Từ tự nhiên thần luận đến tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong tư tưởng chính trị của john locke

Tóm tắt Từ tự nhiên thần luận đến tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong tư tưởng chính trị của john locke: ...thể nhận thức được bằng những khả năng bình thường, phổ biến của con người. Tư tưởng duy vật dưới hình thức thần luận về thế giới và lý luận nhận thức của Locke tác động theo hai chiều hướng khác nhau đến triết học Anh thế kỷ XVIII: chủ nghĩa duy vật Toland, Colins, Priestley, nhận thức...ân, hay nhà nước. Bản chất con người, vốn do Thượng đế tạo ra, quy định bản chất xã hội. Xã hội tồn tại một cách tự nhiên trước khi xuất hiện nhà nước với tính cách một cơ thể nhân tạo do sự thỏa thuận của nhân dân với nhà cai trị, mà kết quả là bộ máy quyền lực được thừa nhận hợp pháp...ke kiên trì quan điểm mà theo đó trong tự nhiên trước và bên ngoài con người khái niệm tự do và không tự do không thể dung hòa với nhau. Chúng chỉ có nghĩa ở nơi nào hiện diện mối quan hệ giữa người với người, những đòi hỏi lẫn nhau, sự dàn xếp và bất đồng Đối cực của tự do không hẳn l...

pdf13 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 130 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Từ tự nhiên thần luận đến tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong tư tưởng chính trị của john locke, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quyết đoán, hạn chế 
tự do cá nhân để đảm bảo ổn định chính trị, 
còn Locke chứng kiến một nước Anh đang 
dần hồi phục và tìm kiếm con đường hợp 
lý, ôn hòa để phát triển trong phù hợp với 
điều kiện cụ thể, đó là mô hình quân chủ 
lập hiến, sự kết hợp giữa duy trì truyền 
thống và phát huy quyền con người, kích 
thích sự sáng tạo của cá nhân. Theo 
Locke, tự do, vốn là bản chất cố hữu của 
con người ở trạng thái tự nhiên, và sở hữu, 
cái không tách rời khỏi mỗi cá nhân, cần 
được bảo vệ, được hợp pháp hóa trong 
trạng thái mới – trạng thái công dân, hay 
nhà nước. Bản chất con người, vốn do 
Thượng đế tạo ra, quy định bản chất xã 
hội. Xã hội tồn tại một cách tự nhiên trước 
khi xuất hiện nhà nước với tính cách một 
cơ thể nhân tạo do sự thỏa thuận của nhân 
dân với nhà cai trị, mà kết quả là bộ máy 
quyền lực được thừa nhận hợp pháp, nhà 
cai trị trở thành người đứng đầu nhà nước 
phù hợp với ý nguyện chung. Nên hiểu 
điều này như thế nào? Locke cho rằng, vì 
trong trạng thái tự nhiên tất cả mọi người 
đều tự do, bình đẳng và độc lập, nên 
không ai có thể bị rút ra khỏi tình trạng này 
và bị đặt dưới quyền lực chính trị của 
người khác, mà không có sự thỏa thuận 
của chính mình, theo đó mỗi người đồng ý 
với những người khác thống nhất với nhau, 
cùng chung thành lập xã hội để tự bảo tồn, 
được an toàn và thanh thản, được lao 
động và hưởng thụ yên lành những gì 
mình có, được đảm bảo quyền hợp pháp 
ấy, chống lại những kẻ gây hại cho họ. 
Nhân dân là đại diện chân chính của lịch 
sử, là đấng chủ thể, còn người đứng đầu 
nhà nước là người thực hiện sứ mệnh 
nhân dân giao phó. Nhân dân sẵn sàng 
phế truất nhà cai trị, nếu lợi ích của mình 
không được đảm bảo, danh dự bị xâm hại, 
nguyện vọng bị xem thường. 
Bình đẳng và tự do, được Locke phân tích 
trong trạng thái tự nhiên và luật tự nhiên – 
đó là sự bình đẳng và tự do của quan hệ 
tiền tệ-hàng hóa đang phát triển tại Anh. 
