Tư tưởng triết học về nhà nước của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị luận”

Tóm tắt Tư tưởng triết học về nhà nước của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị luận”: ... các cộng đồng làng xã. Theo Aristotle, nhà n−ớc là một cộng đồng dân c− và các công dân nhà n−ớc tham dự vào chính phủ và tòa án là những ng−ời tự do. Ph−ơng thức tồn tại thực sự của nhà n−ớc là đảm bảo cuộc sống của các thành viên, gia đình và cộng đồng cả về không gian và thời gia...i việc sản xuất trên cả hai lĩnh vực cung cấp nguồn nhu yếu phẩm chủ yếu và cần thiết cho con ng−ời. Aristotle không ủng hộ nghệ thuật làm giàu (buôn bán) vì nó không tự nhiên và là sự lợi dụng lẫn nhau. Tuy nhiên, ông cho rằng việc trao đổi hàng hóa là cần thiết nhằm thỏa mãn các nhu ...ấn đề nhỏ nhặt; vì những điều t−ởng là vụn vặt sẽ âm thầm len lỏi vào và cuối cùng làm sụp đổ cả quốc gia” (tr.288). 2. Về mô hình nhà n−ớc lý t−ởng, theo Aristotle, tr−ớc hết nhà n−ớc không chỉ cần có nông (thức ăn), công (dụng cụ), binh khí, tài chính, tôn giáo mà còn cần cả cộng đ...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 448 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tư tưởng triết học về nhà nước của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị luận”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong xã hội: “Ngôn ngữ của con ng−ời 
dùng để chỉ ra điều lợi, điều hại, và cũng 
t−ơng tự nh− thế điều gì là công chính và 
thế nào là bất công. Đặc biệt hơn nữa, 
chỉ con ng−ời mới có đ−ợc ý thức về thiện 
và ác, về công bằng và bất công, và về 
các đức tính khác nữa. Sự phối hợp của 
các sinh vật có ý thức này tạo nên gia 
đình và nhà n−ớc” (tr.47). Con ng−ời chỉ 
có thể là một động vật tốt đẹp nhất khi 
sống trong cộng đồng, nếu bị tách ly khỏi 
luật pháp và công chính thì sẽ trở thành 
một động vật xấu xa nhất. Sự công 
chính thuộc về nhà n−ớc, vì công chính - 
sự phân biệt thế nào là công bằng, là lẽ 
phải - là trật tự của một xã hội chính trị 
26 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2014 
(tr.48). Ngôn ngữ là ph−ơng tiện thể 
hiện mục đích đời sống đức hạnh của 
nhà n−ớc theo chân lý và giá trị. 
Xét theo thứ tự thời gian thì cá 
nhân và gia đình hiện hữu tr−ớc nhà 
n−ớc. Gia đình là hệ quả đầu tiên của 
quan hệ giữa nam và nữ, chủ nhân và 
nô lệ. Nhiều gia đình quần tụ lại mà 
thành xã hội đầu tiên - làng mạc. Làng 
mạc đ−ợc thành lập nhằm mục tiêu cung 
cấp các nhu cầu hàng ngày cho con 
ng−ời. Và “nhiều làng mạc liên kết lại với 
nhau thành một cộng đồng duy nhất và 
toàn vẹn, một cộng đồng đủ lớn để có thể 
tự túc đ−ợc, thì một nhà n−ớc đ−ợc khai 
sinh từ những nhu cầu cơ bản của đời 
sống, và tiếp tục tồn tại cho một đời 
sống tốt đẹp” (tr.46). 
