Triết học Mác-Lênin - Đề cương bài giảng và hướng dẫn ôn tập

Tóm tắt Triết học Mác-Lênin - Đề cương bài giảng và hướng dẫn ôn tập: ..., từng làm quan giữ kho. Ông sinh năm 570 và mất khoảng năm 490 trước công nguyên. Tác phẩm của Lão Tử rất ít, chưa đầy 5 nghìn chữ, người sau gọi là Ngũ Thiên tự cũng có tên gọi là Đạo đức kinh. Đạo đức kinh là tác phẩm viết theo lối văn vần, với cách trình bày ngắn gọn, cô đọng, hàm súc bằ...niệm về thực thể, ông cho rằng mọi thực thể đều có thuộc tính. Thuộc tính là đặc trưng chất lượng của thực thể và số thuộc tính của thực thể là vô tận. Cũng vì vậy, thế giới theo ông là thế giới của các sự vật riêng lẻ. Ông chống lại thần học và là người theo quyết định luận duy vật triệt để. ...cơ sở đầu tiên của tất cả mọi tồn tại là ý thức, là linh hồn hoặc lực lượng siêu nhiên, hoặc coi vật chất chỉ là sản phẩm của “ý niệm tuyệt đối”, là “sự phức hợp của cảm giác”. Song họ cũng không nêu lên được thuộc tính chung và phổ biến nhất của vật chất, mà đã đồng nhất vật chất vào một dạng...

pdf77 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Triết học Mác-Lênin - Đề cương bài giảng và hướng dẫn ôn tập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát hiện cái bản chất, trên cơ sở nghiên cứu tổng 
hợp các hiện tượng của sự vật. 
Câu hỏi 37. Phân tích nội dung, ý nghĩa cặp phạm trù khả năng và hiện thực? 
1. Khái niệm khả năng và hiện thực 
 Khả năng chỉ cái hiện chưa có, chưa tới, nhưng sẽ tới, sẽ có khi có các điều kiện 
thích hợp. Hiện thực chỉ cái hiện đã có, hiện đang tồn tại thật sự. Khả năng là cái hiện chưa 
có. Nhưng khả năng đó đang tồn tại. 
Phân biệt khả năng với hiện thực là ở chỗ khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới, còn 
hiện thực là cái hiện đã có, đã được thực hiện. Cần phân biệt khả năng với tiền đề. Tiền đề là 
những điều kiện tiên quyết sơ bộ của một cái gì đó, đều là những cái hiện đang tồn tại thật sự, 
tức đều là hiện thực và trên cơ sở các tiền đề hay điều kiện ấy xuất hiện cái mới. Chính cái 
mới này trong trạng thái tiềm thế mới là khả năng. 
Cần phân biệt khả năng với ngẫu nhiên. Sự khác nhau ở chỗ, một bên khả năng là cái 
hiện chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới, sẽ xảy ra khi có kiều kiện tương ứng. Còn một bên ngẫu 
nhiên là cái có thể xảy ra, cũng có thể không, có thể xảy ra như thế này, hoặc như thế khác. 
2. Biện chứng giữa khả năng và hiện thực 
Khả năng và hiện thực có quan hệ thống nhất biện chứng, giữa chúng có sự chuyển 
hóa lẫn nhau. Bởi vì, hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả năng biến thành hiện 
thực. Hiện thực này do sự vận động nội tại của nó lại nảy sinh ra những khả năng mới, cứ 
 73
như vậy tạo ra một quá trình vô tận của sự chuyển hóa lẫn nhau giữa khả năng và hiện thực. 
Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại một số khả 
năng, chứ không phải chỉ có một khả năng. Bởi vì, ngoài những khả năng vốn có sẵn, khi có 
thêm những điều kiện mới bổ sung thì sự vật xuất hiện những khả năng mới. Thực chất, là 
một hiện thực mới phức tạp hơn đã xuất hiện do sự sự tác động qua lại giữa sự vật cũ với điều 
kiện mới vừa được bổ sung. Như vậy, ngay cả một khả năng cũng có sự thay đổi, vì nó phụ 
thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể. 
