Từ triết học duy lý suy ngẫm về vấn đề trách nhiệm

Tóm tắt Từ triết học duy lý suy ngẫm về vấn đề trách nhiệm: ...loài người. Nói cách khác, dường như tất cả mọi thành tựu của nền văn minh công nghệ hiện đại đều có tiền đề của mình chính là truyền thống này, chính là tư duy duy lý. Nó trở thành cơ sở mang tính quyết định đối với việc hình thành thần luận, phát triển khoa học, khai sáng, tiến bộ khoa... thời hiện đại, làn sóng tâm trạng và hy vọng duy công nghệ đã xuất hiện nhiều lần. Chúng thường gắn liền với sự đột phá mới trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, như sự tự động hóa, tổng hợp hạt nhân nhằm đem lại nguồn năng lương vô tận, v.v... Tiến bộ kỹ thuật được đặc trưng bởi đặc điể...nh duy lý - tính toàn vẹn. Có thể gắn liền nó với tư tưởng Cổ đại về vũ trụ - tư tưởng về tính toàn vẹn hài hòa tự nhiên của vũ trụ, khi cái có một ý nghĩa đặc biệt là cái cá thể phát sinh, chứ không phải thành tố trừu tượng của tập hợp, mà là một bộ phận cần thiết của chỉnh thể, thiếu n...

pdf5 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Từ triết học duy lý suy ngẫm về vấn đề trách nhiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 18‐22 
18 
Từ triết học duy lý suy ngẫm về vấn đề trách nhiệm 
Trần Thị Điểu** 
Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng Giảng viên lý luận chính trị, 
Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 20 tháng 02 năm 2012 
Tóm tắt: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội thực chất là quá trình đem lại tính hợp lý cho lĩnh 
vực công nghiệp và tất cả các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Chúng dựa trên tư duy duy lý vốn 
đã hình thành ở phương Tây từ thời kỳ cổ đại. Tư duy duy lý dưới hình thức khoa học của nó đã 
trở thành một trong những điều kiện quan trọng bậc nhất để văn minh phương Tây đạt được những 
thành tựu to lớn và địa vị của nó chiếm ưu thế trong thế giới hiện đại. Để tiếp thu những thành tựu 
văn minh phương Tây, chúng ta cần thấu hiểu loại hình tư duy này. Song, tư duy duy lý cực đoan, 
đặc biệt là khi nó bị lạm dụng nhờ khoác lên mình cái vỏ “triết học duy lý”, có những hệ quả văn 
hoá rất tai hại. Điều nói này trước hết có liên quan tới một trong những vấn đề cấp bách của loài 
người hiện đại trong việc duy trì và phát triển một thế giới hoà bình và thịnh vượng là vấn đề trách 
nhiệm. Chính vì vậy, bài viết này có mục đích làm sáng tỏ bản chất của tư duy duy lý, những hệ 
quả văn hoá của triết học duy lý cực đoan nhìn từ góc độ trách nhiệm. 
*Triết học duy lý là một định hướng nhân 
sinh quan chiếm ưu thế của người phương Tây. 
Chính triết học duy lý đã có đóng góp rất quan 
trọng cho việc tạo dựng nền văn minh công 
nghiệp nhờ khẳng định tính hợp lý, tính có quy 
luật của thế giới (tự nhiên, xã hội), tính khả tri 
của thế giới và khả năng cải tạo thế giới của con 
người căn cứ trên tri thức khoa học về thế giới. 
Nói cách khác, triết học duy lý đã tạo ra hiện 
tượng được gọi là “chủ nghĩa tích cực phương 
Tây”. Nhờ triết học duy lý mà khoa học và kỹ 
thuật, công nghệ dựa trên nó có “vai trò hàng 
đầu” trên thước đo giá trị của xã hội, do vậy, 
được thúc đẩy phát triển và tích cực đi vào thực 
tiễn. Sự chiếm ưu thế thế của văn minh phương 
Tây về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kinh tế 
và hệ quả là về chính trị bắt nguồn chính từ 
thực tế nêu trên. Tiến hành công nghiệp hóa, 
______ 
* ĐT: 84-983986623. 
 E-mail: dieutth@yahoo.com.vn 
hiện đại hóa xã hội xét về thực chất là đem lại 
tính hợp lý, tính khoa học cho lĩnh vực sản xuất 
công nghiệp và tất cả các lĩnh vực sinh hoạt xã 
hội. Do đó, chúng ta không đơn giản tiếp thu 
những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công 
nghệ của người phương Tây mà quan trọng nhất 
là tiếp thu quan niệm của người phương Tây về 
khoa học, về địa vị của khoa học (khoa học là 
quốc sách hàng đầu) trong đời sống xã hội, tức 
triết học duy lý của họ. 