Xét theo thứ tự tự nhiên, hay về 
ph−ơng diện bản thể luận, nhà n−ớc lại 
hiện hữu tr−ớc cá nhân và gia đình vì 
“cái tổng thể luôn nhất thiết phải hiện 
hữu tr−ớc cá thể”. Và mọi cá nhân 
không thể nào tự túc đ−ợc khi sống cô 
lập, vì mọi cá nhân là vô vàn các cá thể 
cùng lệ thuộc vào cái tổng thể, là cái mà 
chỉ có nó mới đem lại sự tự túc cho tất 
cả. Khi xem xét ở góc độ bản chất và ý 
nghĩa của nhà n−ớc, ta thấy nhà n−ớc 
không phải ở điểm kết thúc, mà ở điểm 
khởi đầu của một sự phát triển. Con 
ng−ời tự liên kết lại với nhau không 
phải xuất phát từ mong muốn của họ để 
dẫn đến xây dựng nhà n−ớc nhân tạo, 
mà xuất phát từ việc nhân loại tuân thủ 
một quy trình cơ bản của bản chất con 
ng−ời. Từ trong cấu trúc của tồn tại 
ng−ời, cả sự tồn tại d−ới hình thức cá 
thể, hay gia đình, con ng−ời theo bản 
tính tự nhiên h−ớng tới thiết lập nhà 
n−ớc. ý niệm nhà n−ớc đã quy định 
ngay từ đầu quá trình phát triển của 
các cá nhân, gia đình và các cộng đồng 
làng xã. 
Theo Aristotle, nhà n−ớc là một 
cộng đồng dân c− và các công dân nhà 
n−ớc tham dự vào chính phủ và tòa án là 
những ng−ời tự do. Ph−ơng thức tồn tại 
thực sự của nhà n−ớc là đảm bảo cuộc 
sống của các thành viên, gia đình và 
cộng đồng cả về không gian và thời gian. 
Đó là những yếu tố cấu thành nhà n−ớc, 
làm cho nhà n−ớc thành hiện thực, đồng 
thời chúng cũng chỉ là chúng khi cả cái 
chỉnh thể nhà n−ớc tồn tại. Thủ tiêu cá 
nhân, gia đình, cộng đồng hay đánh giá 
chúng vô nghĩa thì cũng làm cho nhà 
n−ớc tiêu vong hay mất tính hiện thực. 
Nh− vậy, giữa nhà n−ớc và các yếu tố 
cấu thành có mối quan hệ chặt chẽ và 
ảnh h−ởng lẫn nhau. Trong quan niệm 
triết học về nhà n−ớc, Aristotle đã gắn 
kết cái chỉnh thể với cái bộ phận, cộng 
đồng và cá nhân, cái này là tiền đề cho 
cái kia, gắn liền với cái kia nh− những 
khái niệm t−ơng quan lẫn nhau. 
Tính hiện thực của nhà n−ớc đ−ợc 
Aristotle đặt trong cộng đồng các công 
dân, và xem xét mối quan hệ giữa chúng 
nh− chỉnh thể thống nhất cả hai ph−ơng 
diện chứ không phải một chiều. Xét về 
ph−ơng diện thực tiễn thì lý luận về bản 
chất nhà n−ớc của ông là tiền đề để các 
công dân tự do tr−ởng thành về nhân 
cách mà không rơi vào chủ nghĩa cá 
nhân. Từ góc độ này, Aristotle phê phán 
mô hình nhà n−ớc cộng đồng của Platon 
- Triết gia Hy Lạp và là thầy của 
Aristotle. Platon chủ tr−ơng một mô 
hình nhà n−ớc cộng đồng trong đó tài 
sản và phụ nữ đều là sở hữu chung của 
quốc gia. Trong nhà n−ớc đó con ng−ời 
cần phải sống hết mình cho nhà n−ớc 
chứ nhà n−ớc không vì con ng−ời. 