3. Ý nghĩa phương pháp luận 
Trong hoạt động thực tiễn phải trên cơ sở hiện thực, chứ không phải khả năng. Tuy 
nhiên, không phải hoàn toàn bỏ qua, hoặc coi thường khả năng, mà phải tính đến các khả 
năng để có thể đưa ra chủ trương, chính sách và kế họach cho đúng có tính khả thi. Trong 
nhận thức, nhất là nhận thức khoa học phải tìm ra, xác định cho được các khả năng phát triển 
của sự vật ở trong chính bản thân nó, và căn cứ vào tương quan lực lượng giữa các mặt bên 
trong với những điều kiện bên ngoài. Không nên tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, 
hoặc xem thường vai trò ấy trong việc biến đổi khả năng thành hiện thực, v.v... 
Chương 7 
CÁC QUI LUẬT CƠ BẢN 
 CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 
A. ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG 
I. QUI LUẬT LÀ GÌ? 
1. Định nghĩa qui luật 
2. Phân loại qui luật 
3. Qui luật của phép biện duy vật 
II. QUI LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG THAY 
ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI 
1. Khái niệm chất và lượng 
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng 
3. Ý nghĩa phương pháp luận 
III. QUI LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP 
1. Khái niệm mặt đối lập, khái niệm mâu thuẫn và các tính chất của mâu thuẫn 
2. Sự thống nhất, đấu tranh của những mặt đối lập và chuyển hóa các mặt đối lập 
3. Ý nghĩa phương pháp luận 
IV. QUI LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH 
1. Phủ định biện chứng 
2. Bản chất phủ định của phủ định 
3. Ý nghĩa phương pháp luận 
B. CÂU HỎI HUỚNG DẪN ÔN TẬP 
 74
Câu hỏi 38. Định nghĩa qui luật và vai trò các qui luật cơ bản của phép biện chứng duy 
vật? 
Qui luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các sự vật và hiện 
tượng hoặc giữa các mặt của mỗi sự vật và hiện tượng. 
Qui luật mang tính khách quan, không có qui luật mang tính chủ quan. Nội dung và 
vai trò của các qui luật khách quan đều phụ thuộc vào những điều kiện khách quan đã sinh ra 
nó. Vì vậy, tùy theo những mối liên hệ và điều kiện khách quan cụ thể mà ở mỗi qui luật đều 
có sự qui định về không gian, thời gian và có vai trò cụ thể khác nhau. 
Các qui luật hết sức đa dạng và phong phú nhưng về cơ bản có phân loại hệ thống các 
qui luật của hiện thực khách quan là các qui luật phổ biến, qui luật chung và qui luật riêng. 
Qui luật phổ biến là những qui luật tác động trong mọi lĩnh vực của tự nhiên - xã hội và tư 
duy. Qui luật chung có phạm vi tác động rộng hơn so với luật riêng và hẹp hơn so với qui luật 
phổ biến. Chẳng hạn, qui luật bảo toàn chuyển hoá năng lượng, v.v... Qui luật riêng biểu hiện 
những mối liên hệ đặc trưng cho một phạm vi nhất định. Chẳng hạn, như qui luật cơ học, qui 
luật đồng hoá dị hoá, v.v... 
Mối quan hệ giữa qui luật khách quan và hoạt động có ý thức của con người. Qui luật 
mang tính khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người. Nhưng về nguyên tắc là 
con người không thể sáng tạo thuần túy ra qui luật mà con người có khả năng nhận thức và 
vận dụng được những qui luật khách quan. 
Với tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những qui luật phổ 
biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên - xã hội và tư duy. Hệ thống các qui luật cơ 
bản của phép biện chứng duy vật: Qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về 
chất và ngược lại nghiên cứu phương thức của sự vận động và phát triển; Qui luật thống nhất 
và đấu tranh của các mặt đối lập nghiên cứu nguồn gốc, động lực bên trong của mọi sự vận 
động và phát triển; qui luật phủ định của phủ định nghiên cứu khuynh hướng của quá trình 
phát triển thông qua các chu kỳ vận động của các sự vật và hiện tượng, v.v... 
Câu hỏi 39. Phân tích nội dung, ý nghĩa qui luật những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi 
chất và ngược lại? 
Qui luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại nghiên cứu 
về cách thức của sự phát triển. 
