc sử dụng phương pháp mới 
trong dạy và học kĩ năng nói Tiếng Anh. 
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát dựa trên các 
phiếu câu hỏi phát cho 70 học sinh. Bên cạnh 
những câu hỏi cho học sinh, 5 bài khảo sát đã 
được đưa cho giáo viên đang giảng dạy tại 
trường. Những câu hỏi khảo sát này tập trung 
vào 2 vấn đề chính, đó là: nhận thức của học 
sinh trong việc học tiếng Anh và thái độ của 
học sinh và sự tiếp nhân các bài học kĩ năng 
nói. 
2.2.3. Phân tích dữ liệu 
Với mục đích tìm ra những tình huống thực 
của việc học kĩ năng nói cũng như là việc nắm 
kiến thức của học sinh và sự mong đợi kết quả 
trong bài học kĩ năng nói. Dữ liệu của câu hỏi 
khảo sát trước khi dạy các phương pháp mới sẽ 
được phân tích dựa vào các nội dung sau: 
a) Nhận thức của học sinh trong việc học 
tiếng Anh : Dựa vào con số thống kê thứ nhất, 
chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết học sinh đều 
nhận thấy tầm quan trọng của tiếng Anh trong 
học tập cũng như trong cuộc sống. 63,0% học 
sinh cho rằng tiếng Anh rất quan trọng trong 
khi 21% học sinh khác nhận thức được rằng 
tiếng Anh cũng quan trọng, và 16% còn lại cho 
rằng nó không quan trọng. 
b) Thái độ của học sinh trong việc học 
tiếng Anh: Từ kết quả thu được thể hiện cho 
thái độ khác nhau của học sinh trong việc học 
tiếng Anh cũng như khả năng của các em học 
sinh tiểu học trong quá trình học tập: 50% học 
sinh rất thích học tiếng Anh, đây là phần trăm 
cao nhất (35 học sinh), 20 học sinh chiếm 
28,6% thích học tiếng Anh. 10 học sinh có 
hứng thú học tiếng Anh ở mức độ bình thường 
chiếm 14,3%, 5 học sinh không thích học tiếng 
Anh chiếm 7,1%. Đây là một điều đáng mừng 
khi số lượng học sinh không thích học tiếng 
Anh thấp. 
Bên cạnh đó, 28 học sinh chiếm 40,0% nghĩ 
rằng kĩ năng nói rất quan trọng, 15 học sinh 
khác chiếm 21,4% nghĩ rằng kĩ năng nói quan 
trọng, chỉ có 10 học sinh chiếm 14,2% nghĩ 
rằng kĩ năng nói bình thường, nhưng lại có đến 
17 học sinh chiếm 24,4% nghĩ rằng kĩ năng nói 
không hề quan trọng. Đây là một con số khá 
lớn và đáng buồn về nhận thức của học sinh. 
Bên cạnh việc học kĩ năng nói, kĩ năng nghe 
rất khó đối với học sinh với 26 học sinh chiếm 
34,1%. 22 học sinh chiếm 31,4% cho rằng kĩ 
năng nói rất khó. Trong khi đó chỉ có 12 học 
sinh chiếm 17,1% cho rằng kĩ năng đọc khó và 
số còn lại cho rằng kĩ năng viết khó. Tuy 
nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy rằng học sinh 
học tốt kĩ năng viết chiếm tỉ lệ cao với 25 học 
sinh (35,7%) và kĩ năng nói 24 hoc sinh 
(34,3%),trong khi đó 15 học sinh (21,4%) học 
tốt kĩ năng đọc và số còn lại học tốt kĩ năng 
nghe. 
c) Mức độ sử dụng tiếng Anh ngoài giờ lên 
lớp: Dựa vào bảng số liệu thống kê, có thể nhìn 
thấy rằng 60% học sinh không bao giờ sử dụng 
tiếng Anh ngoài giờ lên lớp, 25% học sinh 
hiếm khi sử dụng, chỉ có 10% học sinh thỉnh 
thoảng dùng tiếng Anh ngoài giờ lên lớp và chỉ 
duy nhất 5% học sinh sử dụng tiếng Anh 
thường xuyên ngoài giờ lên lớp. Con số này 
cho ta thấy rằng mức độ sử dụng tiếng Anh của 
học sinh ở ngoài lớp học là rất hiếm. 