T− t−ởng triết học về nhà n−ớc 27 
Aristotle thì cho rằng, một mô hình 
quốc gia càng đồng nhất thì không còn 
là quốc gia nữa, vì “bản chất của một 
quốc gia là đa nguyên, sự kết hợp của 
nhiều phần tử khác nhau” (tr.85). Một 
quốc gia có đ−ợc sự thịnh v−ợng là nhờ 
sự đóng góp của mỗi phần tử trong quốc 
gia đó, t−ơng ứng với những gì họ nhận 
đ−ợc từ quốc gia. Giả thuyết rằng, mức 
độ tự túc càng cao, cao chừng nào, thì 
càng tốt cho sự tồn tại của quốc gia, 
chừng ấy; điều đó t−ơng tự với việc quốc 
gia càng đa nguyên chừng nào thì càng 
tốt chừng ấy. “Nhà n−ớc..., là một thực 
thể đa dạng, và chỉ nên đ−ợc thống nhất 
thành một cộng đồng bằng giáo dục” 
(tr.97). Bên cạnh đó, Aristotle cũng 
phản đối quan niệm của Platon khi đòi 
hỏi tầng lớp cai trị phải hy sinh quyền 
lợi cá nhân cho hạnh phúc của cả cộng 
đồng. Làm nh− vậy là đã t−ớc bỏ quyền 
h−ởng hạnh phúc bằng nhau của giới 
cai trị, khi đòi hỏi họ phải nhắm tới 
hạnh phúc của cả n−ớc, chân lý thật 
giản dị và hiển nhiên là “nếu ng−ời cai 
trị không sung s−ớng thì ai là kẻ đ−ợc 
sung s−ớng?” (tr.101). 
Quan niệm trên đây thể hiện giá trị 
nhân văn sâu sắc trong quan niệm triết 
học về nhà n−ớc của Aristotle, theo đó 
cá thể và gia đình là những hiện tồn 
đầu tiên không thể bị hy sinh cho một ý 
niệm vốn không thể trở thành hiện thực 
nh− quan niệm của Platon. 
2. Về chính sách của nhà n−ớc 
 Triết học chính trị của Aristotle 
chịu ảnh h−ởng sâu đậm của quan niệm 
đạo đức. Không có mục tiêu phát huy 
đức hạnh thì sự kết hợp chính trị chỉ là 
liên minh những phần tử sống gần nhau. 
Vì vậy, chính nền đạo đức sẽ quy định 
chính sách của nhà n−ớc, của dân tộc. 
“Để xứng đáng đ−ợc gọi là một n−ớc thì 
n−ớc đó phải đặc biệt quan tâm đến đạo 
đức”, còn luật pháp “theo nh− đúng 
nghĩa của nó là những quy luật cuộc 
sống để dân trở thành ng−ời tốt và công 
chính” (tr.172). 
Với quan điểm chính sách đối ngoại 
không cho phép duy trì chính sách bạo 
lực, Aristotle nhấn mạnh “một n−ớc 
không thể đ−ợc xem là hạnh phúc, và 
nhà lập pháp không thể đ−ợc ca tụng vì 
đã huấn luyện dân chúng của mình đi 
chinh phục và thống trị những n−ớc lân 
bang; đó là một điều cực xấu” (tr.396). 
Không có nguyên tắc nào cũng nh− luật 
lệ nào đặt việc tranh quyền đoạt lợi làm 
mục tiêu lại có thể đ−ợc xem là hữu ích 
hay chính đáng, dù đó là cá nhân hay 
quốc gia. Trên cơ sở nh− vậy, Aristotle 
đã đúng khi phản đối chính sách bạo 
lực. Ông cho rằng, “nhà lập pháp nên 
h−ớng những hoạt động và ph−ơng tiện 
của nhà n−ớc vào việc thiết lập hòa bình 
và đời sống th− nhàn cho dân chúng” 
(tr.397). Đời sống của con ng−ời có hai 
phần: công việc và th− nhàn; chiến 
tranh và hòa bình. Ng−ời dân sống ở 
n−ớc đó phải có khả năng sống một đời 
sống tích cực, và chiến đấu khi có chiến 
tranh, nh−ng lại càng phải có khả năng 
sống th− nhàn trong thời bình. 