Bình đẳng, theo Locke, hoàn toàn không 
có nghĩa là sự đồng nhất tự nhiên của các 
cá thể và sự san phẳng mọi khả năng, sức 
mạnh và tài sản. Locke chỉ đề cập đến sự 
bình đẳng về khả năng và tham vọng, và 
điều này chứng minh sự tiếp cận quan 
điểm pháp quyền của Locke với hình thái ý 
thức tương thích với nền sản xuất hàng 
hóa tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng “bình 
đẳng, không cào bằng”, bình đẳng trong 
sự thừa nhận, bảo vệ, kích thích sự không 
đồng nhất tự nhiên của con người là một 
trong những chủ đề cơ bản trong học 
thuyết chính trị-pháp quyền cận đại. Ở Anh 
quan điểm này lần đầu tiên được Hobbes 
thể hiện, tiếp đó là Locke, và kết thúc tính 
cổ điển của nó ở kinh tế chính trị học cổ 
điển của Adam Smith. Nhà nước được xác 
lập nhằm đảm bảo các quyền của con 
người. Nhà nước hợp lý tính, đưa hình 
ảnh con người cá nhân lên sự quan tâm 
hàng đầu, hoàn toàn đối lập với nền quân 
chủ chuyên chế, khi cá nhân bị hòa tan 
vào cái phổ quát hư vị. Bên cạnh đó Locke 
cũng vạch ra mâu thuẫn tất yếu giữa cá 
nhân và xã hội, giữa xã hội và hệ thống 
quyền lực chính trị, quá trình vận động 
DƯƠNG THỊ NGỌC DUNG, LÊ THỊ MINH THY – TỪ TỰ NHIÊN THẦN LUẬN ĐẾN 
12 
ính trị, là 
cái được xem như kết quả thỏa thuận giữa 
các công dân và các tổ chức nhà nước. Đề 
cao con người cá nhân, khẳng định ưu thế 
của xã hội trước nhà nước là đặc trưng 
của triết học chính trị Locke. Trong quan 
hệ với xã hội, nhà nước không phải là cái 
đầu định hướng cho cơ thể xã hội, mà là 
cái nón, có thể lấy ra khi cần. Xã hội tồn tại 
vĩnh viễn, nhà nước được hình thành từ xã 
hội, trên nấc thang nhất định của sự phát 
triển xã hội. Nhà nước được xác lập để 
đảm bảo các quyền tự nhiên (tự do - bình 
đẳng - sở hữu) và luật tự nhiên (hòa bình 
và an ninh), nhà nước không được xóa bỏ 
các quyền này; nó cần được tổ chức sao 
cho các quyền tự nhiên được đảm bảo một 
cách chắc chắn, bền vững. 
Mặc dù thế kỷ XVII, thậm chí trước đó nữa, 
tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước 
đã được nêu ra, nhưng Locke mới chính là 
người xác lập học thuyết phân quyền một 
cách có hệ thống đầu tiên, có ảnh hưởng 
to lớn đến lý luận nhà nước pháp quyền 
hiện đại. Trong học thuyết triết học pháp 
quyền Locke lần đầu tiên đã giới thiệu lý 
tưởng pháp quyền công dân, được thời đại 
tiếp sức và nhờ nó mà giai cấp tư sản 
tuyên bố mình như lực lượng tiên phong 
trong quan điểm dân chủ, chống chế độ 
chuyên chế phong kiến. Sẽ không ngạc 
nhiên nếu trong thời đại đó rất ít người 
được xem là những người tiếp nối tư 
tưởng của Grotius, Hobbes, hay Spinoza 
về tư tưởng pháp quyền, nhưng Locke thì 
có số lượng “tín đồ” đông đảo, từ Anh 
sang Pháp và Mỹ. Khi đề cập ba quyền cơ 
bản - quyền sống, quyền tự do, quyền sở 
hữu, Locke đã đặt nền móng pháp lý cho 
trật tự pháp quyền và lần đầu tiên đã làm 
cho lập pháp trở nên hợp lý, nghĩa là nền 
lập pháp không loại trừ, mà phát huy, thể 
chế hóa các quyền công dân, khác với tư 
duy pháp luật truyền thống. Locke nhấn 
mạnh: “Bất chấp những luận giải dối trá 
nhất, thì mục đích của luật pháp không 