d) Sự tham gia các bài học nói của học 
sinh: Ở câu hỏi này có đến 41% học sinh trả 
lời rằng các em không bao giờ tham gia các bài 
học nói khi không có yêu cầu của giáo viên, 
35% trong số đó hiếm khi tham gia vào các bài 
học nói, chỉ có 15% học sinh thỉnh thoảng 
tham gia và duy nhất chỉ có 9% học sinh luôn 
luôn tham gia các buổi học nói. Như vậy, có 
thể thấy rằng học sinh hầu hết chỉ tham gia các 
buổi học nói khi có yêu cầu của giáo viên. 
Khi phải trả lời câu hỏi: các em có thích sử 
dụng trò chơi đóng vai, kể chuyện hoặc các 
hoạt động thú vị khác trong bài học nói không? 
Hầu hết học sinh đều thích áp dụng các hoạt 
động thú vị vào trong bài nói chiếm 90%. Chỉ 
có 10% học sinh không thích hoặc không có ý 
kiến. 
2.2.4. Kết quả 
Số 3 (233)-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 
59
Câu hỏi khảo sát xoay xung quanh 3 chủ đề 
chính: 
Chủ đề thứ nhất là cảm xúc và thái độ của 
của học sinh đối với việc sử dụng các phương 
pháp trong việc dạy kĩ năng nói. Chủ đề thứ 
hai đề cập đến sự đánh giá về hiệu quả của việc 
áp dụng các phương pháp của học sinh. Chủ đề 
thứ ba đề cập đến mong muốn của học sinh 
trong việc áp dụng các phương pháp vào trong 
kĩ năng nói. 
a) Cảm nhận và thái độ của học sinh đối 
với việc áp dụng các phương pháp trong việc 
dạy kĩ năng nói 
Từ kết quả thu được, có thể thấy rằng hầu 
hết học sinh rất thích các phương pháp mà giáo 
viên áp dụng vào trong các bài học nói. Có đến 
60,2% học sinh rất thích các phương pháp mới 
và 20,5% học sinh thích. Chỉ có 10 % số học 
sinh được hỏi là không thích và 9,8% số học 
sinh còn lại không có ý kiến. 
Về mức độ tham gia các bài học nói của học 
sinh khi áp dụng các phương pháp mới; có thể 
nhìn thấy rằng có 46% học sinh tham gia rất 
tích cực trong các bài học nói sử dụng phương 
pháp mới. 23% học sinh tham gia khi thấy 
hứng thú. Tuy nhiên vẫn còn một số lượng lớn 
học sinh chỉ tham gia các bài học nói khi được 
giáo viên yêu cầu với 25% nhiều hơn số lượng 
học sinh tham gia khi chúng thấy hứng thú. 
Bên cạnh đó thì vẫn còn đến 6% học sinh có 
những ý kiến khác đối với việc tham gia các 
giờ học nói khi sử dụng phương pháp mới. 
Cảm nhận của học sinh sau khi tham gia các 
bài học nói sử dụng các phương pháp mới đã 
được thể hiện rõ ràng. Khoảng một nửa số học 
sinh được khảo sát cho biết các em cảm thấy 
thích thú chiếm 48,6% tổng số học sinh. Bên 
cạnh đó có 35% số học sinh cho rằng các em 
cảm thấy bình thường và số còn lại thì cho 
rằng chúng không thoải mái. 
b) Nhận định của học sinh về hiệu quả của 
việc sử dụng các phương pháp mới trong các 
giờ học nói 
Để biết được những nhận định, đánh gia của 
học sinh về kết quả cũng như vai trò, tác động 
của các phương pháp mới trong quá trình học 
kĩ năng nói, chúng tôi đã cho học sinh trả lời 
một số câu hỏi liên quan đến các phương pháp 
mà giáo đã áp dụng trong các bài nói. 
Chúng tôi nhận thấy rằng sự tham gia của 
học sinh trong các bài nói rất tích cực. Hơn 
một nửa số học sinh tham gia rất tích cực 
chiếm 53% tổng số học sinh được khảo sát. 