Muốn có một đời sống th− nhàn, con 
ng−ời cần có các nhu yếu phẩm cần 
thiết, vì vậy nhà cầm quyền cần phải có 
nghệ thuật tích lũy tài sản. Đây đ−ợc 
coi là nghệ thuật tích lũy của cải tự 
nhiên, nhằm cung ứng những vật dụng, 
nhu yếu phẩm cần thiết cho một đời 
sống xã hội tốt đẹp. Aristotle cho rằng, 
theo luật tự nhiên ng−ời ta sẽ dùng 
những gì mà thiên nhiên cung cấp cho 
họ. Theo đó, nhà cầm quyền phải có 
28 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2014 
kiến thức về chăn nuôi, về nghề nông để 
thực thi việc sản xuất trên cả hai lĩnh 
vực cung cấp nguồn nhu yếu phẩm chủ 
yếu và cần thiết cho con ng−ời. Aristotle 
không ủng hộ nghệ thuật làm giàu (buôn 
bán) vì nó không tự nhiên và là sự lợi 
dụng lẫn nhau. Tuy nhiên, ông cho rằng 
việc trao đổi hàng hóa là cần thiết nhằm 
thỏa mãn các nhu cầu tự nhiên của con 
ng−ời, vì vậy các nhà lãnh đạo đất n−ớc 
cũng cần biết cách tạo ra của cải giống 
nh− các th−ơng nhân để đảm bảo nguồn 
ngân sách nhà n−ớc khi cần. D−ới dạng 
sơ khai, Aristotle đã đề cập đến vai trò 
của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại 
và phát triển xã hội. Chính sách của 
quốc gia phải chú trọng đến phát triển 
kinh tế để đảm bảo nền tảng cho một 
đời sống th− nhàn của dân chúng, mặc 
dù, do hạn chế thời đại, ông mới chỉ biết 
tới hai loại hình sản xuất tự nhiên là 
chăn nuôi và trồng trọt. 
 Để có đời sống th− nhàn, con ng−ời 
còn phải học tính tiết chế, không xa hoa 
hoang phí, can đảm và có khả năng chịu 
đựng, và con ng−ời cần trau dồi những 
đức tính đó. Để có tình trạng tốt nhất, 
con ng−ời cần có ba điều kiện: thể chất 
(do bẩm sinh), những thói quen tốt và 
năng lực nhận thức. Vì vậy, các quốc gia 
phải chú trọng vấn đề đào tạo, giáo dục 
con ng−ời. Việc giáo dục trẻ nên bắt đầu 
từ việc luyện thói quen tốt, lễ phép ngay 
từ lúc còn nhỏ. Huấn luyện thể chất 
phải đi tr−ớc huấn luyện tinh thần. Việc 
huấn luyện thể chất để h−ớng con ng−ời 
đến sự kiềm chế những hành vi bản 
năng, nhằm phát triển lý trí. Aristotle 
coi giáo dục là biện pháp để tạo nên các 
công dân đức hạnh cho một nhà n−ớc. 
Giáo dục đ−ợc coi là trách nhiệm của 
quốc gia, “bỏ bê việc giáo dục sẽ gây ra 
nguy hại cho cơ cấu chính trị và hiến 
pháp của một n−ớc. Ng−ời công dân 
phải đ−ợc giáo dục cho phù hợp với mô 
hình chính quyền mà họ sinh sống” 
(tr.412). Và vì cả n−ớc chỉ có một mục 
đích tối hậu, nên chỉ cần có một sự giáo 
dục đồng nhất cho tất cả mọi ng−ời, và 
sự giáo dục này phải là nền giáo dục 
công lập do nhà n−ớc ấn định. 
