Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay

Tóm tắt Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay: ... quá vụn vặt, quá quen thuộc nên chúng ta chẳng còn mấy quan tâm, vậy mà ảnh hưởng của chúng đối với công việc dạy học, giáo dục học sinh thì chẳng nhỏ chút nào. Cái ngô nghê trong câu trả lời của cậu học trò nhỏ, sự ngây thơ, máy móc trong cách giao tiếp của đứa bé trong hai câu chuyệ...hể của bộ sách, giúp giáo viên và học sinh có điều kiện “thay đổi khẩu vị”, tăng hứng thú dạy học. Những truyện kể được lựa chọn không chỉ ở trong nước mà còn ở nước ngoài, cả văn học truyền thống lẫn văn học hiện đại, tạo thêm sự phong phú về nguồn ngữ liệu, làm cho học sinh bước đầu ...người biết mà mách cho tên trộm đang ở đâu thì lại nói thầm. Cái lí và chiều sâu của tiếng cười trong Bốn cẳng và sáu cẳng (Tiếng Việt 3 - tập 2 - trang 142) nằm ở chỗ: chú lính cứ tưởng rằng tốc độ chạy nhanh hay chậm phụ thuộc vào số lượng cẳng: ngựa và người cùng chạy, số cẳng càng ...

pdf12 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 396 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Truyện cười với hiệu quả dạy học ở trường tiểu học hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiếng Việt tiểu học mới 
không chỉ chú trọng đến việc truyền thụ 
kiến thức, kĩ năng cho học sinh mà còn 
chú trọng rèn luyện cho người học 
phương pháp suy nghĩ, đánh giá nhằm 
hướng đến giáo dục toàn diện cả đức, trí, 
thể, mĩ. 
Các truyện cười trong sách giáo 
khoa Tiếng Việt tiểu học có ở hầu hết các 
khối lớp. Chúng được sử dụng làm ngữ 
liệu dạy học cho nhiều phân môn khác 
nhau: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và 
câu, Tập làm văn... Trong toàn bộ 
chương trình, truyện cười không phân bố 
một cách riêng lẻ mà được dạy xen kẽ 
với hệ thống các thể loại truyện dân gian 
khác như cổ tích, thần thoại, truyền 
thuyết... và các tác phẩm văn học viết. 
Điều này khẳng định tính hệ thống, khoa 
học, tính chỉnh thể của bộ sách, giúp giáo 
viên và học sinh có điều kiện “thay đổi 
khẩu vị”, tăng hứng thú dạy học. Những 
truyện kể được lựa chọn không chỉ ở 
trong nước mà còn ở nước ngoài, cả văn 
học truyền thống lẫn văn học hiện đại, 
tạo thêm sự phong phú về nguồn ngữ 
liệu, làm cho học sinh bước đầu làm quen 
với văn học, văn hoá dân tộc và nhân 
loại. Các bài hỗ trợ nhau và cung cấp cho 
người học những hiểu biết đa dạng về thể 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Bùi Thanh Truyền 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
75 
loại, đề tài, đặc điểm nghệ thuật, chức 
năng và ý nghĩa của truyện... Vốn sống 
mà các em tiếp thu được qua từng tiết 
dạy, từng bài, từng thể loại cũng góp 
phần nâng cao chất lượng học tập. 55 
truyện cười là 55 cánh cửa để các em 
nhìn ra thế giới và nhìn lại chính mình. 
Vì thế, tuy số lượng không nhiều so với 
thơ và văn xuôi hiện đại, các truyện cười 
trong sách giáo khoa vẫn được trẻ yêu 
thích, góp phần rất lớn vào việc giáo dục 
đạo đức và nâng cao kiến thức cho học 
sinh. 