phải là thủ tiêu và hạn chế, mà bảo vệ và 
mở rộng tự do Bởi lẽ tự do là ở chỗ 
không chịu sự ngăn cản và đàn áp từ phía 
những kẻ khác, mà điều này không thể 
thực hiện được ở nơi nào không có luật 
pháp Nó là tự do của con người được 
phân bố và sử dụng nhân cách của mình, 
hành động của mình và toàn bộ tài sản của 
mình theo ý muốn”(14). Quyền sồng, quyền 
tự do, quyền sở hữu trong cách hiểu của 
Locke không phải những nguyên tắc được 
xếp đặt, phân bố bên ngoài, không có mối 
liên hệ với nhau, mà là hệ thống các quyền 
cơ sở, kết nối với nhau. Tự do theo nghĩa 
hẹp như tự do bầu cử, tự do vạch ra và 
theo đuổi mục đích, tự do tín ngưỡng... sẽ 
ít nhiều bị tổn thương, nếu nó không được 
tiếp thêm tự do sử dụng sinh lực cá nhân 
của mình và tự do sử dụng các sản phẩm 
do mình làm ra, trong đó chứa đựng cả 
ước muốn lẫn mục tiêu chủ quan mà mình 
theo đuổi. Tự do sở hữu sẽ bị tổn thương 
và hạn chế, nếu nó chỉ phổ biến cho vật và 
chỉ dừng lại ở đó. Như vậy, ở Locke quyền 
tư hữu được đặc biệt chú trọng trong hệ 
thống quyền tự nhiên. Nó bao chứa trong 
mình quyền sống và quyền tự do - đấu 
DƯƠNG THỊ NGỌC DUNG, LÊ THỊ MINH THY – TỪ TỰ NHIÊN THẦN LUẬN ĐẾN 
13
Lao động, cái làm nên thành quả của hạnh 
phúc và lợi ích cá nhân, được Locke xem 
là hình thức quyết định của hoạt động 
sống, quyền sống. Quyền này không chỉ 
quy về sự không được giết nhau trong 
quan hệ giữa người với người, mà được 
hiểu như quyền thiêng liêng, có nguồn gốc 
siêu nhiên, siêu nghiệm, thần linh, bởi một 
lẽ giản đơn: quyền ấy được Thượng đế 
ban cho con người, trở thành một trong 
những quyền bất khả xâm phạm. Thủ tiêu 
quyền sống, theo Locke, là mọi sự nô dịch 
cá nhân, là mọi sự chiếm hữu bằng bạo 
lực năng lực sáng tạo của cá nhân. Ở đây 
Locke không nói về sự giết chóc, mà sự nô 
dịch, nghĩa là trạng thái kinh tế mà ở đó 
một người vơ vào cho mình hoàn toàn và 
thừa thãi sinh lực của người khác và tự do 
thực hiện sự áp bức, đẩy quá trình đó đến 
sự giết chóc. Từ quan niệm rằng, cuộc 
sống, như món quà của Thượng đế, là 
phẩm giá không thể bị tước đoạt của con 
người, Locke không chỉ đi đến kết luận đạo 
đức về sự không cho phép giết người như 
một hành vi cá thể, mà cả kết luận pháp lý 
về tình trạng nô lệ tự nguyện, hay tính chất 
trái tự nhiên về mặt pháp lý của tình trạng 
ấy. Ông viết trong Khảo luận thứ hai về 
chính quyền: “Tôi phải thừa nhận rằng, 
chúng ta nhận ra người Do Thái, cũng như 
các dân tộc khác, đã tự bán mình; nhưng 
rõ ràng đó là sự bán mình để đổi lấy công 
việc nặng nhọc, chứ không phải làm nô lệ. 
Bởi lẽ hoàn toàn rõ ràng là khi bán mình, 
con người không nằm trong quyền lực độc 
tài tuyệt đối; bởi lẽ ông chủ không có 
quyền giết anh ta vào bất kỳ thời gian nào, 
giết cái người mà ông chủ sau thời hạn 
nhất định phải trả tự do”(16). Đối với Locke, 
quyền sống đích thực chỉ hiện diện nơi nào 
mà xã hội được tạo nên từ những người 
sản xuất độc lập về mặt kinh tế, một phần 
trong số đó “bán mình” cho lao động. Theo 
cách hiểu này trong những điều kiện xã hội 
khác cuộc sống không được đảm bảo. 
