Thực trạng kĩ năng dạy vẽ của giáo viên ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Tóm tắt Thực trạng kĩ năng dạy vẽ của giáo viên ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay: ...i được trang bị kiến thức, phương pháp dạy vẽ cho trẻ; - Phải có kĩ năng vẽ đồ vật, con vật, con người, cây cối một cách cơ bản theo lối đơn giản và có tính biểu trưng gần gũi với trẻ MN. 2. Giải quyết vấn đề Nghiên cứu thực trạng kĩ năng dạy vẽ cho trẻ MN của 203 GV ở một số trườn...T và phương pháp dạy học MT – Tài liệu đào tạo GV TH, Nxb Giáo dục 2007, TPHCM). Hiện nay, GVMN ở TPHCM cũng không đồng nhất mục đích dạy vẽ trong trường MN của mình (xem bảng 1). Bảng 1. Tự xác định mục đích dạy vẽ cho trẻ 5-6 tuổi của GVMN ở TPHCM STT Mục đích đúng đắn nhất để dạy vẽ...a vấn đề này là GVMN chỉ được học lí thuyết, ít có cơ hội quan sát trực tiếp trên lớp học, không có cơ hội thực hành với trẻ. Giảng viên phụ trách môn này thường truyền đạt các nguyên lí, phương pháp tổ chức một chương trình hoạt động tạo hình cho trẻ dựa trên các lí thuyết và cách thứ...

pdf5 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Thực trạng kĩ năng dạy vẽ của giáo viên ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Võ Trường Linh 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 189 
THỰC TRẠNG KĨ NĂNG DẠY VẼ CỦA GIÁO VIÊN 
Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON 
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 
VÕ TRƯỜNG LINH* 
TÓM TẮT 
Việc dạy vẽ (Mĩ thuật) cho trẻ em trong trường học hiện nay đã được thống nhất theo 
chương trình giáo dục phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD-ĐT) bắt đầu từ năm 
1980. Môn Mĩ thuật (MT) thường được xem là “môn phụ” nên ít được chú trọng trong các 
trường phổ thông; do đó, việc dạy vẽ cho trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Có 62% giáo viên 
mầm non (GVMN) ở Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) xác định dạy vẽ cho trẻ là “khó” 
hoặc “rất khó”. 
Từ khóa: môn MT, kĩ năng, kĩ năng dạy vẽ của giáo viên mầm non. 
ABSTRACT 
The reality of teachers’ skill in teaching drawing in some preschools 
in Ho Chi Minh city 
Teaching drawing (arts) to children in schools have now been unified under the 
general education program of the Ministry of Education and Training since 1980. Arts is 
often referred to as "minor subject", and receives little attention in schools, which causes 
difficulty for teachers who teach drawing to children. In Ho Chi Minh City, 62% of 
preschool teachers identify teaching drawing to children as “difficult” or “very difficult”. 
Keywords: arts, skills, teachers’ skill in teaching drawing. 
1. Đặt vấn đề 
Dạy vẽ cho trẻ, học sinh tiểu học 
(HSTH) đã được tổ chức trong hệ thống 
trường tiểu học (TH), trung học từ những 
năm đầu thế kỉ XX, khi thực dân Pháp 
đặt ách thống trị lên nước ta, chủ yếu là ở 
các vùng đô thị. Từ sau năm 1954 đến 
năm 1975, việc giảng dạy MT trong 
trường phổ thông ở cấp TH, trung học cơ 
sở (THCS) cả hai miền vẫn được tổ chức 
nhưng cũng chỉ ở những vùng đô thị. 
Chương trình được biên soạn theo hướng 
giảm giờ học cũng như nội dung vì điều 
kiện số lượng giáo viên (GV) và cơ sở 
* ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM 
vật chất chưa đáp ứng kịp. Năm 1980, 
cùng với các môn học khác, môn MT 
được biên soạn thống nhất theo tinh thần 
cải cách giáo dục. Chương trình được 
làm thí điểm theo “cuốn chiếu” mỗi năm 
một lớp. Năm 1996, việc dạy và học MT 
được triển khai trên phạm vi toàn quốc. 