Tùy theo mục đích, yêu cầu, nội 
dung dạy học của từng khối lớp, từng 
phân môn, kiểu bài..., sự lựa chọn, phân 
bố hệ thống truyện cười trong chương 
trình cũng khác nhau. Cụ thể là: 
 Phân môn 
Lớp Tập đọc Chính tả 
Luyện từ 
và câu Tập làm văn 
MỘT 2 
HAI 8 1 1 
BA 2 5 7 
BỐN 2 8 1 
NĂM 7 11 
Qua điều tra, khảo sát thực tiễn dạy 
học ở tiểu học hiện nay, chúng tôi nhận 
thấy, hầu hết giáo viên đều cho rằng học 
sinh của mình ham thích học môn Tiếng 
Việt có ngữ liệu là truyện cười. Điều này 
đã mang lại nhiều thuận lợi và gia tăng 
cảm hứng cho người dạy. Việc đưa các 
truyện cười vào trong chương trình Tiếng 
Việt ở tiểu học, như đánh giá của phần 
lớn giáo viên, là cần thiết, phù hợp cả về 
mặt số lượng lẫn nội dung, hình thức 
cũng như chức năng minh họa cho bài 
học. Nhiều giáo viên cũng đánh giá cao 
tính đa chức năng của truyện cười trong 
dạy học Tiếng Việt tiểu học: vừa giáo 
dục, cung cấp kiến thức, vừa để học sinh 
(cả thầy cô nữa) giải trí. Những ý kiến 
cho rằng nội dung truyện vượt quá trình 
độ nhận thức, kinh nghiệm, vốn sống của 
người học là không đáng kể. Sự hiện diện 
của thể loại văn học có sức sống lâu bền 
này, theo người dạy, cũng là một đặc 
điểm thể hiện tính tính ưu việt của các 
ngữ liệu dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 
hiện nay. 
Về phía học sinh, đa số đều thích 
đọc truyện cười. Tùy theo trình độ nhận 
thức, có em phát hiện ra ngay cái cười 
của truyện, có em phải mất một thời gian 
nhất định mới nghĩ ra. Một số em có học 
lực trung bình hoặc yếu cũng còn một ít 
khó khăn khi phát hiện các ý tứ, sự độc 
đáo của truyện cười. Như vậy, những 
truyện cười được đưa vào trong sách giáo 
khoa nhìn chung là phù hợp với trình độ 
nhận thức của số đông người học. Tác 
dụng đầu tiên của thể loại văn học này là 
mang cho học sinh những hứng cảm tức 
thời, tạo điều kiện để các em có dịp giải 
trí theo kiểu “học - vui, vui - học”. Nói 
cách khác, việc nâng cao kiến thức về 
cuộc sống, xã hội và chính bản thân qua 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
76 
truyện cười chưa được người học đặt lên 
hàng đầu. Điều này cũng phù hợp với 
tâm lí, nhận thức của lứa tuổi các em, ở 
đó sự yêu thích, hứng thú khi lựa chọn 
đối tượng bao giờ cũng đến trước những 
cân nhắc về lợi ích, ý nghĩa thừa tính 
thực dụng mà thiếu sự sinh động thường 
gặp trong thế giới người lớn. 
Thấu suốt bản chất của cái cười và 
hiểu mục đích của truyện cười là gây ra 
cái cười, ta sẽ nhận rõ nhiệm vụ của bài 
học về truyện cười trước hết là phải giúp 
học sinh hiểu các em cười cái gì, vì sao 
mà cười. Nghe hoặc đọc một truyện cười 
cũng như xem một bức tranh khôi hài, 
khi tự mình chưa phát hiện ra cái đáng 
cười thì chưa thể cười được. Như vậy, có 
thể suy ra là: đã cười được tức là đã biết 
mình cười cái gì, vì sao mình cười. 
Nhưng, trên thực tế, không phải ai cũng 
giải thích được rõ ràng nguyên do cái 
cười của mình. Cho nên, bài học về 
truyện cười không chỉ dừng lại ở chỗ làm 
cho học sinh cười (nếu như vậy có thể chỉ 
cần kể cái chuyện cười định đem ra giảng 
dạy là đủ). 