1. Khái niệm chất và lượng 
Chất là tính qui định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc 
tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác. Đó là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc 
tính vốn có của sự vật. Ví dụ: tính qui định về chất của hoạt động tư duy con người được thể 
hiện thông qua sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính như: năng lực phản ánh của bộ não, 
tính hình thức và qui luật của nhận thức. Chất có tính ổn định tương đối để khẳng định sự vật 
là gì và đồng thời là tiêu chuẩn để phân biệt nó với cái khác. Sự vật vừa là một chất, vừa là 
nhiều chất cụ thể khác nhau, tùy theo những mỗi liên hệ nhất định. 
Lượng cũng là tính qui định khách quan vốn có của sự vật biếu thị số lượng, qui mô, 
trình độ, xu hướng của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của 
nó. 
2. Biện chứng giữa chất và lượng 
a) Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất 
 75
Trong bất kỳ sự vật nào của hiện thực khách quan cũng bao gồm sự thống nhất giữa 
chất và lượng ở một độ nhất định. Độ là liên hệ qui định lẫn nhau giữa chất và lượng, nó là 
giới hạn mà trong đó sự vật vẫn là nó, nó chưa trở thành cái khác, nhưng đồng thời trong giới 
hạn độ hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động và biến đổi. 
Sự vận động và biến đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ quá trình thay đổi về lượng, 
nhưng sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi đã kết thúc một quá trình thay đổi về lượng, sự thay 
đổi đó đạt giới hạn của điểm nút, giới hạn mà ở đó sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi 
về chất, vượt qua giới hạn độ để dẫn đến nhảy vọt về chất. 
 Nhảy vọt về chất kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng nhưng nó không chấm dứt 
sự vận động, nó chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của vận động. Đó là quá trình sự vật cũ, chất 
cũ mất đi làm xuất hiện sự vật mới, chất mới v.v... Ví dụ như sự thay đổi lượng tri thức của 
các môn học, năm học, giai đoạn trong điều kiện khách quan cho phép dẫn đến kết quả tốt 
nghiệp ra trường của sinh viên. 
Xét về hình thức nhảy vọt diễn ra dưới hai hình thức: là nhảy vọt dần dần và nhảy vọt 
đột biến. Nhảy vọt dần dần diễn ra trong một thời gian dài, sự tích lũy biến đổi về lượng(sự 
biến đổi bộ phận để dẫn đến sự biến đổi toàn bộ) mới có sự biến đổi về chất. Nhảy vọt đột 
biến diễn ra trong một thời gian rất ngắn, sự tích lũy, biến đổi về lượng và đồng thời với nó là 
quá trình nhảy vọt về chất toàn bộ. 
Sự thay đổi lượng - chất - sự vật bao gìơ cũng được xem xét bởi những điều kiện 
khách quan nhất định. Bởi vì, trong điều kiện khách quan này sự biến đổi về lượng dẫn đến 
sự biến đổi vế chất, thì ngược lại trong điều kiện khác cũng vẫn sự biến đổi về lượng như vậy 
nhưng không có sự biến đổi về chất. 
b) Chiều ngược lại của qui luật 
 Qui luật lượng chất không chỉ nói lên một chiều là sự biến đổi về lượng dẫn đến sự 
biến đổi về chất, mà còn có chiều ngược lại. Đó là quá trình hình thành sự vật mới, chất mới 
và chất mới qui định lượng mới của nó. Khi sự vật mới ra đời bao hàm chất mới, nó lại tạo ra 
một lượng mới phù hợp với nó và trong sự vật mới lại lặp lại quá trình thay đổi lượng - chất - 
sự vật v.v... 
3. Ý nghĩa 
Cần phân biệt sự khác nhau giữa tính qui định về chất và lượng. Xem xét quá trình 
thay đổi về chất phải nghiên cứu quá trình tích lũy về lượng, biến đổi về lượng trong những 
điều kiện khách quan nhất định. 
Phê phán những khuynh hướng tuyệt đối việc thay đổi chất mà không chú ý đến quá 
trình thay đổi lượng và ngược lại v.v... 
Câu hỏi 40. Phân tích nội dung, ý nghĩa qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối 
lập? 
Qui luật thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập nghiên cứu nguồn gốc, động 
lực bên trong của sự vận động và phát triển. 
1. Mâu thuẫn là gì? 
 Đối lập với phép biện chứng, quan điểm siêu hình đều phủ nhận mâu thuẫn bên trong 
của các sự vật và hiện tượng, mà chỉ thừa nhận sự khác biệt, đối lập, giữa các sự vật, hiện 
tượng nhưng không phải là mâu thuẫn. Phép biện chứng duy vật khẳng định mâu thuẫn tồn 
tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan. 