Đến năm 2000, chương trình MT được 
xây dựng mới (từ năm 2000 - chương 
trình mới) phù hợp với thực tế phát triển 
giáo dục và kinh tế, xã hội của đất nước 
trong giai đoạn mới. [3] 
Mục tiêu của việc dạy MT cho bậc 
học mầm non (MN): “Tổ chức hoạt động 
tạo hình cho trẻ MN không ngoài mục 
đích cơ bản của giáo dục thẩm mĩ” [5]. Ở 
bậc phổ thông: “Các em (học MT) sẽ 
Tư liệu tham khảo Số 45 năm 2013 
___________________________________________________________________________________________________________ 
 190 
không thành họa sĩ tất cả, mà học MT để 
nâng cao khả năng nhận thức thẩm mĩ 
của mình, để học có hiệu quả hơn các 
môn học khác, hiểu về cái đẹp để sống và 
hành động theo quy luật của cái đẹp” [2]. 
Như vậy, mục tiêu hiện nay của việc dạy 
MT cho trẻ (MN và phổ thông) đều 
hướng tới khả năng nhận thức thẩm mĩ. 
Về lí luận: “Thẩm mĩ là năng lực 
cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp” [4]. 
Có nhiều định nghĩa về cái đẹp: 
“Cái đẹp, ấy là cái rực rỡ của cái thật”, 
“cái đẹp là ánh rực rỡ của cái chân và cái 
thiện” – Platon, “cái đẹp cứu rỗi thế 
giới”, “nhu cầu về cái đẹp và sự sáng tạo 
thể hiện cái đẹp gắn bó keo sơn với con 
người và nếu không có nó con người sẽ 
không còn muốn sống trên đời này” – 
Dostoevsky, “cái đẹp là cuộc sống” - 
Tsernisepski Nhưng nhìn chung, “cái 
đẹp, hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất là một 
sự hoàn mĩ về hình thức, sự hoàn thiện, 
sự chân thực về nội dung” [6]. 
Theo Phan Thị Ngọc Anh, tiêu chí 
thẩm mĩ của tranh vẽ ở trẻ 5-6 tuổi là “kĩ 
năng sáng tạo “tác phẩm”: làm được một 
số sản phẩm của hoạt động vẽ: có ý 
tưởng, thể hiện được nội dung tác phẩm, 
đạt được những yêu cầu về hình dáng, 
màu sắc, bố cục” [1]. 
Kĩ năng: “Khả năng vận dụng 
những kiến thức đã thu nhận được trong 
một lĩnh vực nào đó vào thực tế” [4]. 
Muốn có kĩ năng dạy vẽ cho trẻ 5-6 
tuổi, GVMN cần có 3 điều kiện: 
- Phải xác định được mục đích (dạy 
vẽ cho trẻ MN 5-6 tuổi); 
- Phải được trang bị kiến thức, 
phương pháp dạy vẽ cho trẻ; 
- Phải có kĩ năng vẽ đồ vật, con vật, 
con người, cây cối một cách cơ bản 
theo lối đơn giản và có tính biểu trưng 
gần gũi với trẻ MN. 
2. Giải quyết vấn đề 
Nghiên cứu thực trạng kĩ năng dạy 
vẽ cho trẻ MN của 203 GV ở một số 
trường MN ở các quận: 1, 3, 6, 7, 10, 11, 
Tân Bình, Bình Thạnh, Gò Vấp, Thủ 
Đức, Cần Giờ. Mẫu GVMN mà chúng tôi 
khảo sát là khối GV đang dạy tại các 
trường công lập, tư thục đã tốt nghiệp 
trung cấp, cao đẳng ngành MN và hiện 
đang học tiếp bậc đại học ở Trường 
ĐHSP TPHCM. Do đó, ít nhiều GV đã 
được trang bị chính thức những kĩ năng 
để dạy vẽ cho trẻ MN và đang thực hiện 
trong trường mà họ công tác. 
Có thể thấy rằng các cô giáo MN 
thiếu tự tin khi dạy vẽ cho trẻ: có 55,66% 
GVMN thừa nhận: dạy vẽ cho trẻ MN 5-
6 tuổi ở mức độ khó so với năng lực; 
37,93% là bình thường và 6,4% cho là 
quá khó. Đa số các GV đều gặp khó 
khăn khi tiến hành dạy vẽ cho trẻ MN. 