Đối với học sinh tiểu học, đọc 
truyện cười thì vui, nhưng phải suy nghĩ 
để trả lời những câu hỏi “cười cái gì ?”, 
“vì sao mà cười?” chắc không phải là 
chuyện dễ. Vấn đề sẽ đơn giản hơn nếu 
giáo viên biết gợi ý để người học tự phân 
tích, tự “nhìn lại” quá trình sinh thành 
của cái cười trong óc, tựa như xem lại 
một đoạn phim quay chậm, nhất định các 
em sẽ cắt nghĩa được cái cười của mình. 
Từ đó, học sinh sẽ cảm thấy hào hứng 
hơn so với khi chỉ cười mà không tự đặt 
ra những câu hỏi có ý nghĩa như những 
cú “hích” đầy tính trí tuệ như thế. 
Tiếp đến, người dạy cần hướng dẫn 
người học suy nghĩ tiếp về cái đáng cười, 
về những điều nằm phía sau hành vi gây 
ra cái cười cùng thói xấu mà hành vi đó 
để lộ ra. Việc sử dụng các câu chuyện có 
những câu đối thoại ngộ nghĩnh, máy 
móc, đôi lúc trái với tự nhiên, không hợp 
với lẽ thường trong Vì bây giờ mẹ mới về, 
Vì sao cá không biết nói?... đã phần nào 
thực hiện được nguyên tắc “hai trong 
một” của hoạt động dạy học ở tiểu học: 
Cậu bé cắt bánh bị đứt tay nhưng 
không khóc. Mẹ về cậu mới khóc òa lên. 
Mẹ cậu hoảng hốt: 
- Con làm sao thế? 
- Con bị đứt tay. 
- Đứt khi nào thế? 
- Lúc nãy ạ! 
- Sao bây giờ con mới khóc? 
- Vì bây giờ mẹ mới về. 
(Vì bây giờ mẹ mới về - Tiếng Việt 
1 - tập 2 - trang 18) 
Câu nói cuối cùng của cậu bé làm 
cho ta buồn cười, chính vì câu nói đó xét 
về bề ngoài thì có vẻ hợp lí lắm, trả lời 
theo đúng như nội dung mà mẹ cậu bé 
hỏi. Nhưng xét lại thì thấy vô lí vì đáng 
lẽ ra cậu bé phải khóc ngay lúc bị đứt tay. 
Ở đây, cậu bé lại chờ lúc mẹ về mới òa 
lên khóc. Hành động này cho thấy sự 
nũng nịu dễ thương, rất trẻ con của cậu 
bé với mẹ. Người lớn thường dành cho 
trẻ sự yêu thương, vỗ về. Chính lí do này 
đôi khi khiến cho các em hay làm nũng. 
Vậy là cùng một lúc, cả trẻ em lẫn người 
lớn đều nhận được từ đây một bài học 
quý. Với trẻ là sự cần thiết phải chấm dứt 
thói nhõng nhẽo thái quá. Với người lớn, 
đó là cần phải cưng chiều con trẻ trong 
phạm vi có giới hạn, không được cưng 
chiều quá dễ làm trẻ sinh hư. 
Lại có những truyện lấy một cử chỉ, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Bùi Thanh Truyền 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
77 
một tư thế hoặc một hành động ngộ 
nghĩnh để gây cười. Trường hợp này 
thường xuất hiện ở mảng truyện về 
những chàng ngốc. Cái đáng cười ở 
những nhân vật này chủ yếu là những cử 
chỉ rập khuôn, máy móc, trái với tự 
nhiên, vô lí so với lẽ thường, thiếu hẳn sự 
“động não”. Ví như trong truyện Kéo cây 
lúa lên (Tiếng Việt 3 - tập 1 - trang 138), 
hành động của anh chồng khiến ta phải 
bật cười. Đáng lí khi thấy lúa của ruộng 
mình xấu hơn ruộng bên thì phải chăm lo 
tưới nước, bón phân. Ở đây, anh ta lại lấy 
tay kéo cây lúa nhà mình lên cho cao hơn 
lúa nhà người. Chính điều này đã dẫn đến 
hậu quả: Tất cả ruộng lúa của nhà anh ta 
đều bị héo rũ ra. Càng buồn cười hơn nữa 