Tuy nhiên, bản thân thái độ đối với khoa 
học của người phương Tây, triết học duy lý của 
họ cũng có mặt trái của mình. Tiếp thu nó, 
chúng ta không thể coi nhẹ thực tế này, đặc 
biệt, trong điều kiện loài người hiện đại đang 
đứng trước vô vàn mối nguy hiểm bắt nguồn 
chính từ thái độ của chúng ta đối với khoa học 
công nghệ, từ cách thức chúng ta sử dụng 
những thành tựu của chúng. Đây là vấn đề 
thuần túy triết học - vấn đề trách nhiệm. Bài 
viết này sẽ đề cập tới phương diện đạo đức, 
T.T. Điểu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 18‐22 19
trách nhiệm như một hệ quả tất yếu và khôn 
lường của triết học duy lý, của tư duy và lối 
sống duy lý nhằm góp phần đưa ra lời cảnh tỉnh 
cho quá trình hiện đại hóa xã hội. 
Như đã rõ, triết học duy lý xuất phát từ luận 
điểm cho rằng, tri thức là một trong những 
phương tiện để luận chứng cho hoạt động, rộng 
hơn là cho cuộc sống. Chỉ được đối chiếu với 
những nhu cầu, những mong muốn, những hy 
vọng, những khả năng cụ thể thì mới trở thành 
tư tưởng, tức chương trình hành động của các 
cộng đồng xã hội, của các thể chế văn hóa xã 
hội: khoa học, chính trị, nghệ thuật, v.v... Chất 
lượng của tri thức cho phép hành động một 
cách có hiệu quả - đạt tới mục đích với một 
lượng sức lực và phương tiện bỏ ra tối thiểu - là 
cơ sở cho tính duy lý (hợp lý) của nó, cũng như 
cho chính tính duy lý của hoạt động gắn liền 
với nó ở trong lĩnh vực tương ứng. 
Theo quan niệm triết học duy lý truyền 
thống, tính duy lý biểu thị tư tưởng “đã được 
làm ra” của sự vật, của hiện tượng (F.Bacon). 
Tính duy lý này bắt nguồn từ tư tưởng “techne” 
ở thời Cổ đại - cải biến hay tái hiện hiện thực 
một cách nhân tạo, khéo léo. Nhờ độc thần giáo 
(sáng tạo ra thế giới theo một chủ định) và thần 
luận, tư tưởng này nhận được những xung 
lượng bổ sung, chính điều này đảm bảo các tiền 
đề cho tiến bộ khoa học - kỹ thuật thăng tiến 
như vũ bão của nền văn minh phương Tây với 
tư cách nền văn minh khoa học và công nghệ. 
Xét trên phương diện đó, tính duy lý trùng 
hợp với tính hiệu quả với tư cách sự phù hợp 
giữa các mục đích lựa chọn với các nhu cầu hay 
các chuẩn tắc giá trị, giữa kết quả với mục đích, 
giữa kết quả với chi phí nguồn lực. Các khái 
niệm nêu trên chứng tỏ sự thống nhất sâu xa 
giữa các quá trình quản lý và nhận thức, sự 
thống nhất ấy cũng thể hiện ở tính được chế 
định của các quá trình ấy bởi hoạt động thực 
tiễn. Giống như biểu hiện mang tính tích hợp 
của tính hiệu quả là quan hệ giữa nhu cầu với 
những khả năng và những nguồn lực hiện có, 
thì biểu hiện mang tính tích hợp của tư tưởng về 
tính duy lý, về cấu tạo hợp lý của những cái 
thực tồn là quan niệm về hoạt động có hiệu quả 
và khả thi. 
Với tư cách tính hiệu quả và tính xây dựng 
của hoạt động có mục đích rõ ràng, tính duy lý 
có nghĩa rằng, những cái hợp lý, duy lý là 
những cái cho phép đạt tới mục đích nhờ những 
phương tiện tối ưu. Theo chúng tôi, chính việc 
kết hợp giữa tư tưởng “techne” - cải biến hiện 
thực một cách nhân tạo, khéo léo - với tư tưởng 
độc thần đã đem lại rất nhiều kết quả tích cực 
cho loài người. Nói cách khác, dường như tất cả 
mọi thành tựu của nền văn minh công nghệ hiện 
đại đều có tiền đề của mình chính là truyền 
thống này, chính là tư duy duy lý. Nó trở thành 
cơ sở mang tính quyết định đối với việc hình 
thành thần luận, phát triển khoa học, khai sáng, 
tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tính tích cực trong 
kinh doanh và quản lý... Toàn bộ thế giới cùng 
với những “mảnh ghép” của mình thể hiện là 
“đã được làm xong”. Con đường nhận thức thể 
hiện là con đường ý thức, nhận thức lược đồ 
của cái đã được làm xong đó. 