Đó là chưa xác định được mục đích một 
cách rõ ràng, đúng đắn; chưa nắm vững 
phương pháp tổ chức hoạt động dạy vẽ 
cho trẻ và cuối cùng phần lớn GV than 
rằng “không biết vẽ”, việc “không biết 
vẽ” là kĩ năng và phương pháp vẽ những 
đồ vật, con vật, hiện tượng một cách 
đơn giản. 
2.1. Về mục đích dạy vẽ cho trẻ mầm 
non hay trẻ 5-6 tuổi 
Đây là vấn đề rất quan trọng nếu 
không muốn nói là vấn đề cốt lõi có tính 
thành bại của chương trình giáo dục MT 
trong trường MN và phổ thông. Bởi hiện 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Võ Trường Linh 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 191 
nay trong xã hội có rất nhiều tổ chức, 
ngành nghề được học môn vẽ (MT) với 
nhiều mục đích khác nhau nên dễ gây 
nhầm lẫn. Ví dụ: học vẽ để có kiến thức, 
kĩ năng MT cơ bản để hành nghề nấu ăn, 
cắm hoa, may vá, tự trang trí nhà cửa; 
học vẽ để giải trí; trong bệnh viện tâm 
thần, học vẽ để chữa bệnh; trong các 
trường đào tạo MT chuyên nghiệp thì 
hướng tới làm sáng tác, làm nghệ sĩ; 
trong trường MN, TH trong nước thì để 
nhận thức thẩm mĩ; một số trường MN 
quốc tế, tư thục thì hướng đến sự sáng tạo 
(Trường Global Art đã có nhiều chi 
nhánh tại Việt Nam và một số trường 
MN Hàn Quốc mà chúng tôi có dịp tham 
quan). Do dạy và học MT có nhiều mục 
đích khác nhau nên kèm theo đó là các 
thiết kế chương trình cũng khác nhau. 
Nếu xác định mục đích đã sai hoặc không 
phù hợp thì sẽ hướng đến điều sai và 
không thể đạt kết quả. Chính vấn đề 
“nhạy cảm” về mục đích này mà một số 
giáo trình dạy vẽ, MT của Nxb Giáo dục 
hiện nay chỉ soạn chương trình dạy mà 
không xác định mục đích ở phần mở đầu 
cuốn sách (Giáo trình MT - dành cho hệ 
cao đẳng sư phạm MN của Phạm Thị 
Chính - Trần Tiểu Lâm, Nxb Giáo dục 
2008, Hà Nội; MT và phương pháp dạy 
học MT – Tài liệu đào tạo GV TH, Nxb 
Giáo dục 2007, TPHCM). 
Hiện nay, GVMN ở TPHCM cũng 
không đồng nhất mục đích dạy vẽ trong 
trường MN của mình (xem bảng 1). 
Bảng 1. Tự xác định mục đích dạy vẽ cho trẻ 5-6 tuổi của GVMN ở TPHCM 
STT Mục đích đúng đắn nhất để dạy vẽ cho trẻ MN Số phiếu/ 203 Tỉ lệ 
1 Để trẻ biết vẽ và biết cầm bút 36 17,73% 
2 Để trẻ nhận thức thẩm mĩ 46 22,66% 
3 Để trẻ phát triển tư duy và sáng tạo 70 34,48% 
4 Không xác định được vì 3 lí do trên đều thấy đúng 51 25,12% 
Bảng 1 cho thấy: 
- Có 22,66% GVMN đang dạy vẽ 
theo hướng của Bộ GD-ĐT; 
- Có tới 34,48% GVMN đang dạy 
theo hướng của các trường có chương 
trình theo nước ngoài; 
- 25,12% GVMN không xác định 
được; 
- 17,73% GVMN dạy theo quan điểm 
cũ, chủ yếu là rèn kĩ năng cầm bút vẽ. 
Kết quả khảo sát thể hiện nhận thức 
về mục đích dạy vẽ của GVMN có sự 
phân hóa và không thống nhất. Điều này 
chắc chắn có ảnh hưởng đến kết quả giáo 
dục MT cho trẻ trong chính ngôi trường 
mà trẻ đang học. Thoạt nhìn, có thể thấy 
là mục đích nào cũng đúng hoặc có phần 
đúng và đều ích lợi đối với trẻ, nên 25% 
GV chấp nhận cả 3 mục đích, cứ theo 
“giáo trình” mà dạy, nếu không đạt mục 
đích này thì cũng đạt mục đích kia. 
