Tiểu luận Lich sử phát triển của phép biện chứng trong triết học

Tóm tắt Tiểu luận Lich sử phát triển của phép biện chứng trong triết học: ...điển hình có tư tưởng biện chứng là Heraclit (540 - 480 TCN). Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác - Lênin thì Heraclit là người sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện chứng dựa trên lập trường duy vật. Phép biện chứng của Heraclit chưa được trình bày ...hức sự vận động của chúng. Ông đã tiến hành phân vận động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính cố hữu của vật chất, ông... hình (Triết học cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép biện chứng duy vật không chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh vực xã hội, do đó các ông đã xây dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. 2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật Theo C.Mác: B...

pdf18 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 300 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tiểu luận Lich sử phát triển của phép biện chứng trong triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chứng là Heraclit 
(540 - 480 TCN). Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác - Lênin thì 
Heraclit là người sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây 
dựng phép biện chứng dựa trên lập trường duy vật. 
 Phép biện chứng của Heraclit chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống 
các luận điểm khoa học mà hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng 
Tiểu luận triết học 
6
được đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Tư 
tưởng biện chứng của Heraclit được thể hiện như sau: 
Một là Quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo Heraclit thì 
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới là đứng im tuyệt đối, mà trái lại, 
tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá. Ông nói: "Chúng ta không 
thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông"; 
"Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới". Theo quan điểm của Heraclit thì 
lửa chính là bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của 
tất cả mọi sự vật, hiện tượng. Đồng thời lửa cũng chính là gốc của mọi vận 
động, tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hoá của 
lửa mà thôi. 
Hai là Heraclit nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn 
trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán về vai 
trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên về "sự trao 
đổi của những mặt đối lập", về "sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập". 
Ông nói: "cùng một cái ở trong chúng ta - sống và chết, thức và ngủ, trẻ và 
già. Vì rằng cái này biến đổi là cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến đổi thành 
cái này ...". Heraclit đã phỏng đoán về sự đấu tranh và thống nhất của những 
mặt đối lập. Lê nin viết: "Phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận 
đối lập của nó là thực chất của phép biện chứng. Điều này chúng ta đã thấy 
xuất hiện ngay từ nhà biện chứng Heraclit". 
Ba là Theo Heraclit thì sự vận động phát triển không ngừng của thế giới do 
quy luật khách quan (mà ông gọi là Logos) quy định. Logos khách quan là trật 
tự khách quan là mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ 
học thuyết của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách 
quan. Người nào càng tiếp cận được logos khách quan bao nhiêu thì càng 
thông thái bấy nhiêu. Lý luận nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và 
duy vật sơ khai nhưng cơ bản là đúng. 
ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác không có được tư 
tưởng biện chứng sâu sắc như vậy. Chính là những tư tưởng biện chứng sơ 
Tiểu luận triết học 
7
khai của Heraclit sau này đã được các nhà biện chứng cổ điển Đức kế thừa và 
các nhà sáng lập triết học Macxít đánh giá cao. C.Mác và Ph.Ănghen đã đánh 
gía một cách đúng đắn giá trị triết học của Heraclit và coi ông là đại biểu xuất 
sắc nhất của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại: "Quan niệm về thế giới một cách 
nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà 
Hy Lạp thời cổ và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là 
Heraclit". (1) 
Trong học thuyết về nguyên tử của mình, Đêmôcrit (460 - 370 TCN) đã kế 
thừa quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng vận động của nguyên 
tử là vĩnh cửu và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên 
tử là ở bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân. Ông cho rằng còn khoảng trống 
hay còn "chân không" trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. Tuy 
nhiên Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của vận động. 
Sau Đêmôcrit là Arixtốt (384 - 322 TCN) ông cho rằngvận động gắn liền 
với các vật thể với mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng 
định vận động là không thể bị tiêu diệt "Đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận 
động". Arixtốt là người đầu tiên đã hệ thống hoá các hình thức vận động 
thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị 
trí . 
Tuy nhiên Arixtốt lại dơi vào duy tâm vì cho rằng thần thánh là nguồn gốc 
của mọi vận động. 
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhưng chủ yếu 
mới dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng tự 
phát thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác động, 
liên hệ của các mặt đối lập, song chưa đi sâu vào chi tiết của bức tranh. Vì 
vậy, nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép siêu hình trong thời kỳ cận đại. 