khi anh chàng cứ chắc mẩm rằng nhờ sự 
“sáng tạo” của mình, lúa ruộng nhà đã và 
sẽ mọc nhanh hơn lúa ruộng bên. Hành 
động của bác nông dân trong truyện Giấu 
cày (Tiếng Việt 3 - tập 1- trang 128) cũng 
thế. Khi đáng nói nhỏ lại nói to, khi đáng 
nói to lại nói nhỏ. Giấu cày đáng lí bí mật 
thì lại hét toáng lên để kẻ trộm biết. Mất 
cày đáng lí phải kêu to lên để mọi người 
biết mà mách cho tên trộm đang ở đâu thì 
lại nói thầm. Cái lí và chiều sâu của tiếng 
cười trong Bốn cẳng và sáu cẳng (Tiếng 
Việt 3 - tập 2 - trang 142) nằm ở chỗ: chú 
lính cứ tưởng rằng tốc độ chạy nhanh hay 
chậm phụ thuộc vào số lượng cẳng: ngựa 
và người cùng chạy, số cẳng càng lớn thì 
tốc độ càng cao. Xét về phương diện cấu 
tạo, truyện này có cả lời nói đáng cười 
(Anh hỏi hay thật! Bốn cẳng lại nhanh 
hơn sáu cẳng được à), hành động đáng 
cười (Chú lính dắt ngựa ra đường, không 
cưỡi ngựa để đi cho nhanh mà cứ đánh 
ngựa rồi cắm cổ chạy theo) và hoàn cảnh 
đáng cười (Có một chú lính được quan 
sai đi làm việc gấp). Nếu tác giả không 
xây dựng nên hoàn cảnh trên thì chắc hẳn 
bản chất ngốc nghếch của chú lính không 
thể nào bộc lộ. 
Truyện cười không chỉ nêu lên 
những hoàn cảnh, những lời nói, những 
cử chỉ, hành động của nhân vật, mà có 
khi còn lấy một tính cách để gây cười 
(Đổi giày, Đãng trí bác học...). Nêu bật 
được tính cách này để học sinh suy ngẫm 
về nó, qua đó tự nhận thức về bản thân 
cũng là yêu cầu cần đạt được khi dạy 
học: 
Có một cậu học trò vội đến trường 
nên xỏ nhầm giày, một chiếc cao, một 
chiếc thấp. Bước tập tễnh trên đường, 
cậu lẩm bẩm: 
- Quái lạ, sao hôm nay chân mình 
một bên dài, một bên ngắn? Hay tại 
đường khấp khểnh? 
Vừa tới sân trường, cậu gặp ngay 
thầy giáo. Thấy cậu bé đi chân thấp chân 
cao, thầy bảo: 
- Em đi nhầm giày rồi. Về đổi giày 
đi cho dễ chịu. 
Cậu bé vội chạy về nhà. Cậu lôi từ 
gầm giường ra hai chiếc giày, ngắm đi 
ngắm lại rồi lắc đầu nói: 
- Đôi này vẫn chiếc thấp chiếc cao. 
(Đổi giày - Tiếng Việt 2 - tập 1 - 
trang 68) 
Nếu là người tinh nhạy, cậu bé sẽ 
nghĩ ra ngay mình bước tập tễnh là do 
quá vội đến trường nên đi nhầm giày, vì 
thế mới chân thấp chân cao. Từ suy nghĩ 
ngớ ngẩn về sự bất thường trong độ dài 
hai cái “phương tiện di chuyển” của 
mình, cậu lại dấn sâu vào một sai lầm kì 
cục khác: à ra thế, nguyên nhân tại ở... 
con đường. Sự cẩu thả luôn đi kèm với 
việc thiếu ý thức trách nhiệm về bản 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
78 
thân, hệ quả là cậu hoàn toàn không nghĩ 
đến nguyên nhân chủ quan mà cứ đổ lỗi 
tại khách quan. Được sự gợi ý của thầy 
giáo, cậu học trò cũng không thông minh 
lên chút nào: chạy vội về nhà, lôi từ gầm 
giường ra hai chiếc giày, ngắm đi ngắm 
lại rồi vẫn lắc đầu nói: Đôi giày vẫn chiếc 
thấp chiếc cao. Đây chính là đặc tính cố 
hữu của những chàng ngốc - hành động 
một cách máy móc, mất cả tính chủ động 
và sinh động của con người. 