3. Về các hình thức chính quyền và mô hình nhà 
n−ớc lý t−ởng 
1. Aristotle định nghĩa: “Hiến pháp 
và chính quyền có cùng một nghĩa, và 
chính quyền là quyền uy tối th−ợng 
trong một n−ớc” (tr.167). Ông phân loại 
chính quyền dựa trên số l−ợng ng−ời 
cầm quyền và tài sản. Chính quyền do 
một ng−ời cai trị là chế độ quân chủ; do 
một nhóm thiểu số ng−ời cai trị là quý 
tộc; chính quyền do đa số công dân 
tham gia chính sự và quan tâm đến lợi 
ích chung là cộng hòa (politie). 
Ba hình thức chính quyền trên đây 
đ−ợc coi là đúng đắn khi hiểu theo 
nghĩa, chính quyền đ−ợc tổ chức nhằm 
phục vụ lợi ích chung. Ng−ợc lại, khi 
chính quyền đ−ợc thiết lập nhằm phục 
vụ lợi ích riêng t− của một ng−ời hay 
một nhóm ng−ời là chính quyền bị hủ 
bại. ở đây d−ới dạng sơ khai, Aristotle 
đ−a ra t− t−ởng về sự tha hóa quyền lực 
nhà n−ớc. 
Ba hình thức nhà n−ớc đúng đắn 
nêu trên khi bị “hủ bại” sẽ trở thành ba 
hình thức nhà n−ớc t−ơng ứng là bạo 
chúa, quả đầu(*) và dân chủ. Bạo chúa 
hủ bại vì nhà vua chỉ chăm lo cho quyền 
lợi của v−ơng thất; quả đầu chỉ lo cho 
quyền lợi của kẻ giàu và dân chủ chỉ lo 
cho quyền lợi của dân nghèo. Không có 
(*) Quả đầu: chế độ chính trị dựa trên giai cấp có 
tài sản. 
T− t−ởng triết học về nhà n−ớc 29 
loại nào lo cho quyền lợi chung của quốc 
gia (tr.168). 
Aristotle không cổ súy cho một mô 
hình nhà n−ớc cụ thể nào, trên cơ sở 
khảo cứu những mô hình nhà n−ớc trên 
thực tế và lý thuyết, ông chỉ rõ trong 
mỗi mô hình đều có điểm tích cực và 
hạn chế. Và mỗi quốc gia căn cứ vào 
điều kiện cụ thể của mình mà xây dựng 
hình thức nhà n−ớc phù hợp. 
Theo Aristotle, mục đích tối hậu của 
quốc gia là h−ớng tới xây dựng một đời 
sống tốt đẹp nhất và các định chế xã hội 
chỉ là ph−ơng tiện nhằm đạt tới mục 
đích này. Nh− vậy, muốn biết mô hình 
chính quyền nào tốt nhất, phải biết thế 
nào là một đời sống tốt đẹp nhất. Theo 
Aristotle, “để có một đời sống tốt đẹp, 
con ng−ời cần có ba ‘cái tốt’ - vật chất, 
thể chất và tinh thần”. Và có thể giả 
thiết rằng, “một đời sống tốt nhất cho cả 
cá nhân và nhà n−ớc là một đời sống 
đức hạnh cộng với sự đầy đủ về vật chất 
và thể chất để thực hành đ−ợc những 
hành động tốt” (tr.352, 355). 
Từ sự luận giải đó, Aristotle cho 
rằng, mô hình chính quyền tốt nhất là 
chính quyền mà trong đó mọi ng−ời, 
bất kể ai, đều có thể sinh hoạt theo 
đúng khả năng cao nhất và sống một 
đời sống hạnh phúc. Và nếu “hạnh 
phúc đ−ợc xem nh− là hoạt động đức 
hạnh, thì một đời sống hoạt động là đời 
sống tốt nhất cho cả quốc gia nói chung 
và cả cá nhân nói riêng” (tr.362). Tiêu 
chuẩn của một nhà n−ớc lý t−ởng dựa 
vào tiêu chuẩn đạo đức. “Những tiêu 
chuẩn áp dụng cho đời sống hạnh phúc 
của cá nhân con ng−ời cũng đ−ợc áp 
dụng cho một quốc gia và hiến pháp, vì 
hiến pháp thể hiện cách sống của nhân 
dân trong n−ớc đó” (tr.236). Để duy trì 
chính quyền, theo Aristotle, “điều cần 
giữ gìn triệt để hơn là tinh thần th−ợng 
tôn pháp luật, nhất là về những vấn đề 
nhỏ nhặt; vì những điều t−ởng là vụn 
vặt sẽ âm thầm len lỏi vào và cuối cùng 
làm sụp đổ cả quốc gia” (tr.288). 