24% cho rằng chúng tham gia các bài nói một 
cách bình thường. Bên cạnh đó vẫn có đến 
16% học sinh không hứng thú lắm và có tới 
7% số học sinh thấy không hứng thú khi tham 
gia các bài học nói. 
Khi được hỏi vể hiệu quả của phương pháp 
mới thì hầu hết các em đều cho rằng nó có hiệu 
quả chiếm 86%. Số còn lại thì cho rằng nó 
không có hiệu quả. 34% trong tổng số học sinh 
được khảo sát cho rằng các phương pháp làm 
cho bài học thú vị hơn. Số khác lại cho rằng 
chúng giúp cho bài nói dễ dàng hơn chiếm 
21,4%. 24,2% cho rằng các phương pháp mới 
giúp giảm căng thẳng, bớt rụt rè. Số còn lại cho 
rằng chúng tạo nhiểu cơ hội để thực hành nói. 
c) Mong muốn của học sinh trong việc học 
kĩ năng nói 
Khi được hỏi về các giai đoạn mà học sinh 
mong muốn được sử dụng các phương pháp 
mới thì có tới 43,4% học sinh thích sử dụng 
các phương pháp mới trong giai đầu, 43,5% 
cho rằng chúng thích được sử dung trong giai 
đoạn giữa và số còn lại thích sử dung ở giai 
đoạn cuối của bài nói. 
Khi được hỏi về mức độ sử dụng của các 
phương pháp trong các bài học nói thì cũng có 
các ý kiến khác nhau. Nhận định của học sinh 
về mức độ áp dụng các phương pháp vào trong 
các bài học nói. Có tới 62% số học sinh cho 
biết chúng mong muốn các phương pháp được 
đưa vào thường xuyên. Trong khi đó 18% số 
học sinh cho biết chúng mong các phương 
pháp này thỉnh thoảng được đưa vào trong các 
bài học nói, 14% số khác hiếm khi muốn sử 
dụng các phương pháp mới số còn lại không 
bao giờ muốn các phương pháp mới được áp 
dụng. 
 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 3 (233)-2015 
60 
 2.3. Gợi ý 1 số phương pháp nhằm phát 
triển kĩ năng nói của học sinh tiểu học 
Thứ nhất: Đoán tranh (Guessing the 
pictures) 
Mục đích của trò chơi này giúp cho học 
sinh thực hành lại những gì đã học và nói tiếng 
Anh một cách hiệu quả Giáo viên chuẩn bị 
một số bức tranh đơn giản minh họa một số từ, 
một số cấu trúc cần cho kĩ năng nói trên giấy 
A4 và xếp thành một chồng đặt trên bàn. Cho 
một học sinh lên chọn bức tranh (không cho 
những học sinh khác nhìn thấy nội (dung bức 
tranh). Những học sinh khác đoán xem đó là 
tranh gì bằng cách đặt câu hỏi “is this 
a/an?” Học sinh nào đoán đúng sẽ 
được khuyến khích bằng diểm hoặc vỗ tay cổ 
vũ động viên. 
Thứ hai: Hãy nói cho tôi về (Please tell 
me about) 
Giáo viên thiết lập một bảng bao gồm 
những thông tin liên quan đến bản thân một ai 
đó như là: tên, tuổi, nghề nghiệp, sở thích, quê 
quán, Gọi một vài học sinh đưa ra thông tin 
bằng cách sử dụng các cấu trúc giới thiệu về 
bản thân. Giáo viên ghi lại những thông tin đó 
vào bảng một cách ngắn gọn nhất. Sau đó giáo 
viên sẽ nói cho cả lớp biết về những thông tin 
mà học sinh vừa nói, chú ý sử dụng ngôi thứ ba 
số ít she/he và đồng thời giới thiệu đây là trò 
chơi hãy nói cho tôi biết. Tiếp theo, giáo viên 
yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm, 4 người 
một nhóm để các em có điều kiện nói về bản 
thân trước nhóm. Yêu cầu các em lập một bảng 
tương tự giống bảng của giáo viên. Các em đi 
xung quanh lớp và nói cho các bạn bên ngoài 
nhóm biết về bản thân của mình và bản thân 
của bạn mình. Ai hỏi được nhiều hơn và nói 
nhiều lượt hơn sẽ chiến thắng. 