Mâu thuẫn là sự liên hệ, tác động giữa những mặt đối lập trong một thể thống nhất 
 76
nhất định. Trong các sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất của các mặt đối lập, những mặt 
đối lập này liên hệ tác động qua lại và ràng buộc lẫn tạo thành mâu thuẫn. Sự khác nhau, đối 
lập và mâu thuẫn không phải là những khái niệm đồng nhất. Sự khác nhau có thể dẫn đến sự 
đối lập, nhưng không phải sự khác nhau nào cũng dẫn đến sự đối lập (ngày - đêm, trên - dưới, 
trong - ngoài v.v...). 
Các sự vật, hiện tượng là những thể thống nhất có rất nhiều mặt đối lập, nên nó có 
nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, nhưng một mâu thuẫn được hình thành bởi hai mặt đối 
lập.Ví dụ: Mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ - nông dân; giữa tư sản - vô sản; giữa đồng hóa - 
dị hóa; biến dị - di truyền. 
2. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập 
Thống nhất các mặt đối lập hiểu theo nghĩa chung nhất đó là những mặt đối lập tạo 
thành những mâu thuẫn và đồng thời cũng tạo thành bản thân các sự vật và hiện tượng. Trong 
một mâu thuẫn, hai mặt đối lập liên hệ với nhau trong một thể thống nhất, cho nên gọi là 
thống nhất của những mặt đối lập. Đó là sự ràng buộc và qui định lẫn nhau, mặt đối lập này 
lấy mặt đối lập kia làm điều kiện tồn tại cho mình hoặc không có mặt đối lập này thì không 
có mặt đối lập kia. Khái niệm về sự “thống nhất” và sự “đồng nhất” của các mặt đối lập theo 
một nghĩa nào đó, đều là sự thừa nhận những khuynh hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau trong 
tất cả các sự vật và hiện tượng. Tuy nhiên khái niệm về sự đồng nhất còn bao hàm sự chuyển 
hoá các mặt đối lập. 
Đấu tranh của các mặt đối lập là khuynh hướng phát triển đối lập nhau của các mặt 
đối lập dẫn đến sự bài trừ, phủ định và chuyển hóa giữa các mặt đối lập. Đấu tranh của các 
mặt đối lập còn là quá trình giải quyết những mâu thuẫn trong các sự vật và hiện tượng khách 
quan nói chung, nhưng không nên hiểu theo nghĩa đen của từ này như người ta thường hiểu 
chỉ là đấu tranh giai cấp, bạo lực v.v...Ví dụ 1. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản 
trong chủ nghĩa tư bản. Ví dụ 2. Cuộc “đấu tranh” giữa lực hút và lực đẩy, giữa đồng hóa và 
dị hóa, giữa biến dị và di truyền. Ví dụ 3. Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong đạo 
đức của con người, v.v... 
Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập về thực chất là thể 
hiện sự thống nhất biện chứng của các mâu thuẫn của các sự vật và hiện tượng. Trong đó 
thống nhất của các mặt đối lập mang tính tương đối, tạm thời. Vì nó luôn là cái cụ thể có tính 
chất lịch sử giống như sự “đứng im” tương đối của sự vật và hiện tượng. Mặt khác trong thể 
thống nhất đó luôn diễn ra quá trình đấu tranh của các mặt đối lập, chuyển hóa các mặt đối 
lập. Ngược lại, đấu tranh của các mặt đối lập mang tính tuyệt đối bởi vì nó là nguồn gốc, 
động lực bên trong của sự phát triển. Nhưng đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình 
lâu dài phức tạp, thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những giai đoạn khác nhau. 
Khi mâu thuẫn phát triển đến mức độ gay gắt, đến điều kiện chín muồi thì xảy ra sự chuyển 
hóa của các mặt đối lập và khi đó thì mâu thuẫn được giải quyết. Kết quả là thể thống nhất 
cũ, sự vật cũ mất đi, thể thống nhất mới, sự vật mới xuất hiện và bao hàm những mâu thuẫn 
mới. 