2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII 
(1) Ph. Ănghen: Chống Đuyrinh, NXB Sự Thật Hà nội, 1971, tr33. 
Tiểu luận triết học 
8
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), sự trưởng thành của 
tư tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng 
trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình. 
Sau đêm trường Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện giáo điều gắn 
với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi phục 
lại những tư tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, yếu tố 
duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn có bước 
phát triển như tư tưởng về "sự phù hợp của các mặt đối lập" của Gioocdanơ 
Brunô (1548 -1600). Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận 
động, kể từ các hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ 
vô tận, cái này tiêu diệt cái kia ra đời. Nếu không theo nguyên tắc "các mặt 
đối lập phù hợp với nhau" thì dù là nhà toán học, nhà vật lý, cả nhà triết học 
cũng không làm việc được. 
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là Ph.Bêcơn 
(1561 - 1626). Ph.Bêcơn khẳnh định vật chất không tách rời vận động, nhận 
thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến 
hành phân vận động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu hình của ông thể 
hiện: Ông quy mọi loại vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông 
là ở chỗ coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính 
cố hữu của vật chất, ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của 
thế giới. 
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu mổ xẻ 
phân tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những 
phương pháp đó đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem xét sự vật trong trạng thái 
cô lập, tách rời và bất biến. Từ khi Ph.Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp 
trong khoa học tự nhiên áp dụng vào triết học thì phương pháp siêu hình trở 
thành phương pháp thống trị trong triết học. 
Phương pháp siêu hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong quá 
trình nhận thức giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu 
tập, mô tả giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quá 
Tiểu luận triết học 
9
trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì nó bộc lộ rõ những hạn 
chế. Vì vậy nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học 
cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen. 
3. Phép biện chứng cổ điển Đức 
Như Lênin đã từng đánh giá: Dù có sự thần bí hoá duy tâm, nhưng phép 
biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng và logic 
học và lý luận nhận thức. Trong các nền triết học trước C. Mác thì triết học cổ 
điển Đức có trình độ khái quát hoá và trừu tượng hoá cao với kết cấu hệ thống 
chặt chẽ, logic. Đây là tiến bộ của nền triết học Đức so với các nền triết học 
khác. Nền triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Kantơ, đạt đỉnh cao ở Hêghen sau 
đó suy tàn ở triết học Phoiơbắc. 
Kantơ (1724 - 1804) là người sáng lập ra trường phái triết học cổ điển Đức. 
Ông cho rằng chỉ khi nhận thức ở trình độ lý tính thì mới có mâu thuẫn mà 
chưa thấy được rằng mâu thuẫn là vốn có trong hiện thực khách quan. Mâu 
thuẫn chưa phải là mâu thuẫn biện chứng giữa chính đề và phản đề, chưa có 
sự thống nhất và chuyển hoá lẫn nhau. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng trong 
vấn đề này Kantơ đã tiến gần đến phép biện chứng. 
Hêghen (1770 -1831) là nhà biện chứng lỗi lạc. Phép biện chứng của ông là 
một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của ông có ảnh 
hưởng rất mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết 
học của ông được gọi là "tinh thần Phổ". Phép biện chứng của Hêghen là phép 
biện chứng duy tâm tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển của 
các khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật. Ông viết: "phép biện 
chứng nói chúng là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt 
động trong phạm vi hiện thực. Cái biện chứng là linh hồn của mọi nhận thức 
khoa học chân chính "(1). Luận điểm xuyên suốt trong hệ thống triết học của 
(1) Triết học dành cho cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên nghành triết học, NXB Chính trị quốc 
gia, 1997, tập 1, tr331. 
(2) C.Mác -Ph.Ănghen, Tuyển tập, NXB Sự Thật, Hà nội, 1984, tr361. 
Tiểu luận triết học 
10
Hêghen là: "Tất cả cái gì là hiện thực đều là hợp lý và tất cả những gì hợp lý 
đều là tồn tại"(2). 
Hêghen là người đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là 
người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và tư duy một cách biện 
chứng, có nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. 