Cuộc sống nói chung được Locke quy về 
sự hoạt động, đạt được hạnh phúc và lợi 
ích như thành tố không tách rời của cá 
nhân. 
Khác với Hobbes, Locke kiên trì quan điểm 
mà theo đó trong tự nhiên trước và bên 
ngoài con người khái niệm tự do và không 
tự do không thể dung hòa với nhau. Chúng 
chỉ có nghĩa ở nơi nào hiện diện mối quan 
hệ giữa người với người, những đòi hỏi 
lẫn nhau, sự dàn xếp và bất đồng Đối 
cực của tự do không hẳn là những gì 
không tự nhiên, mà là sự cưỡng bức, bạo 
lực, áp đặt, thống trị, hay những gì có ý 
nghĩa tương tự. Tự do, ngược lại, luôn thể 
hiện những mối quan hệ hài hòa lẫn nhau 
trên tinh thần thừa nhận nhau và hiểu biết 
lẫn nhau giữa người với người. Nhà nước 
và xã hội cần thừa nhận mỗi cá thể trong 
trường hợp những cá thể ấy thừa nhận 
nhau và gia nhập vào hệ thống các quan 
hệ xã hội. Quyền tự nhiên của Locke đã 
hình thành nên lý tưởng chính trị - pháp 
quyền, mà theo đó mỗi con người là một 
DƯƠNG THỊ NGỌC DUNG, LÊ THỊ MINH THY – TỪ TỰ NHIÊN THẦN LUẬN ĐẾN 
14 
chủ thể hoạt động lao động - sở hữu - tự 
do. Thuật ngữ tự do bắt đầu từ Locke tiếp 
tục được tiếp nhận những ý tưởng mới, 
tập hợp trong quyền con người và quyền 
công dân, như sự khẳng định tính chất 
không thể xâm phạm của quyền được ban 
phú từ Thượng đế. Ông nhấn mạnh: “dù 
có thể mắc sai lầm, mục đích của luật 
pháp không phải là thủ tiêu hay kiềm tỏa tự 
do, mà là bảo toàn và khuếch trương nó 
nơi nào không có luật pháp, nơi đó không 
có tự do”(17). Nhà nước pháp quyền, với sự 
bảo vệ và thể chế hóa các quyền, tự nó đã 
mang ý nghĩa thần linh. Trong đánh giá tư 
tưởng của Guizot về cách mạng tư sản, C. 
Mác và Ph. Ăngghen viết: “sự tự do tư 
tưởng  đã được đưa vào Pháp chính là 
từ nước Anh. Cha đẻ của sự tự do tư 
tưởng đó là Locke” (C. Mác và Ph. 
Ăngghen, 2005, tập 7, tr. 293). 
Tư tưởng phân quyền, đối lập với tư tưởng 
chuyên chế quyền lực của Hobbes, cũng 
nhằm làm rõ thực chất triết học chính trị 
của Locke. Hai nhánh quyền lực xã hội 
chính là quyền lập pháp, quyền làm ra luật 
để quản lý con người trong một quốc gia, 
nhằm bảo vệ trật tự xã hội và cuộc sống 
của con nguời; quyền hành pháp, bảo đảm 
việc thi hành các luật bên trong quốc gia. 
Ngoài ra còn có một quyền khác, gắn với 
quyền hành pháp, gọi là quyền bang giao, 
có chức năng thông qua các hiệp ước hòa 
bình và chiến tranh. Locke không xem tư 
pháp như một nhánh quyền lực, mà đưa 
chức năng phán xử về cơ quan hành pháp. 
Các cơ quan quyền lực phải thuộc về 
những người khác nhau, nhằm tránh xu 
hướng độc tài, tuy nhiên vị trí của chúng 
không bình đẳng hoàn toàn với nhau. 