Lời nói, cử chỉ, hoàn cảnh, tính 
cách càng trái tự nhiên, máy móc, ngộ 
nghĩnh, khác thường bao nhiêu thì tiếng 
cười gây ra càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Vì 
vậy, một trong những biện pháp gây cười 
là phóng đại sự thực. Không có ai ngốc 
đến nỗi được cấp ngựa để đi cho nhanh 
lại dắt ngựa ra đến đường nhưng không 
cưỡi mà cứ đánh ngựa chạy trước rồi cắm 
cổ lao theo, không có cậu học trò nào tối 
dạ đến mức được thầy chỉ cho là mình đi 
nhầm giày mà vẫn không biết cách lựa 
chọn để được hai chiếc giày cùng đôi... 
Việc phóng đại, thậm chí bịa ra 
những hoàn cảnh éo le, những nhân vật 
ngộ nghĩnh thường ít hoặc không phương 
hại nhiều đến tính chất hiện thực của 
truyện. Thực tế vẫn còn không ít những 
cô cậu học trò thiếu tính ngăn nắp, cẩn 
thận, sinh hoạt thường theo kiểu “nước 
đến chân mới nhảy” như cậu bé trong 
truyện Đổi giày, hoặc thiếu ý thức tự thân 
phấn đấu mà thường ỷ lại, trông cậy vào 
sự hỗ trợ từ bên ngoài như nhân vật chính 
trong Mua kính. Ngoài việc hướng đến 
đạt được những mục tiêu dạy học từng 
phân môn, môn học, hiệu ứng thẩm mĩ 
giàu tính nhân văn mà truyện cười đem 
đến cho học sinh thông qua những tính 
cách điển hình trong những hoàn cảnh 
điển hình như thế rất cần thiết cho việc 
hình thành, phát triển nhân cách các em 
sau này. 
Ý nghĩa giáo dục trẻ thơ của truyện 
cũng là một phương diện quan trọng cần 
phải khai thác. Nội dung các truyện cười 
làm ngữ liệu dạy học các phân môn Tập 
đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm 
văn trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu 
học nhìn chung phù hợp với đặc trưng 
tiếp nhận văn học và nhận thức của người 
học. Nhiều câu chuyện không những 
mang lại cho các em tiếng cười sảng 
khoái mà còn có tác dụng rất lớn trong 
việc bổ trợ kiến thức, hướng đến mục tiêu 
phát triển hài hòa, toàn diện nhân cách 
trẻ. Câu chuyện Mua kính khéo léo 
khuyên các em đừng lầm tưởng hễ cứ đeo 
kính thì đọc được sách. Nhận ra điều phi 
lí trong truyện, tự học sinh sẽ biết rằng, 
muốn biết chữ thì phải học. Ẩn sau tiếng 
cười sảng khoái trong Dại gì mà đổi là 
lời khuyên nhủ ân cần: Làm con, phải 
biết ngoan ngoãn, hiếu thảo, tránh thói hư 
tật xấu, học hỏi những điều hay lẽ phải để 
cha mẹ vui lòng. Với Không nỡ nhìn, 
thông qua sự mâu thuẫn giữa nhận thức 
và hành động kì quặc của anh thanh niên, 
giáo viên cần giúp trẻ lĩnh hội trọn vẹn 
thông điệp: Sống đẹp là phải biết chia sẻ, 
nhường nhịn, biết sống vì người khác. 