Nhưng thế kỷ XX đã phát hiện ra không chỉ 
có sự thịnh vượng và sự phát triển trên con 
đường ấy. Những vấn đề sinh thái, vũ khí hạt 
nhân, thảm họa công nghệ, các công nghệ nguy 
hiểm, bạo lực chính trị - không phải là hệ quả 
phụ mà là những hệ quả trực tiếp và không 
tránh khỏi của tư tưởng “techne” về tính duy lý, 
tư tưởng minh biện cho việc làm cho hiện thực 
bao quanh trở nên phù hợp với bản chất đã 
được nhận thức của nó. 
Tư duy triết học duy lý về “techne” (kỹ 
thuật, công nghệ) hoặc là loại bỏ khái niệm phi 
duy lý về trách nhiệm và gắn liền với nó là các 
tư tưởng về lương tâm, tội lỗi, sám hối, hổ thẹn, 
v.v..., hoặc là lý giải nó như là trách nhiệm về 
việc hiện thực hóa tư tưởng hợp lý (tức có hiệu 
quả). Hệ quả của việc tuyệt đối hóa tính duy lý 
như vậy là tình trạng phi đạo đức, là những 
phương diện tiêu cực của tiến bộ khoa học - kỹ 
thuật. Việc tuyệt đối hóa truyền thống duy lý 
“techne” hay duy lý “công nghệ” dẫn tới những 
thái cực của chủ nghĩa duy lý trừu tượng, là cái 
kéo theo thói mạo danh, độc đoán về trí tuệ và 
bạo lực. 
Tác giả Đỗ Minh Hợp có nhận xét xác 
đáng: “Những thành tựu khoa học và kỹ thuật 
T.T. Điểu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 18‐22 20
đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của thế giới và 
của con người. Những hậu quả của cuộc cách 
mạng công nghệ là rất đa dạng. Sức mạnh kỹ 
thuật đã mở ra những khả năng to lớn cho sự 
phát triển tinh thần theo các phương hướng 
khác nhau nhất. Tuy nhiên, người ta cũng nhận 
thấy, kỹ thuật tự thân nó không tự động kéo 
theo sự tiến bộ trong lĩnh vực văn hóa và tinh 
thần - đạo đức, ngược lại, những thành tựu 
khoa học - kỹ thuật làm phức tạp hơn nữa bối 
cảnh tinh thần vốn đã trở nên phong phú và 
phức tạp hơn rất nhiều so với trước kia. Quyền 
lực của kỹ thuật đặt ra vô số vấn đề gay gắt 
nhất, đòi hỏi phải được giải quyết, như vấn đề 
nguy cơ chiến tranh hạt nhân và hiểm họa sinh 
thái. Chúng chỉ là một phần của vô số vấn đề 
toàn cầu đang thật sự đe dọa sự tồn tại của loài 
người” [1]. 
Ý nghĩa xã hội của kỹ thuật là hiển nhiên 
tới mức không ai dám bác bỏ. Sự khác biệt giữa 
các khuynh hướng triết học chỉ gắn liền với sự 
khác nhau trong việc đánh giá vai trò của kỹ 
thuật. Một bộ phận các nhà triết học đánh giá 
vai trò này một cách hoàn toàn tích cực, gắn 
liền những hy vọng lớn với tiến bộ kỹ thuật. Có 
thể đánh giá quan điểm như vậy là quan điểm 
duy công nghệ. Một bộ phận các nhà triết học 
khác đánh giá vai trò của kỹ thuật một cách 
thận trọng hơn, không những chỉ ra những ưu 
việt do tiến bộ khoa học - kỹ thuật tạo ra mà 
còn vạch ra cả những mối nguy hiểm mà nó 
mang trong mình. Có thể coi loại quan điểm 
này là quan điểm nhân văn. Các đại diện của 
quan điểm nhân văn bày tỏ sự quan tâm không 
những tới những vấn đề do tiến bộ khoa học - 
kỹ thuật sinh ra (như vấn đề hạt nhân và sinh 
thái) mà chủ yếu tới một thực tế là con người có 
nguy cơ đánh mất bộ mặt của riêng mình khi 
đối mặt với sức mạnh của kỹ thuật. Nói cách 
khác, tin tưởng vào sức mạnh toàn năng của 
những thành tựu kỹ thuật, con người có thể vô 
tình đánh mất những giá trị nhân văn, như năng 
lực thấu hiểu và đồng cảm với người thân, khái 
niệm về cái thiện và cái ác, điều này kéo theo 
sự phi nhân văn hóa quan hệ xã hội và quan hệ 
của cá nhân với nhau. 