Quyền lập pháp được Locke xem là quyền 
tối cao, vì luật đầu tiên của mọi quốc gia là 
luật thiết lập quyền lập pháp. Nó là linh hồn 
của xã hội chính trị, căn cứ vào đó mà mỗi 
công dân tự mình biết phải điều chỉnh 
hành vi như thế nào để sống hạnh phúc, tự 
bảo tồn và liên kết với những công dân 
khác trong một xã hội có kỷ cương. “Nơi 
nào luật pháp không thể thực thi được, nơi 
đó hoàn toàn chỉ như là không có luật 
pháp; và một chính quyền mà không có 
luật pháp - tôi nghĩ đó là một sự thần bí 
trong chính trị - là không thể tưởng tượng 
được đối với năng lực của con người và 
mâu thuẫn với xã hội loài người”(18). 
Cùng với quyền lập pháp, quyền hành 
pháp là cái đầu tàu cho hoạt động của 
chính quyền. Quyền hành pháp có tính 
chất phụ thuộc, song không nên hiểu tính 
chất này một cách đơn giản. Một mặt, 
người nắm giữ quyền hành pháp cần dựa 
vào khung pháp lý chung, nhưng mặt khác, 
không phải lúc nào quyền lập pháp cũng 
quán xuyến mọi thứ, vì thế quyền hành 
pháp không chỉ điều hành công việc, mà 
còn góp phần làm ra luật cụ thể, điều chỉnh 
luật. Luật cần được cập nhật, mà muốn 
cập nhật phù hợp với biến đổi của thực 
tiễn, lại cần đến những chất liệu từ cơ 
quan hành pháp. Hơn thế nữa, mặc dù 
quyền lập pháp được xem là quyền tối cao 
và thiêng liêng, song cả hai quyền không 
được đi xa hơn quyền lợi của các công 
dân. Nhân dân tin tưởng nơi lập pháp cũng 
như hành pháp để thực hiện lợi ích chung. 
Quyền hành là cái được giao phó cho 
những người cầm quyền, để họ làm lợi 
cho nhân dân. Chính nhân dân, chứ không 
phải quyền lập pháp, nắm giữ quyền lực 
thực sự. Nhân dân là lực lượng ngăn chặn 
sự lạm dụng quyền lực nhà nước, phán xử 
DƯƠNG THỊ NGỌC DUNG, LÊ THỊ MINH THY – TỪ TỰ NHIÊN THẦN LUẬN ĐẾN 
15
tranh chấp giữa các nhánh quyền lực. 
Nhân dân có quyền “nổi loạn” chống lại 
những thế lực “vượt quá giới hạn” cho 
phép trong hệ thống quyền lực. Locke là 
người đã đưa ra ý tưởng về cách mạng 
dân chủ. Locke xem việc nhân dân nổi dậy 
chống chính quyền độc tài, tức chính 
quyền đã thủ tiêu quyền tự nhiên và tự do 
của nhân dân, là hợp pháp và tất yếu. Ý 
tưởng này được Locke phân tích trong tác 
phẩm Luận về cuộc cách mạng quang vinh 
1688(19). 
Trong tư tưởng chính trị của mình Locke 
nói đến nhà vua như đại diện cho quyền 
hành pháp. Đó là biểu hiện của sự dung 
hòa chính trị - đặc điểm của cách mạng 
1688. Tuy nhiên, xét tổng thể triết học đạo 
đức-chính trị của Locke, có thể xem ông 
như người sáng lập chủ nghĩa tự do tư sản 
tại Anh. Ngoài ra cách đặt vấn đề về 
nguyên tắc phân quyền, về quyền con 
người, về quyền lực của nhân dân, là sự 
gợi mở tích cực cho tư tưởng Khai sáng 
Pháp thế kỷ XVIII, và từ phong trào đó, 
đến với tư tưởng xã hội chủ nghĩa, như 
nhận định của Mác trong Gia đình thần 
thánh. 