2. Về mô hình nhà n−ớc lý t−ởng, 
theo Aristotle, tr−ớc hết nhà n−ớc không 
chỉ cần có nông (thức ăn), công (dụng 
cụ), binh khí, tài chính, tôn giáo mà còn 
cần cả cộng đồng phụng sự, có quyền 
lực. Để thực hiện đ−ợc các chức năng 
trên, cần có các giai cấp t−ơng ứng: 
nông dân, nghệ nhân, chiến binh, ng−ời 
giàu có, tu sĩ, quan tòa. 
Giai cấp cai trị nhà n−ớc nên là 
những ng−ời có tài sản. Công dân trong 
nhà n−ớc phải có sở hữu tài sản. 
Arisotle không ủng hộ chế độ nhà n−ớc 
dựa trên sở hữu cộng đồng về tài sản, vì 
tổ chức xã hội cùng chung tài sản sẽ dẫn 
đến sự bất đồng nếu không chia đều 
công việc và sản phẩm. Mặt khác, “cái gì 
mà thuộc của chung, của nhiều ng−ời 
thì cái đó càng ít ng−ời quan tâm bảo 
quản. Mọi ng−ời chỉ lo cho bản thân họ, 
và hầu nh− chẳng đếm xỉa gì đến lợi ích 
chung; còn nếu họ quan tâm đến quyền 
lợi chung thì cũng chỉ vì động chạm đến 
quyền lợi riêng của họ. Thêm vào đó, con 
ng−ời có khuynh h−ớng xao lãng nhiệm 
vụ mà họ nghĩ là sẽ có ng−ời khác chu 
toàn” (tr.89). 
Xét từ góc độ bản tính con ng−ời thì 
khi mọi ng−ời có quyền lợi riêng sẽ 
không phàn nàn kẻ khác, và mọi ng−ời 
đều tích cực làm việc vì ai cũng lo cho 
quyền lợi của mình. Một cách tự nhiên, 
ng−ời ta sẽ cảm thấy vui s−ớng khi làm 
chủ một vật gì đó, vì tự yêu mình là bản 
chất tự nhiên của con ng−ời. 
30 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2014 
Xét về ph−ơng diện đạo đức, liên 
quan đến tài sản chung, ng−ời ta sẽ mất 
đi những phẩm hạnh vô giá của con 
ng−ời đó là tình yêu đ−ợc ban tặng, sự 
hào phóng và sự tốt lành, và tr−ớc hết là 
tình yêu chính bản thân mình ẩn giấu 
sau những niềm vui. Khi ta làm điều tốt 
hoặc phục vụ cho bạn bè của mình, ta 
cảm thấy vui s−ớng, nh−ng ta chỉ có thể 
làm đ−ợc nh− vậy nếu có tài sản riêng 
mà thôi. “Ng−ời ta nên có đủ tài sản để 
có thể vừa sống có chừng mực, vừa có 
đ−ợc sự hào phóng” (tr.104). 
Aristotle cho rằng, mọi bất công 
trong xã hội không phải do sở hữu t− 
nhân gây ra giống nh− Platon quan 
niệm, mà do sở hữu t− nhân vô độ. Mặt 
khác, những điều xấu xa xảy ra trong 
một quốc gia “không phải do quyền t− 
hữu gây ra, mà do một nguyên nhân 
khác - bản chất xấu xa của con ng−ời” 
(tr.97). Vì vậy trong nhà n−ớc lý t−ởng 
cần duy trì sở hữu ở mức độ vừa phải. 