Trong suốt thời hiện đại, làn sóng tâm trạng 
và hy vọng duy công nghệ đã xuất hiện nhiều 
lần. Chúng thường gắn liền với sự đột phá mới 
trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, như sự tự 
động hóa, tổng hợp hạt nhân nhằm đem lại 
nguồn năng lương vô tận, v.v... Tiến bộ kỹ 
thuật được đặc trưng bởi đặc điểm không tiên 
đoán được về nguyên tắc của những hậu quả 
của nó, trong đó có cả những hậu quả tiêu cực. 
Do vậy, con người cần phải luôn có thái độ sẵn 
sàng để biết cách đáp lại những thách thức do 
bản thân mình tạo ra: thế giới thiết bị kỹ thuật 
nhân tạo có khả năng không những đem lại điều 
hữu ích mà cả sự thiệt hại không sửa chữa được 
cho con người và môi trường sinh sống của nó. 
Như vậy, kỹ thuật, những thành tựu kỹ thuật 
với tư cách sản phẩm của tư duy duy lý rốt cuộc 
đã đưa chúng ta tới vấn đề trách nhiệm. 
Tính duy lý kỹ thuật loại bỏ những vấn đề 
phi duy lý, không hợp lý, và do vậy là vô nghĩa, 
không phù hợp với quan niệm về công nghệ 
hợp lý! Chính vì vậy mà thói mạo danh vô trách 
nhiệm vẫn tiếp tục lộng hành. Tự nhiên, xã hội 
tiếp tục bị “hành hạ” dường như nhằm thực 
hiện các quy luật phát triển đã được nhận thức. 
Khi đó, trách nhiệm bị loại bỏ, vì tự nhiên và 
con người được tuyên bố là “làm cho phù hợp 
với bản chất của mình”! Con người bị bắt buộc 
phải chấp nhận một lược đồ nào đó, con người 
dẫu thế nào đi chăng nữa cũng tuyệt đối đánh 
mất tự do trong việc luận chứng cho hành vi 
của mình. Nhưng cũng chính vì vậy mà con 
người hoàn toàn được giải phóng khỏi trách 
nhiệm về những hậu quả và kết quả hành động 
của mình. Vì con người hành động một cách 
hợp lý, chỉ là phương tiện, công cụ, kẻ thực thi. 
Qua đó, chủ nghĩa duy lý về kỹ thuật tước mất 
hành vi tự giác và có trách nhiệm của triết học 
đạo đức. 
Có cơ sở của mình là tính duy lý “techne”, 
cuộc sống được minh biện ở bên ngoài đạo đức. 
Với tư cách các nhân tố của hành vi có nhân 
cách, ý thức, lương tâm và trách nhiệm sẽ đòi 
hỏi chính những nỗ lực của cá nhân để thấu 
hiểu và suy xét hiện thực, sẽ hiện thực hóa sự 
hiện sinh cá nhân của con người. Tính duy lý 
T.T. Điểu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 18‐22 21
“techne” không có lương tâm. Nó chỉ cần đến 
tính khách quan của các tri thức, sự diễn đạt 
chính xác của chúng và hiệu quả sử dụng 
chúng. Hợp lý là những gì cho phép đạt tới mục 
đích và mong muốn hơn là với chi phí tối thiểu. 
Lý tính không những không có lương tâm mà 
còn nằm ngoài nhân cách, cố gắng phi nhân 
cách hóa tri thức, loại bỏ những khát vọng, sở 
thích chủ quan ra khỏi tri thức. Hơn nữa, tính 
duy lý đặc biệt là hạt nhân của nó - tính duy lý 
khoa học, định hướng không những vào những 
cái nằm ngoài nhân cách, mà khi chạy theo tính 
khách quan, nó còn định hướng vào những cái 
nằm ngoài nhân tính, vào việc loại con người 
ra khỏi bức tranh về thế giới. 