Độc đáo của cái cười là ở chỗ nó 
nâng con người cao hơn hoàn cảnh. Khi 
cười thói hư, tật xấu, người ta sẽ đứng ở 
vị trí bên trên chúng. Như vậy, cái cười, 
ở chiều sâu của nó, dường như có một cái 
gốc là những cảm xúc thấm đượm chất 
nhân văn - đó là nhiệt tình thống thiết bảo 
vệ những giá trị hằng cửu của con người, 
niềm mong muốn nhân loại được sống tốt 
hơn, đẹp hơn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Bùi Thanh Truyền 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
79 
Có lẽ vì quán triệt và thấu suốt quan 
điểm này nên không chỉ dừng lại ở sự đổi 
mới ngữ liệu dạy học bằng hệ thống 
truyện cười nhiều hấp lực với học sinh, 
như là sự tự chứng minh, làm rõ chủ 
trương, phương cách mới mẻ, táo bạo của 
mình, trong sách Tiếng Việt 4, tập 2, 
trang 153, đội ngũ biên soạn đã quảng bá 
cho lợi ích của tiếng cười qua một bài tập 
đọc - vị trí mà tất cả những văn bản 
truyện cười trong sách giáo khoa Tiếng 
Việt tiểu học đều ao ước: 
TIẾNG CƯỜI LÀ LIỀU THUỐC 
BỔ 
Một nhà văn từng nói: “Con người 
là động vật duy nhất biết cười.” 
Theo một thống kê khoa học, mỗi 
ngày, trung bình người lớn cười 6 phút, 
mỗi lần cười kéo dài độ 6 giây. Một đứa 
trẻ trung bình mỗi ngày cười 400 lần. 
Tiếng cười là liều thuốc bổ. Bởi vì 
khi cười, tốc độ thở của con người lên 
đến 100 ki-lô-mét một giờ, các cơ mặt 
được thư giãn thoải mái và não thì tiết ra 
một chất làm người ta có cảm giác sảng 
khoái, thỏa mãn. Ngược lại, khi người ta 
ở trong trạng thái nổi giận hoặc căm thù, 
cơ thể sẽ tiết ra một chất làm hẹp mạch 
máu. 
Ở một số nước, người ta dùng biện 
pháp gây cười để điều trị bệnh nhân. 
Mục đích của việc làm này là rút ngắn 
thời gian chữa bệnh và tiết kiệm tiền cho 
nhà nước. 
Bởi vậy, có thể nói: ai có tính hài 
hước, người đó chắc chắn sẽ sống lâu 
hơn. 
Theo báo Giáo dục và Thời đại 
Dẫn dài như vậy để chúng ta một 
lần nữa được thú vị khi thừa nhận hiệu 
quả thiết thực của tiếng cười trong đời 
sống và trong dạy học - một cái nghề mà 
áp lực của nó sẽ nhanh chóng khiến con 
người lão hóa nếu không có liều thuốc 
“tráng tinh bổ thể” nói trên. 
4. Kết luận và suy ngẫm của người 
trong cuộc 
Theo các chuyên gia tâm lí học, nụ 
cười có tác dụng với sự phát triển thể 
chất, sức khỏe con người, đặc biệt là đối 
với trẻ em, giống như việc tập thể dục từ 
bên trong. Tiếng cười giúp cho sự vận 
động, thả lỏng của các cơ và làm dịu bớt 
sự căng thẳng, mang lại cho trẻ cảm giác 
thoải mái, dễ chịu - một liều thuốc đặc 
hiệu để trị bệnh quá tải trong học tập ở 
tiểu học hiện nay. Đó cũng là cầu nối trẻ 
em với thế giới bên ngoài. Nó giúp các 
em sống vị tha hơn, vun đắp thêm cảm 
xúc, nuôi dưỡng tâm hồn trẻ. Xuất phát 
từ những cơ sở này, truyện cười là món 
ăn tinh thần không thể thiếu cho trẻ em 
hôm nay, là ngữ liệu dạy học độc đáo, 
hữu hiệu của thầy cô giáo tiểu học. 