Công dân có tài sản đủ dùng, nếu không 
sẽ dẫn đến tình trạng dân chủ cực đoan 
hay quả đầu. Một quốc gia ổn định khi 
trong xã hội không có giai cấp quá giàu 
hoặc quá nghèo. Những ng−ời v−ợt trội 
ng−ời khác về sắc đẹp, sức mạnh, gia 
thế, tài sản th−ờng có khuynh h−ớng 
dùng bạo lực và trở thành những kẻ đại 
tội. Còn những ng−ời quá nghèo, quá 
yếu hay hạ tiện thì dễ trở thành kẻ l−u 
manh và phạm các tội ác lặt vặt. “Nếu 
duy trì hai giai cấp này, ta có một giai 
cấp không biết vâng lời, và chỉ có thể cai 
trị độc đoán, và một giai cấp không biết 
cai trị là gì mà chỉ biết vâng lời và tuân 
phục nh− nô lệ. Cho nên kết quả là ta có 
một n−ớc không phải của những ng−ời 
tự do mà là một n−ớc của chủ nhân và 
nô lệ, bên này khinh bên kia và bên kia 
thì đố kỵ bên này” (tr.237). Từ đó, 
Aristotle cho rằng, một n−ớc có đa số 
công dân thuộc thành phần trung l−u 
thì chắc chắn đó phải là n−ớc có chế độ 
chính trị tốt nhất, bởi giai cấp trung l−u 
th−ờng có ít tham vọng trong cả hai lĩnh 
vực quân sự và dân sự, khi giai cấp 
trung l−u lớn mạnh khó lòng xảy ra bè 
phái và chia rẽ. 
Aristotle cũng nhấn mạnh, về 
nguyên tắc, chế độ trung dung là tốt 
nhất nh−ng phải tùy hoàn cảnh đặc thù 
của từng n−ớc mà duy trì chế độ chính 
trị, vì “có những loại hiến pháp tự bản 
chất rất tốt, nh−ng ch−a chắc đã thích 
hợp với dân chúng n−ớc đó” (tr.241). 
Một quốc gia lý t−ởng còn cần có 
những điều kiện về dân số, đất đai, về 
lãnh thổ và vị trí thủ đô. Điều kiện dân số 
là nói về số l−ợng và tỷ lệ giữa các thành 
phần công dân. Một quốc gia lý t−ởng cần 
có số công dân vừa phải không quá đông 
cũng không quá ít, tỷ lệ giữa các thành 
phần công dân phải phù hợp. 
Diện tích và phạm vi lãnh thổ phải 
đủ rộng để ng−ời dân có thể sống nhàn 
hạ trong tự do, có chừng mực. Địa thế 
lãnh thổ phải đủ hiểm trở để ngăn quân 
giặc, nh−ng cũng phải thuận tiện cho 
dân c− đi lại. Lãnh thổ phải dễ kiểm 
soát, vị trí thủ đô phải ở nơi thuận 
đ−ờng giao thông, dựa trên hai nguyên 
tắc: “Thứ nhất, vị trí của thủ đô cũng là 
trung tâm quân sự của cả n−ớc, phải 
thuận lợi cho việc điều quân bảo vệ lãnh 
thổ; thứ hai, phải thuận lợi cho việc 
th−ơng mại, cả trong vận chuyển lẫn 
phân phối l−ơng thực cũng nh− sản vật 
của cả n−ớc” (tr.367). Vị trí của một 
quốc gia lý t−ởng nên vừa giáp biển, vừa 
giáp đất liền. 