Tính phản nhân văn và vô hiệu quả thực 
tiễn của chủ nghĩa duy lý trừu tượng có nguyên 
nhân của mình là nó bị tách rời khỏi huyết 
mạch sống của tồn tại, khỏi cội nguồn của tồn 
tại là trái tim tâm hồn. Xuất phát điểm của nó là 
quan niệm trừu tượng về cái chung và giống 
như trong lý thuyết tập hợp của toán học, con 
người xã hội được hiểu là một thành tố của một 
tập hợp chỉ được hợp nhất bởi một đặc điểm 
chung nào đó. 
Nhưng, tính duy lý không chỉ gắn liền với 
định hướng mục đích, mà còn gắn liền với thử 
nghiệm thấu hiểu và biểu thị tính đa dạng vô 
tận của thế giới, kể cả những đặc điểm và đặc 
tính vô cùng đa dạng của một sự vật riêng biệt, 
bằng những phương tiện hữu hạn. Tính hữu hạn 
tất yếu này thể hiện ở sự trừu tượng hóa khỏi 
một số đặc điểm tách biệt và tách biệt một số 
điểm khác cấu thành tính toàn vẹn của sự vật. 
Điều này có nghĩa khả năng kiến tạo, tái tạo 
một sự vật như một chỉnh thể thống nhất sau 
một số bước đi. Do vậy, chúng ta có thể nói tới 
một đặc điểm quan trọng nữa của tính duy lý - 
tính toàn vẹn. Có thể gắn liền nó với tư tưởng 
Cổ đại về vũ trụ - tư tưởng về tính toàn vẹn hài 
hòa tự nhiên của vũ trụ, khi cái có một ý nghĩa 
đặc biệt là cái cá thể phát sinh, chứ không phải 
thành tố trừu tượng của tập hợp, mà là một bộ 
phận cần thiết của chỉnh thể, thiếu nó thì không 
còn chỉnh thể nữa. Cái tương tự với kiểu tính duy 
lý này ở phương Đông là tư tưởng “đạo”: đạo - 
chân lý hay đạo - con đường, cái duy nhất và độc 
đáo trong tính toàn vẹn hài hòa của vũ trụ. 
Con người chỉ có thể nhận thức mức độ và 
độ sâu sắc của trách nhiệm bằng những phương 
pháp tư duy truyền thống. Nhưng không phải 
trách nhiệm vì thói độc đoán duy lý, mà tính 
hợp lý như con đường nhận thức mức độ và độ 
sâu sắc của trách nhiệm. 
Thời đại chúng ta là thời đại nhận thức giới 
hạn của lý tính và của tính hợp lý “công nghệ”. 
Lĩnh vực mạo danh chủ nghĩa tích cực duy lý 
càng ngày cạng bị thu hẹp lại, ngày càng bị loài 
người cấm đoán hiện diện trong kỹ thuật, chính 
trị và thậm chí cả trong khoa học. Nhận thức về 
bản chất biểu thị một chiều cạnh đặc thù người: 
tự do và trách nhiệm trong chỉnh thể hài hòa 
của vũ trụ. 
Tính thỏa đáng của hành vi con người 
không được quy định một cách nhất quán bởi 
tính chân thực của tri thức hiện có và của sự lập 
luận. Cái mang tính thứ nhất không phải là tư 
duy và ý thức mà là bản thân hoạt động thực 
tiễn, còn tư duy và ý thức chỉ là phương diện, 
thậm chí là một trong những phương tiện để 
luận chứng cho hành vi con người. Thế giới 
người là thế giới nhân cách, không mang tính 
ngẫu nhiên mà hoàn toàn do sự lựa chọn có 
trách nhiệm quy định. Trung tâm của trách 
nhiệm này là cá nhân giữ một địa vị không lặp 
lại và có trách nhiệm trong chỉnh thể tồn tại. 
Chủ nghĩa duy lý trừu tượng không công 
khai thừa nhận sức mạnh và ý nghĩa có cá tính 
khi viện dẫn vào trách nhiệm cá nhân, đòi hỏi 
cá nhân phải phục tùng và tự hy sinh. Song, 
nguyên lý trách nhiệm cá nhân dưới mọi hình 
thức đều đòi hỏi phải thừa nhận vô điều kiện ý 
chí tuyệt đối tự do. Việc khước từ thừa nhận 
quyền tự do lựa chọn có nghĩa là thủ tiêu mọi 
hệ thống đạo đức và pháp luật. Tính duy nhất 
và tính thứ nhất của trách nhiệm cá nhân đối 
với mọi biểu hiện của tính tích cực cá nhân là 
hòn đá tảng của mọi luật pháp và đạo đức. 