17,73% GV nghiêng về phía dạy kĩ năng 
cầm bút vẽ, luyện khéo tay là các GV học 
theo chương trình cũ, chủ yếu dạy cho trẻ 
vẽ đủ các bài mà chương trình đã quy 
định. 22,66% GV dạy theo mục đích 
nhận thức thẩm mĩ là những người có 
theo học chương trình tổ chức hoạt động 
Tư liệu tham khảo Số 45 năm 2013 
___________________________________________________________________________________________________________ 
 192 
tạo hình cho trẻ MN từ đầu năm 2005 do 
Bộ GD-ĐT ấn hành. Gần 35% GVMN 
cho rằng mình đang dạy trẻ hoạt động vẽ 
hướng tới phát triển tư duy sáng tạo là 
những GV chịu sự ảnh hưởng hoặc học 
tập theo hướng của các cơ sở giáo dục 
MN có tính quốc tế hiện nay. 
2.2. Về tổ chức hoạt động vẽ hay 
phương pháp dạy vẽ cho trẻ mầm non 
Trong các cấp học của chương trình 
giáo dục MN. Các giáo sinh, sinh viên 
đều được học môn phương pháp tổ chức 
hoạt động tạo hình cho trẻ MN, trong đó 
có kiến thức, kĩ năng về đặc điểm tạo 
hình của trẻ, lập chương trình, cách tổ 
chức các hoạt động tạo hình như vẽ, xé 
dán, nặn, chắp ghép Tuy nhiên, khi 
thực hiện, các GV gặp rất nhiều khó khăn 
(xem bảng 2). 
Bảng 2. Tự đánh giá những khó khăn của GV về phương pháp dạy vẽ cho trẻ MN 
STT Những khó khăn về phương pháp dạy vẽ cho trẻ MN 
Số phiếu/ 
203 Tỉ lệ 
1 Không nắm được lí thuyết phương pháp dạy vẽ cho trẻ MN 30 14,77% 
2 Không biết những đặc trưng tạo hình của trẻ MN 66 32,51% 
3 Không nắm vững phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ MN 63 31,63% 
4 Không nắm được cả 3 yếu tố trên 44 21,67% 
Lí do của vấn đề này là GVMN chỉ 
được học lí thuyết, ít có cơ hội quan sát 
trực tiếp trên lớp học, không có cơ hội 
thực hành với trẻ. Giảng viên phụ trách 
môn này thường truyền đạt các nguyên lí, 
phương pháp tổ chức một chương trình 
hoạt động tạo hình cho trẻ dựa trên các lí 
thuyết và cách thức tổ chức lớp học, phần 
lớn các giảng viên không có kĩ năng MT 
để thị phạm các bài tạo hình cụ thể trước 
lớp học. Các kĩ năng vẽ, tạo hình MT cơ 
bản thì lại do các giảng viên MT đảm 
trách; do vậy, GVMN khó kết hợp cả hai 
môn cùng lúc để dạy trẻ. GV cần phải có 
thời gian để tập vận dụng và học hỏi, trao 
đổi thêm sau khi làm việc tại trường MN. 
2.3. Vấn đề kĩ năng vẽ của giáo viên 
mầm non 
Đây là vấn đề mà tất cả GVMN đều 
gặp phải, cũng như nhầm lẫn. 100% 
GVMN cho rằng mình không có “năng 
khiếu” vẽ. Từ đó, họ có tâm lí tự ti khi 
tiến hành công việc có thực hiện các hình 
vẽ và tự so sánh sản phẩm của họ với ảnh 
mẫu, hình mẫu (của các họa sĩ chuyên 
nghiệp hoặc ảnh chụp) hoặc với sản 
phẩm của sinh viên MT (xem bảng 3). 