Tuy vậy, cũng phải thừa nhận rằng, 
tiếng cười trong một số truyện cho thiếu 
nhi đương đại cũng có vấn đề, không 
phải hoàn toàn mang lại cho trẻ em lẫn 
người lớn sự an tâm, thanh thản. Đó là sự 
nông cạn, nhạt nhẽo, cười giả, cười lấy 
được, chỉ thuần sinh lí, đôi khi dung tục, 
thiếu sự chắt lọc cũng như chất trí tuệ, 
giảm sút các chức năng cần thiết đối với 
văn học dành cho tuổi thơ, xa cách với 
đời sống, suy nghĩ, nhận thức lứa tuổi 
này. Đằng sau tiếng cười ở đây rõ ràng là 
sự mệt mỏi, sự đầu hàng trước hoàn cảnh 
của trẻ, hoặc đi xa hơn là sự lảng 
tránh trách nhiệm. Điều đó khiến những 
người tâm huyết với trẻ thơ không khỏi 
chạnh buồn. Đã đến lúc chúng ta cần phải 
có sự đánh giá, đối xử nghiêm chỉnh với 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
80 
tiếng cười hàng ngày của trẻ. Về điểm 
này, chúng tôi rất tán thành đề xuất của 
nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn là phải 
phấn đấu tạo ra “một tiếng cười có chất 
lượng cao - đó sẽ là một tiếng cười văn 
hóa” [4] trong các thức ăn tinh thần thần 
cho thiếu nhi. 
Để dạy tốt truyện cười trong 
chương trình Tiếng Việt tiểu học hiện 
hành, giáo viên nên chủ động bồi dưỡng 
kiến thức về truyện cười (đọc truyện, 
tham khảo những công trình nghiên cứu 
chuyên sâu để nắm chắc đặc trưng thể 
loại, phương pháp truyền thụ, phân tích 
tác phẩm...). Tùy theo từng truyện được 
dùng làm ngữ liệu dạy học trong các 
phân môn, giáo viên sử dụng phối hợp 
nhiều cách thức khai thác, tiếp cận khác 
nhau để tạo sự phong phú, sinh động cho 
tiết dạy. Có như vậy mới nuôi dưỡng, 
phát triển được bầu không khí học tập 
hào hứng, tích cực, bền lâu của học sinh. 
Bên cạnh đó, thầy cô cũng cần giúp học 
sinh nắm chắc yêu cầu của bài học, kết 
hợp khai thác hợp lí tranh minh họa (nếu 
có) và hệ thống câu hỏi gợi ý. Đó chính 
là những điểm tựa cần thiết để người học 
hiểu và nhớ được sâu nội dung câu 
chuyện. Khi giảng dạy, giáo viên cần tổ 
chức để học sinh tiếp xúc với các truyện 
vui ở nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau: 
đọc trước các truyện trong sách giáo 
khoa, hiểu nội dung câu chuyện và rút ra 
bài học ý nghĩa mà nó đề cập... Vấn đề 
đọc, tập hợp các câu chuyện vui ở các 
sách, báo khác (Nhi đồng, Cười, Truyện 
vui dạy học, các truyện cười dân gian 
dành cho thiếu nhi...) của người học song 
song với việc tổ chức các trò chơi với 
truyện cười, các cuộc thi dành riêng cho 
đối tượng nhỏ tuổi như sáng tác truyện 
cười, thi kể chuyện vui theo chủ đề nhân 
các ngày lễ, ngày kỉ niệm trong năm cũng 
là những yêu cầu không thể thiếu mà mỗi 
giáo viên cần phải đặt ra trong quá trình 
dạy học. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (2012), 
Kỉ yếu Hội thảo khoa học “Dạy học tích hợp ở tiểu học: hiện tại và tương lai”, 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
2. Lê Phương Nga (2003), Chuyện vui dạy học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
3. Triều Nguyên (2011), Tìm hiểu truyện cười Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 
4. Vương Trí Nhàn, “Cười - chất lượng cao”, Báo Văn nghệ Trẻ số ra ngày 09-6-2007. 
5. Nhiều tác giả (2002, 2003, 2004, 2005, 2006), Tiếng Việt 1, 2, 3, 4, 5, Nxb Giáo dục, 
Hà Nội. 
6. V. Guxep (1999), Mĩ học folklor, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 03-4-2015; ngày phản biện đánh giá: 10-5-2015; 
ngày chấp nhận đăng: 05-6-2015) 

File đính kèm:

  • pdftruyen_cuoi_voi_hieu_qua_day_hoc_o_truong_tieu_hoc_hien_nay.pdf