Trách nhiệm là không thể loại bỏ được khỏi 
cuộc sống con người. Không phải hành vi có 
trách nhiệm vì nó hợp lý, mà nó hợp lý vì nó có 
T.T. Điểu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 18‐22 22
trách nhiệm. Hành vi không phải phi duy lý, mà 
nó đơn giản “còn hơn, siêu duy lý” vì nó có 
trách nhiệm. Tính duy lý chỉ là một nhân tố, 
một phương diện của trách nhiệm, là mức độ 
quy mô và độ sâu sắc của nó. Tính duy lý 
không phải cái gì khác ngoài sự lý giải và biện 
minh cho hành vi trước và sau khi thực hiện 
hành vi. 
Phải chăng tính thứ nhất của trách nhiệm so 
với tính duy lý truyền thống có nghĩa là tính phi 
duy lý của nó? Vả lại còn có truyền thống duy 
lý chủ nghĩa trong việc đánh giá trách nhiệm, 
tội lỗi, sám hối như các biểu hiện của cái phi 
duy lý. Phải chăng trách nhiệm không có căn 
cứ? Rốt cuộc là trách nhiệm đối với ai? 
Con người không thể sống trong thế giới vô 
nghĩa. Cuộc sống của con người trong thế giới 
và bản thân thế giới cần được thấu hiểu, lý giải 
và qua đó là minh biện. Lý tính đóng vai trò 
mang tính nguyên tắc nhưng chỉ là trung gian 
trong quan hệ giữa tính thỏa đáng và tính khách 
quan. Trọng tâm của sự khác biệt và của sự đối 
lập là quan hệ giữa lý tính và trách nhiệm. Nếu 
trách nhiệm là hệ quả của lý tính, mang tính thứ 
sinh đối với các lược đồ duy lý, phụ thuộc vào 
chúng, thì kết quả sẽ là sự không tưởng duy lý 
chuyển thành chế độ cực quyền quan liêu. Nếu 
lý tính là hệ quả của trách nhiệm, là con đường 
nhận thức mức độ và độ sâu sắc của trách 
nhiệm, thì kết quả sẽ là ý thức về bổn phận của 
cá nhân tự do. Tính duy lý có liên hệ mật thiết 
với nhân cách, với sự hình thành và phát triển 
nhân cách, với quá trình quan hệ thường diễn 
biến giữa những thành tố văn hóa khác nhau 
đang nuôi dưỡng tồn tại của cá nhân. Tính duy 
lý không những đặc trưng cho tính hiệu quả của 
hoạt động mà còn đặc trưng cho mức độ tham 
gia của con người vào hệ thống quan hệ chung 
của tồn tại, cho mức độ tự do và trách nhiệm 
của cá nhân. Do vậy, bản thân duy lý không 
những được quy định về mặt văn hóa, nhân 
cách, mà một trong những phương diện quan 
trọng nhất chính là trách nhiệm. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đỗ Minh Hợp, Diện mạo triết học phương Tây hiện đại, 
NXB Hà Nội, 2006. 
Responsibilities from the perspective of irrationalism 
 Tran Thi Dieu 
Viet Nam National University, Hanoi Training Centre for Teachers of Political Theory, 
G7 Building - 144 Xuan Thuy road, Hanoi, Vietnam 
Industialization and modernization, by nature, is the process of bringing suitability to the area of 
industry in particular and to the society as a whole in general. This is based on irrationalism, which shaped 
its form in the West from ancient time. Irrationalism, in its scientific form, served as one of the most 
important reasoning premises which helped Western civilization obtain huge achievements and its 
prominent status in the modern world. In order to acquire the Western civilization, it is esscential that we 
get an insight into this reasoning premise. However, extreme irrationalism, particularly when abused under 
the ‘irrationalism’ coat, may result in hazardous cultural consequences, which directly associates with one 
of modern man’s most urgent issues in maintaining and developing a world of peace and prosperity: a 
sense of responsibility. Therefore, this article aims at clarifying the nature of irrationalism and the cultural 
consequences caused by extreme irrationalism as seen from the angle of responsibility. 

File đính kèm:

  • pdftu_triet_hoc_duy_ly_suy_ngam_ve_van_de_trach_nhiem.pdf
Ebook liên quan