3. Chuyển hóa các mặt đối lập 
 Sự chuyển hóa của những mặt đối lập được thể hiện trong quá trình giải quyết mâu 
thuẫn của sự vật cũ làm xuất hiện sự vật mới, trong đó các mặt đối lập trước đây đã không 
còn đồng nhất với chính nó mà đã có sự thay đổi hoặc bị xóa bỏ thông qua sự chuyển hóa của 
các mặt đối lập. Ví dụ: Sự chuyển hóa các mặt đối lập trong quá trình giải quyết mâu thuẫn 
giữa giai cấp địa chủ - nông dân trong chế độ phong kiến và giai cấp tư sản - vô sản trong chế 
độ tư bản chủ nghĩa, không có nghĩa là giai cấp địa chủ trở thành giai cấp nông dân và ngược 
lại hoặc giai cấp tư sản thành giai cấp vô sản và ngược lại v.v... mà thực chất, trong sự 
chuyển hóa đó mỗi giai cấp có sự thay đổi và sự thay đổi dẫn đến giải quyết mâu thuẫn làm 
 77
xuất hiện một xã hội mới cao hơn. 
4. Ý nghĩa phương pháp luận 
 Khi phân tích mâu thuẫn của sự vật và hiện tượng về nguyên tắc phải thừa nhận tính 
khách quan, tính phổ biến và tính riêng biệt của mâu thuẫn (lấy ví dụ minh họa). 
Có phương pháp giải quyết các loại mâu thuẫn khác nhau: mâu thuẫn bên trong - bên 
ngoài; mâu thuẫn cơ bản - không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu - mâu thuẫn thứ yếu v. v... Phê 
phán những quan niệm duy tâm siêu hình về mâu thuẫn (lấy ví dụ minh họa). 
Câu hỏi 41. Phân tích nội dung, ý nghĩa qui luật phủ định của phủ định? 
Qui luật phủ định của phủ định nghiên cứu về khuynh hướng tất yếu của sự phát triển. 
1. Phủ định biện chứng 
a. Phủ định là gì? 
Phủ định hiểu theo nghĩa chung nhất là sự thay thế, chuyển hóa giữa các sự vật và 
hiện tượng của thế giới khách quan nói chung. Xét về hình thức sự phủ định ở trong hiện thực 
khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng phép biện chứng duy vật không 
có ý nói đến bất kỳ sự phủ định nào, mà chỉ chỉ nói đến sự phủ định làm tiền đề tạo điều kiện 
cho sự phát triển, cho sự xuất hiện của cái mới. Tuy nhiên, về cơ bản sự phủ định trong hiện 
thực khách quan vẫn có thể chia theo hai hình thức chính: 
Phủ định mang tính chất tự phát, ngẫu nhiên hoặc do những nguyên nhân bên ngoài 
dẫn đến sự chuyển hóa - sự xuất hiện cái mới. Ví dụ như: nghiền nát một hạt thóc, xéo chết 
một con sâu, tác hại của thiên nhiên đối với con nguời và sinh vật nói chung v.v... Đó là sự 
phủ định do sự tác động ngẫu nhiên chứ không do nguyên nhân bên trong, việc giải quyết 
những mâu thuẫn bên trong các sự vật, hiện tượng và nó không bao hàm sự kế thừa, không có 
yếu tố của sự phát triển. 
b. Phủ định biện chứng 
Phủ định biện chứng là sự phủ định do việc giải quyết những mâu thuẫn bên trong các 
sự vật và hiện tượng làm xuất hiện cái mới, trong đó yếu tố kế thừa làm tiền đề, điều kiện cho 
sự tồn tại và phát triển cho cái mới. Ví dụ: Sự thay đổi, chuyển hóa giữa các hình thức phản 
ánh của vật chất theo một quá trình từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp như: từ phản 
ánh vô cơ - hữu cơ - từ phản ánh tâm lý ở động vật đến sự xuất hiện ý thức con người. Phủ 
định biện chứng có hai đặc điểm: 
 + Sự xuất hiện cái mới trong phủ định biện chứng đều là kết quả của quá trình giải 
quyết những mâu thuẫn bên trong các sự vật và hiện tượng theo những qui luật khách quan 
vốn có của nó. Vì vậy, nó có tính khách quan. Ví dụ: Sự xuất hiện các học thuyết khoa học 
ngày càng phát triển cao hơn, đều là kết quả của quá trình phủ định trong sự hoàn thiện khả 
năng nhận thức của con người. 