Trong tư tưởng đạo đức, chính trị của 
Locke vấn đề khoan dung chiếm vị trí đáng 
kể, được thể hiện ở nhiều tác phẩm, trong 
đó có hai tác phẩm trực tiếp bàn về vấn đề 
này – Khảo luận về khoan dung (Essay 
Conserning Toleration, 1667) và Thư về 
khoan dung (A Letter Conserning Toleration, 
1686-1689). Ngoài ra có thể kể đến Bức 
thư thứ hai về khoan dung (1690) và Bức 
thư thứ ba về khoan dung (1692), Về tính 
hợp lý của Kitô giáo (Nguyên văn: The 
Reasonableness of Christianity, as Delivered 
in the Scriptures, 1695) 
Trong Khảo luận về khoan dung ông bày tỏ: 
“Nguyên nhân chính mà từ đó vấn đề tự do 
tín ngưỡng vài năm nay gây nên bao ồn ào, 
ngày càng trở thành rắm rối, mà từ đó 
không bao giờ ngừng những cuộc tranh 
luận, gia tăng thù địch, theo tôi, nằm ở cả 
hai phía: một phía truyền bá sự tuân phục 
hoàn toàn, phía khác bảo vệ tự do phổ 
biến trong công việc tín ngưỡng – tất cả 
đều đề xuất quá nhiều yêu cầu một cách 
nhiệt thành và lệch lạc, nhưng lại không 
xác định cái gì có quyền tự do, không chỉ 
ra giới hạn của tự do và tuân phục”(20). 
Locke dành cho mình trách nhiệm làm 
sáng tỏ những luận điểm cơ bản của 
khoan dung. Dưới góc độ tôn giáo, khoan 
dung trong quan hệ giữa các tôn giáo, giữa 
những người có đạo và không theo đạo 
gắn với sự đối thoại, chấp nhận nhau, 
cùng tồn tại và tiếp nhận - tiếp biến các giá 
trị có ý nghĩa sinh tồn và phát triển chung. 
Locke chưa đi đến quan điểm có tính khái 
quát này, nhưng trong Về tính hợp lý của 
Kitô giáo ông cho rằng, không nên dành 
cho bất kỳ tôn giáo nào một đặc quyền, 
một ưu thế trong quan hệ với những tôn 
giáo khác, và rằng, người dị giáo cũng sở 
hữu những phẩm chất đạo đức như người 
theo Kitô giáo, Islam giáo (ở Việt Nam, do 
có chút nhầm lẫn về nguồn gốc, nên gọi là 
Hồi giáo) hay Do Thái giáo, dù có thể gặp 
khó khăn đôi chút trong một số trường hợp. 
Đề cao tự do tín ngưỡng, Locke nhấn 
mạnh việc tách nhà thờ khỏi nhà nước, 
xác lập mối quan hệ mới giữa hai thiết chế 
này trong đời sống xã hội. 
4. KẾT LUẬN 
Cũng như nhiều nhà triết học khác của thế 
kỷ XVII-XVIII, Locke sử dụng tự nhiên thần 
luận như một trong những cơ sở để luận 
DƯƠNG THỊ NGỌC DUNG, LÊ THỊ MINH THY – TỪ TỰ NHIÊN THẦN LUẬN ĐẾN 
16 
‰ 
CHÚ THÍCH 
(1) Francis Bacon (1561-1626) là người sáng 
lập chủ nghĩa kinh nghiệm duy vật Anh, cha đẻ 
của lý luận về khoa học tự nhiên thực nghiệm 
hiện đại, người nêu ra tuyên bố mang tính thời 
đại “tri thức là sức mạnh”. 
(2) Cùng với F. Bacon và J. Locke, Thomas 
Hobbes (1588-1679) là một trong ba đại biểu 
lớn của chủ nghĩa kinh nghiệm duy vật Anh. 
Ông là tác giả cuốn khảo luận chính trị nổi tiếng 
Leviathan - tuyên ngôn của nhà nước chuyên 
chế và quyền lực thống nhất trong nhà nước. 
(3) Локк Дж. Опыта о человеческом разумении; 
Сочинения в 3 т; Издательство Мысль, 
Москва т. 1, 1985, стр. 128. 
(4) Nguyên gốc tiếng Latin là tabula rasa, song 
cách dịch ra các thứ tiếng không thuần nhất, có 
thể dịch thành “tấm bảng trắng”, hay tờ giấy 
trắng (bản dịch sang tiếng Anh: white paper). 
(5) John Locke: An essay concerning human 
understanding; in the “Great Books of the 
Western World”; MortimerJ. Adler Editor in 
Chief; book 33 - Locke, Berkeley, Hume; Secon 
Edition, Chicago, 1990; p. 121. 
(6) Sđd, tr. 128. 
(7) Локк Дж:, Сочинения в 3 т; Издательство 
Мысль, Москва, 1985; т. 2; стр. 496. 