Trong logic học, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù triết học như 
lượng - chất, vật chất - vận động mà còn đề cập đến các quy luật khác như 
lượng đổi dẫn đến chất đổi, quy luật phủ định biện chứng. Nhưng tất cả chỉ là 
những quy luật vận động, phạm trù của tư duy, của khái niệm. 
Khi nghiên cứu xã hội, Hêghen khẳng định sự phát triển cuả xã hội là sự đi 
lên. Quá trình phát triển của lịch sử có tính kế thừa. Lịch sử là tính thống nhất 
giữa tính khách quan và chủ quan trong hoạt động của con người. Hêghen đã 
có công xây dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của phép biện chứng 
như là những công cụ của tư duy biện chứng. 
Trong khi hệ thống triết học của Hêghen chứa đựng những tư tưởng biện 
chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính duy tâm bảo thủ, thể 
hiện ở: Sự vận động của xã hội là do sự vận động của tư duy (ý niệm tuyệt 
đối) sinh ra. Do đó mà C.Mác gọi phép biện chứng của Hêghen là: "Phép biện 
chứng đi lộn đầu xuống đất". Vì vậy, cần phải đặt nó đứng bằng hai chân trên 
mảnh đất hiện thực, nghĩa là trên quan điểm duy vật. 
II. Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác - xit 
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của phép biện 
chứng duy vật 
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư 
bản chủ nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã 
cung cấp thực tiễn cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý 
luận về phép biện chứng. Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế 
kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi vào hệ thống hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. 
Tiểu luận triết học 
11
Đây là hai tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho sự ra đời của phép biện chứng 
duy vật. 
Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy 
tâm của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép 
biện chứng và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một 
cách thần thánh hoá tư duy, nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật 
phép biện chứng duy tâm Hêghen. 
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép 
biện chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu 
hình (Triết học cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép 
biện chứng duy vật không chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong 
lĩnh vực xã hội, do đó các ông đã xây dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch 
sử. 
2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật 
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ 
quan (tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách 
quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép 
biện chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là 
đặt phép biện chứng duy tâm của Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức 
là đứng trên nền tảng duy vật. 
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ 
biến trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy". Theo Lênin thì phép biện 
chứng là "học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học 
thuyết về tính tương đối của sự vật". 
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ 
cùng tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác 
nhau nhưng vẫn có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động 
và phát triển. Các mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như( 
phần tử - hệ thống, nguyên nhân - kết quả, lượng - chất) và các quy luật (quy 
Tiểu luận triết học 
12
luật lượng - chất, quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy 
luật phủ định của phủ định). 
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để 
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong 
khi đó các nền triết học trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của 
giai cấp thống trị, của một nhóm người thiểu số trong xã hội. 
Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không 
ngừng được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát 
triển. Cùng với chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ 
nam cho hành động. 
Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác và Ph.Ănghen 
luận chứng trong tác phẩm: "Biện chứng của tự nhiên" (1873 - 1883), 
"Chống Đuy -rinh" (1876 -1878), "Lút-vich Phoiơ Bắc và sự cáo chung của 
triết học cổ điển Đức" và một số tác phẩm do V.I.Lênin viết như: "Chủ nghĩa 
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" (1908 -1909), "Bút ký triết học". 
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về 
mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó 
đáp ứng nhu cầu về mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong 
sự phát triển của phép biện chứng gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng 
thành công phép biện chứng Mác-xít trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa 
tháng Mười Nga năm 1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về phép biện chứng 
duy vật thể hiện trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một công cụ 
sắc bén để cải tạo thế giới một cách cách mạng nhất. 
Iii. phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế nước ta 
hiện nay. 
Phép biện chứng là một phương pháp nghiên cứu xem xét các sự vật hiện 
tượng trong mối liên hệ giữa các mặt và giữa các sự vật hiện tượng đó và 
trong sự đứng im tương đối. 
Tiểu luận triết học 
13
Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua sự phát triển của 
CNTB, xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Đó là con đường 
quá độ lâu dài, mà có thể nói mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn 
giữa xu hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa 
xã hội. Quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách 
mạng nước ta là quá trình vừa phải kế thừa những mặt cần thiết hợp lý của chủ 
nghĩa tư bản để phát triển lực lượng sản xuất lại vừa phải đấu tranh loại bỏ 
những mặt tiêu cực, mất nhân tính của chủ nghĩa tư bản. Con đường quá độ 
lên CNXH ở nước ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác phát triển và sử dụng 
CNTB làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi lên CNXH, nhất là hướng 
tư bản đi vào con đường tư bản Nhà nước. Đó chính là sự thống nhất của các 
mặt đối lập thông qua các biện pháp trung gian và quá độ. 