 + Sự xuất hiện cái mới trong phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch 
trơn, đoạn tuyệt với cái cũ, mà là cái mới xuất hiện trên cơ sở cái cũ, bao hàm tính kế thừa 
với cái cũ. Yếu tố kế thừa của cái mới đối với cái cũ, không phải là sự kế thừa tất cả nguyên 
vẹn, mà chỉ kế thừa những mặt tích cực nhất của cái cũ và nó cũng đã thay đổi cho phù hợp 
với cái mới. Mặt khác, tính kế thừa bao giờ cũng làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự tồn tại và 
phát triển của cái mới. Bởi vì, xét về thực chất phát triển là sự biến đổi mà giai đoạn sau còn 
bảo tồn tất cả những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước. 
Đối lập với phép biện chứng những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định chỉ 
là sự thay đổi đơn giản, hoặc phủ định hoàn toàn loại bỏ cái cũ, không có tác dụng gì trong 
 78
quá trình hình thành cái mới (phủ định sạch trơn). Mặt khác khi cần thấy kế thừa thì nó lại kế 
thừa cả những mặt tiêu cực của cái cũ. Điều đó, dẫn đến tính chất máy móc, đơn giản, phiến 
diện khi phân tích về sự phủ định. 
2. Bản chất phủ định của phủ định 
 Trong sự vận động và phát triển mang tính chất vô tận của thế giới, đều thông qua 
phủ định biện chứng, cái mới phủ định cái cũ và cái mới này lại bị cái mới sau phủ định. Sự 
vật cũng vận động thông qua những lần phủ định như thế, tạo ra một khuynh hướng phát triển 
từ thấp đến cao theo đường xoáy ốc. 
Đường xoáy ốc được thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển như: Tính kế 
thừa, tính lặp lại, tính phát triển, mỗi vòng xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ 
thấp đến cao. 
Trong các sự vật luôn bao gồm hai mặt, mặt khẳng định và mặt phủ định. Hai mặt này 
vừa thể hiện khẳng định sự tồn tại, nhưng đồng thời lại bao hàm khả năng sự biến đổi và 
chuyển hóa. Từ khẳng định đến phủ định và phủ định cái phủ định, đó là quá trình xuất hiện 
cái mới dường như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Thực chất của quá trình này là 
phủ định cái phủ định có tính chu kỳ nằm trong quá trình sự vận động và phát triển của các sự 
vật và hiện tượng. Để chứng minh cho quan điểm trên, lấy một số ví dụ minh họa. 
Như vậy, phủ định của phủ định là sự phủ định lần thứ nhất tạo ra mặt đối lập của cái 
ban đầu, sự phủ định lần thứ hai (hoặc nhiều hơn) lại tái hiện lại những đặc điểm cơ bản của 
cái ban đầu nhưng cao và hoàn thiện hơn cái ban đầu. Đó là quá trình phủ định của phủ định, 
nó xuất hiện với tính cách là tổng hợp tất cả các yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước 
thông qua những chu kỳ vận động nhất định của hiện thực khách quan nói chung. Sự phát 
triển của sự vật, thông qua nhiều lần phủ định biện chứng, tạo thành khuynh hướng phát triển 
tất yếu của sự vật và hiện tượng từ thấp đến cao một cách vô tận theo đuờng xoáy ốc. 
3. Ý nghĩa 
Khi phân tích nội dung qui luật phủ định của phủ định trước hết phải phân biệt sự 
khác nhau giữa phủ định biện chứng và phủ định tự phát ngẫu nhiên. Phải có quan điểm đúng 
về cái mới, cái mới với tính cách là tiêu chuẩn của sự phát triển. 
 79
Quá trình phát triển là sự thống nhất giữa cái mới và cái cũ, sự chuyển hóa giữa cái 
mới và cái cũ. Cho nên cần phân biệt giữa cái gọi là “mới” nhưng thực chất là sự biến dạng 
của cái cũ. 
Phê phán quan điểm siêu hình về sự phủ định (lấy ví dụ minh họa) 
Chương 8 
LÝ LUẬN NHẬN THỨC 
A. ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG 

File đính kèm:

  • pdftriet_hoc_mac_lenin_de_cuong_bai_giang_va_huong_dan_on_tap.pdf
Ebook liên quan