(8) Локк Дж:, Там же, Сочинения в 3 т; 
Издательство Мысль, Москва, 1985; т. 1; стр. 
528 (J. Locke, sđd, tập 1, tr. 528). 
(9) Jeremy Bentham (1748-1832) - nhà xã hội 
học, luật học người Anh, một trong những nhà 
lý luận kiệt xuất của chủ nghĩa tự do chính trị, 
cha đẻ của chủ nghĩa công lợi, hay vị lợi 
(utilitarianism). 
(10) См. Локк Дж:, Там же, Сочинения в 3 т; 
Издательство Мысль, Москва; т. 2; стр. 56 
(Xem: J. Locke, sđd, tập 2, tr. 56). 
(11) John Locke. 2007. Khảo luận thứ hai về 
chính quyền (Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu). 
Hà Nội: Nxb. Tri thức , tr. 62, 63, 64. Tham 
khảo thêm:  
nders/documents/v1ch16s3.html. 
(12) John Locke. Khảo luận thứ hai về chính 
quyền, tr. 67, 68, 71. Tham khảo thêm: 
ents/v1ch16s3.html. 
(13) Локк Дж: Опыта о человеческом разумении; 
Сочинения в 3 т; Издательство Мысль, 
Москва т. 2, 1985, стр. 79. 
(14) Локк Дж: Сочинения в 3 т; Издательство 
Мысль, Москва т. 2, 1985, стр. 100. 
(15) Локк Дж: Сочинения в 3 т; Издательство 
Мысль, Москва т. 2, 1985, стр. 72. 
(16) J. Locke. Khảo luận thứ hai về chính quyền 
(Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu). Nxb. Tri thức, 
Hà Nội, 2007, tr. 59 - 60. Tham khảo J. Locke. 
Second Treatise of Governement; Chapter IV – 
of Slavery, Sect. 24:  
catalog/world/readfile?fk_files=2458667&pagen
o=11. 
(17) J. Locke. Khảo luận thứ hai về chính quyền 
(Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu). Nxb. Tri thức, 
(Xem tiếp trang 40) 
DƯƠNG THỊ NGỌC DUNG, LÊ THỊ MINH THY – TỪ TỰ NHIÊN THẦN LUẬN ĐẾN 
17
Hà Nội, 2007, tr. 93. Tham khảo thêm: J. Locke. 
Second Treatise of Governement; Chapter VI – 
of Paternal Power, Sect. 57:  
nberg.org/catalog/world/readfile?fk_files=24586
67&pageno=22. 
(18) J. Locke. Khảo luận thứ hai về chính quyền 
(Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu). Nxb. Tri thức, 
Hà Nội, 2007, tr. 282. Tham khảo thêm: 
?fk_files=2458667. 
(19) Tên gọi này (Glorious Revolution) được lịch 
sử ghi nhận trong cuộc đảo chính năm 1688 tại 
Anh, mà kết quả là vua James II Stuart bị lật đổ. 
Trong cuộc đảo chính có sự tham gia của một 
sư đoàn tinh nhuệ do người đứng đầu Hà Lan là 
William of Orange lãnh đạo, người sau này trở 
thành vua mới của Anh dưới tên gọi William III. 
(20) Локк Дж: Сочинения в 3 т; Издательство 
Мысль, Москва т. 3, 1988, стр.66. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. C. Mác và Ph. Ăngghen. 1995. Toàn tập. 
Tập 2. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
2. C. Mác và Ph. Ăngghen. 2005. Toàn tập. 
Tập 27. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
3. Locke, John. 1990. An Essay Concerning 
Human Understanding. In the “Great Books 
of the Western World”. Mortimer J. Adler 
Editor in Chief. Book 33 - Locke, Berkeley, 
Hume; Secon Edition. Chicago. 
4. Locke John. 2007. Khảo luận thứ hai về 
chính quyền (Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu). 
Hà Nội: Nxb. Tri thức. 
5. Tham khảo thêm:  
go.edu/founders/documents/v1ch16s3.html. 
(Tiếp theo trang 16) 

File đính kèm:

  • pdftu_tu_nhien_than_luan_den_tu_tuong_ve_nha_nuoc_phap_quyen_tr.pdf
Ebook liên quan