Thứ ba: Đoán từ và cụm từ (Guessing 
words and phrases ) 
Giáo viên chia lớp thành hai dãy, mỗi dãy là 
một đội. Mỗi đội cử ra một đại diện đứng trước 
nghe các bạn ở dưới mô tả từ và cụm từ mà 
giáo viên dã cho trước bằng bất cứ hình thức 
nào tuy nhiên không được nói ra từ mà giáo 
viên đã viết. Đại diện mỗi nhóm phải lắng 
nghe và quan sát các thành viên trong đội mình 
mô phỏng, sau đó phát âm từ cần tìm một cách 
chính xác. Thông thường giáo viên sẽ đưa ra từ 
5-7 từ và cụm từ cho mỗi đội. Hết thời gian 
cho phép, đội nào tìm ra nhiều từ hơn và chính 
xác hơn sẽ thắng. 
Thứ tư: Truyền điện ( Transfering electric) 
Cả lớp ngồi tại chỗ, giáo viên nêu luật chơi 
và gọi bắt đầu từ một em A xung phong đứng 
lên nói to một động từ bằng tiếng Anh, và chỉ 
nhanh vào một bạn khác bất kì để “truyền 
điện”. Lúc này em B phải nói tiếp một động từ, 
nếu nói đúng thì lại chỉ nhanh vào một bạn C 
bất kì để truyền điện tiếp. Cứ làm như thế, nếu 
bạn nào nói sai thì phải nhảy lò cò vòng quanh 
lớp. Kết thúc trò chơi, khen và thưởng một 
tràng vỗ tay cho những bạn nói đúng và hay. 
Trò chơi này không cần cầu kì nhưng vẫn gây 
được không khí vui, sôi nổi, hào hứng trong 
giờ học cho các em. 
Thứ năm: Kể chuyện bằng tiếng Anh (Story 
telling in English) 
Cho học sinh kể được từ hai, ba câu tiếng 
Anh để xây dựng câu chuyện theo chủ đề mà 
giáo viên đã cho trước, các học sinh tiếp theo 
bổ sung những câu của mình vào câu chuyện 
nhưng phải dựa vào những câu trước của các 
bạn trước. Kết thúc trò chơi học sinh co một 
câu chuyện hoàn chỉnh, giáo viên sửa lỗi và 
nhận xét. 
Thứ sáu: Thượng đế bảo rằng (The God 
said that) 
Giáo viên chuẩn bị những câu mệnh lệnh 
vào một tấm thẻ, mệnh lệnh như là Raise your 
hands, Clap your hands, Clap again, Stand up, 
Sit down, Turn around... Gọi một học sinh phát 
âm tốt lên bảng cầm tấm thẻ và đọc cho cả lớp 
cùng thực hiện, nếu học sinh nào thực hiện 
chậm hoặc sai sẽ bị phạt. Giáo viên có thể đọc 
chậm rồi nhanh dần. Vừa đọc vừa làm theo để 
mọi người có thể hiểu được nghĩa tiếng Anh 
của câu đó là gì. Nên sử dụng những mẹo lừa 
như: Kiss your friends, Game is over, Open 
your mouths, mà không sử dụng kèm câu The 
Số 3 (233)-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 
61
God said để dụ khi bắt những người chơi 
manh động. Ngoài ra, giáo viên còn có thể 
áp dụng các trò chơi mẫu khác nhằm gây 
hứng thú với kĩ năng nói tiếng Anh. 