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định sạch trơn 
CNTB, không thể cho rằng cái gì đó có trong CNTB là không thể có trong 
CNXH, càng không thể áp dụng nguyên vẹn mô hình CNXH ở nước khác để 
xây dựng nước ta. Chúng ta phải nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển. 
Do đó, để xây dựng thành công CNXH, chúng ta phải lấy lý luận của C.Mác - 
Lênin làm kim chi nam cho hành động, đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu 
tình hình thực tế của các XHCN, TBCN trên thế giới để áp dụng vào điều 
kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta. 
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta lại 
gặp phải một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển 
kinh tế và phát triển xã hội. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá 
hoạt động theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của 
thị trường thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế 
thị trường có ưu điểm ở chỗ là phát huy được tính năng động sáng tạo của mọi 
chủ thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của xã hội. 
Tuy nhiên cơ chế thị trường đồng thời kích thích đầu cơ, làm sai lệch các quan 
hệ thị trường, gây ra khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, tệ 
nạn xã hội. Một trong những đặc điểm của nền kinh tế XHCN là xây dựng một 
Nhà nước "của dân, do dân, vì dân", xây dựng một xã hội "công bằng văn 
Tiểu luận triết học 
14
minh". Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam 
lần thứ VIII đã khẳng định: "Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa 
xã hội, mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan, cần 
thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã 
hội đã được xây dựng"(1). Để giữ vững bản chất CNXH trong phát triển kinh tế 
Nhà nước cần sử dụng các công cụ của mình để tiến hành điều tiết lợi ích giữa 
các thành phần kinh tế, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội được hưởng 
thành quả trong phát triển kinh tế. Nhà nước có thể sử dụng các công cụ như 
thuế thu nhập cao, trợ cấp, bảo hiểm để tiến hành phân phối lại thu nhập xã 
hội; xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát 
triển xã hội. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động giải 
quyết mâu thuẫn trên làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định 
hướng XHCN. 
(1) Văn kiện Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 1997, tr25 
Tiểu luận triết học 
15
Kết luận 
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học, 
có thể khẳng định: Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành và 
phát triển từ phép biện chứng tự phát, thô sơ cổ đại cho đến phép biện 
chứng duy tâm Hêghen của triết học cổ điển Đức và đạt đến đỉnh cao là 
phép biện chứng duy vật mác - xít thì phép biện chứng luôn là công cụ sắc 
bén, là chìa khoá giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới để phục vụ 
nhu cầu chính bản thân con người. 
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành 
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu phép biện chứng một cách 
có hệ thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên 
tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới 
tư duy, là định hướng tư tưởng và mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc 
bén để đấu tranh chống lại tư duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng 
lợi mục tiêu XHCN của cách mạng nước ta. 
Phép biện chứng là một phát hiện lớn của nhân loại trong quá trình nhận 
thức tự nhiên, xã hội và tư duy. Nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng trong 
triết học là một vấn đề rất lớn trong triết học, đòi hỏi có nhiều công sức của 
các nhà triết học với nhiều công trình khảo cứu sâu sắc. Trong khuôn khổ một 
bài viết nhỏ không thể đề cập được hết các khía cạnh của một vấn đề lớn đặc 
biệt là phép biện chứng duy vật mác-xít, do đó tôi rất mong sự đóng góp ý 
kiến khoa học của các thầy cô giáo và các bạn học viên để bài viết được hoàn 
chỉnh hơn. 
Xin chân thành cảm ơn! 
Tiểu luận triết học 
16
Tiểu luận triết học 
17
Tài liệu tham khảo 
1. Tập bài giảng triết học dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh 
không thuộc chuyên nghành triết học. NXB Chính trị quốc gia 1997 
2. Lịch sử phép biện chứng (tập 1, 2, 3), Viện triết học Liên Xô (cũ) 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_lich_su_phat_trien_cua_phep_bien_chung_trong_triet.pdf
Ebook liên quan