Bảng 3. Những khó khăn về kĩ năng vẽ do GVMN tự đánh giá 
STT Các kĩ năng vẽ được xếp theo mức độ khó từ cao xuống thấp Số phiếu Tỉ lệ 
1 Không biết vẽ hình đồ vật, con vật, người 79 38,91% 
2 Không biết vẽ một bố cục tranh 49 24,13% 
3 Không biết tạo ra chất liệu mới trong tạo hình cho trẻ 33 21,18% 
4 Không biết phối hợp màu ,tô màu sao cho đẹp 32 15,76% 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Võ Trường Linh 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 193 
Bảng 3 cho thấy, hiện nay các kĩ 
năng dạy vẽ mà GVMN gặp khó khăn 
nhất là thao tác khi thực hiện các hình vẽ 
về đồ vật, con vật, con người và hiện 
tượng thiên nhiên. Điều này cũng dễ hiểu 
vì kĩ năng tạo hình là một quá trình tập 
luyện lâu dài mà trong chương trình đào 
tạo đại học, giáo sinh, sinh viên chỉ được 
học 3 tín chỉ MT cơ bản và 3 tín chỉ MT 
MN tự chọn. Hơn nữa, trong quá trình 
học MT ở chương trình phổ thông, vì là 
“môn phụ” nên gần như học sinh chẳng 
được trang bị gì về kiến thức cũng như kĩ 
năng. 
3. Kết luận 
Để có thể đảm nhiệm tốt công việc 
dạy vẽ cho trẻ MN 5-6 tuổi, GV phải 
được trang bị đầy đủ 3 kĩ năng cần thiết, 
đó là: hiểu đúng mục đích, phương pháp 
tiến hành phù hợp với lứa tuổi cũng như 
thuần thục các kĩ năng thực hành về vẽ. 
Phần lớn các GVMN mà chúng tôi khảo 
sát đều ý thức rõ điều này nên đa số cho 
rằng dạy vẽ cho trẻ MN là khó. Trong 3 
điều kiện về kĩ năng dạy vẽ cho trẻ MN, 
điều đáng lo ngại là nhận thức về mục 
đích dạy vẽ cho trẻ của GV có nhiều khác 
biệt và việc trang bị kĩ năng vẽ cho GV 
hiện nay rất hạn chế. Do đó, có thể nhận 
định rằng kĩ năng dạy vẽ cho trẻ MN 5-6 
tuổi của GVMN ở TPHCM chưa cao và 
họ đang thiếu tự tin trong công việc dạy 
vẽ thường ngày ở trường MN. 
Kết quả nghiên cứu này có thể xem 
là bức tranh khái quát về thực trạng kĩ 
năng dạy vẽ cho trẻ MN của GV tại 
TPHCM. Nó cũng phản ánh một thực tế 
chung của khu vực miền Nam hiện nay 
(chúng tôi khảo sát trên 300 GVMN tại 
Cần Thơ, Bến Tre, Bình Phước và Đăk 
Lăk cũng với kết quả tương tự). Kết quả 
thực tế này đặt ra những nhiệm vụ, thách 
thức mới cho các cơ sở đào tạo GVMN, 
các cấp quản lí GVMN và cả cấp quản lí 
chương trình dạy MT bậc MN. Vấn đề 
đặt ra là các cơ sở, cơ quan có trách 
nhiệm phải quan tâm và có biện pháp 
khắc phục để việc học vẽ trở nên hứng 
thú hơn đối với trẻ và ích lợi hơn đối với 
tương lai của một xã hội phát triển. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phan Thị Ngọc Anh (2012),“Một số đặc điểm phát triển thẩm mĩ của trẻ mẫu giáo 5 
tuổi”, Tạp chí Giáo dục, (2), tr.18-23. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình phương pháp dạy - học mĩ thuật, Nxb 
Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.7. 
3. Nguyễn Kim Thản (chủ biên) (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Sài Gòn, 
tr.870. 
4. Lê Thanh Thủy (2004), Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non, 
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.48. 
5. Lâm Vinh (2002), Mĩ học - về cái đẹp - về nghệ thuật - về con người, Trường Đại 
học Sư phạm TPHCM, tr.35-62. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 09-01-2013; ngày phản biện đánh giá: 15-02-2013; 
ngày chấp nhận đăng: 15-4-2013) 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_ki_nang_day_ve_cua_giao_vien_o_mot_so_truong_mam.pdf