Từ việc rút ra được những thuận lợi và 
khó khăn trên có thể kết luận rằng trò chơi 
ngôn ngữ có thể khai thác như là một động 
lực để nói bởi vì nó có thể gợi mở trong việc 
nói mà chủ yếu là phần lớn học sinh và hiệu 
quả của việc sử dụng trò chơi ngôn ngữ đã 
được đánh giá cao bởi học sinh. Bên cạnh 
đó, để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng 
trò chơi ngôn ngữ, điều đó là cần thiết để 
làm tăng sự chú ý tới sự mong đợi của học 
sinh. Học sinh dường như thích trò chơi 
ngôn ngữ này đặc biệt là phù hợp với sở 
thích của mình và nội dung bài học. Hơn thế 
nữa, hoạt động này có thể mang lại môi 
trường giao tiếp, sinh hoạt theo chủ đề tiếng 
Anh và cung cấp cho các em nhiều cơ hội để 
nói ngày một tiến bộ hơn. Với hi vọng tối ưu 
hóa một cách hiệu quả của việc sử dụng trò 
chơi ngôn ngữ để thúc đẩy học sinh nói, đưa 
ra một số gợi ý và một số trò chơi ngôn ngữ 
mẫu đã được sử dụng ở tất cả các giai đoạn 
của bài học nói. 
 3. Kết luận 
Việc dạy và học kĩ năng nói ở trường tiểu 
học ở địa phương như Thanh Hóa là một vấn 
đề đang được quan tâm. Chúng tôi đã áp 
dụng 1 số phương pháp vào dạy học kĩ năng 
nói đối với học sinh tiểu học và đã đạt được 
những kết quả khả quan, học sinh quan tâm 
và yêu thích kĩ năng nói hơn, số học sinh có 
thể nói trôi chảy với các chủ đề thông 
thường. Những phương pháp của chúng tôi 
nhằm nhằm nâng cao kĩ năng nói cho học 
sinh tiểu học tại một địa phương vùng quê 
của Thanh Hóa. Mặc dù đã có rất nhiều 
những kĩ thuật dạy học mà giáo viên đã sử 
dụng trong việc dạy kĩ năng nói cho học sinh 
tiểu học, nhưng những hạn chế của những 
biện pháp đó vẫn ít nhiều còn tồn tại, các em 
chưa thực sự hăng say trong các hoạt động 
nói một cách có hiệu quả. 
Mặc dù chúng tôi đã có sự chuẩn bị công 
phu, khảo sát thực tế một cách có chọn lọc, 
tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi một số hạn 
chế như thời gian khảo sát và thực nghiệm 
có hạn, những hạn chế về hiểu biết cũng như 
phạm vi nghiên cứu, việc nghiên cứu chưa 
thể bao quát tất cả những kiến thức chung 
trong việc dạy tiếng Anh, kĩ năng nói tiếng 
Anh và các yếu tố ngôn ngữ khác. Chúng tôi 
cũng chưa thể trình bày tất cả những cơ hội 
và thách thức của giáo viên và học sinh, 
những người đang trực tiếp tiến hành công 
việc dạy kĩ năng nói. Những câu hỏi trong 
phiếu điều tra và phỏng vấn chưa thể bao 
quát tất cả những thông tin quan trọng phục 
vụ cho việc nghiên cứu. 
Dựa vào kết quả nghiên cứu, khảo sát và 
thực nghiệm, chúng tôi đưa ra một số biện 
pháp nhằm phát triển, nâng cao kĩ năng nói 
cho học sinh tiểu học ở các trường tiểu học 
vùng nông thôn với hi vọng giúp các em học 
sinh vượt qua những trở ngại trong việc phát 
triển kĩ năng ngôn ngữ nói chung đặc biệt là 
kĩ năng nói, giúp các em có điều kiện thực 
hành nhiều hơn, thúc đẩy hơn nữa niềm say 
mê trong học tập cũng như trong học tiếng 
Anh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Quốc Hùng (2012), Kĩ thuật dạy 
tiếng Anh cho trẻ tiểu học. Nxb Giáo dục. 
2. Lê Văn Canh (2004), Understanding 
foreign language teaching methodology. 
Vietnam National University, Hanoi Publisher. 
3. Ritsuko, N; Karen, F; Barbara, H; and 
Carolyn; G. (2010), Let’s go. Oxford University 
Press. 
4. Byrne, D (1998), Teaching oral English. 
London. Longman. 
5, Trần Thái Nhật Lâm (2003), The 
application of CLT in the remote areas of Can 
Tho province. Alemany Press. 
6. Ur. P. A (1996), Course in language 
teaching. Cambridge University Press. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_nghiem_mot_so_phuong_phap_goi_y_nham_phat_trien_ki_nang.pdf