T− t−ởng triết học về nhà n−ớc 31 
Theo Aristotle, ở một quốc gia mà 
ng−ời dân vừa khôn ngoan, vừa can 
đảm là sức dân dễ đ−ợc nhà lập pháp 
h−ớng dẫn tới đời sống đức hạnh. Và chỉ 
có ng−ời dân Hy Lạp, sinh sống trong 
khu vực giữa châu Âu và châu á, nên có 
tính chất trung dung, vừa có sự hăng hái, 
vừa có sự khôn ngoan. Những ng−ời dân 
này “khi kết hợp lại thành một n−ớc, họ 
có khả năng cai trị cả thế giới” (tr.371). 
Nh− vậy, nhà n−ớc trong quan niệm 
của Aristotle là một tổ chức chính trị - 
đạo đức hoàn hảo, trong đó cá nhân, gia 
đình là nền tảng của nhà n−ớc, giáo dục 
là ph−ơng tiện để đạt đến một đời sống 
đức hạnh. Chức năng của nhà n−ớc là 
tạo ra những khả năng hữu hiệu cho sự 
phát triển và hạnh phúc của mỗi cá 
nhân. Tuy nhiên, quan niệm của ông về 
nhà n−ớc cũng còn một số hạn chế. Ông 
ủng hộ chế độ nô lệ và cho rằng ng−ời 
nô lệ là bẩm sinh “kẻ nào mà từ bản 
chất không thuộc về mình mà thuộc về 
kẻ khác, thì từ bản chất kẻ đó là nô lệ; 
và ta có thể nói hắn thuộc về và thuộc 
quyền sở hữu của ng−ời khác” (tr.53). 
Đồng thời có t− t−ởng phân biệt giữa 
nam và nữ: “giống đực, về bản chất tự 
nhiên khỏe hơn giống cái, và do vậy, 
giống đực làm chủ, còn giống cái phục 
tùng. Nguyên tắc tổng quát này đúng 
cho cả nhân loại” (tr.55); phân biệt giữa 
các dân tộc, coi dân tộc Hy Lạp là cao 
quý và có thể cai trị cả thiên hạ. Thực 
chất, quan niệm triết học đạo đức và 
triết học chính trị của Aristotle nói 
chung vẫn h−ớng tới con ng−ời thuộc 
đẳng cấp “cao hơn” những con ng−ời 
bình th−ờng. Điều đó cũng là hợp lẽ tự 
nhiên vì Aristotle không thể thoát ra 
khỏi sự ảnh h−ởng của thời đại ông, của 
văn hóa thời kỳ đó  
(Tiếp theo trang 53) 
TàI LIệU THAM KHảO 
1. Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh (Chủ biên, 
2010), Cải cách giáo dục ở các n−ớc 
phát triển: Cải cách giáo dục ở Mỹ, 
Quyển I, Bản dịch của Nguyễn 
Trung Thuần, Nxb. Giáo dục Việt 
Nam, Hà Nội. 
2. Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh (Chủ biên, 
2010), Cải cách giáo dục ở các n−ớc 
phát triển: Cải cách giáo dục ở Mỹ, 
Quyển III, Bản dịch của Trần Thị 
Thanh Liêm, Nxb. Giáo dục Việt 
Nam, Hà Nội. 
3. Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh (Chủ biên, 
2010), Cải cách giáo dục ở các n−ớc 
phát triển: Cải cách giáo dục ở Mỹ, 
Quyển IV, Bản dịch của Lê Xuân Khải, 
Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 
4. Howard Gardner (2012), Năm t− duy 
cho t−ơng lai, Bản dịch của Đặng 
Nguyễn Hiếu Trung và Tô T−ởng 
Quỳnh, Nxb. Trẻ - DT Books - 
IRED, Tp. Hồ Chí Minh. 
5. Jon Wiles, Joseph Bondi (2005), Xây 
dựng ch−ơng trình học: H−ớng dẫn 
thực hành, Bản dịch của Nguyễn 
Kim Dung, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
6. Yvonne Raley, Gerard Preyer (2010), 
Philosophy of Education in the Era 
of Globalization, Routledge, New York. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_triet_hoc_ve_nha_nuoc_cua_aristotle_trong_tac_pham.pdf
Ebook liên quan