Ung thư biểu mô tuyến (Adenocarcinoma) vùng nối giữa thực quản - dạ dày: Kết quả điều trị phẫu thuật tại khoa phẫu thuật tiêu hóa bệnh viện Việt Đức

Tóm tắt Ung thư biểu mô tuyến (Adenocarcinoma) vùng nối giữa thực quản - dạ dày: Kết quả điều trị phẫu thuật tại khoa phẫu thuật tiêu hóa bệnh viện Việt Đức: ...]. Phẫu thuật triệt căn (R0) được định nghĩa là không còn tổn thương ung thư khi kết thúc cuộc mổ (cả về vi thể lẫn đại thể); R1: ở mép cắt trên hoặc dưới của bệnh phẩm cắt bỏ, mắt thường không nhìn thấy tổn thương nhưng vi thể có thấy tế bào u; R2: mắt thường đã phát hiện được tổn thư...(95,6%) trong đó có 18 bệnh nhân (13,3%) có cắt kèm theo một hoặc 2 tạng khác như lách, thân đuôi tụy, cắt gan hạ phân thùy II, III (do có nhân di căn), buồng trứng, nhiều nhất là cắt lách kèm theo (15/135 bệnh nhân). Có 2 trường hợp cắt làm phẫu thuật Sweet qua đường bụng (1,5%) và 4 ... chúng tôi thấy đa số bệnh nhân được mổ là đã ở giai đoạn muộn: 30,4% là giai đoạn IIa, IIb và IIIa; Các giai đoạn IIIb, IIIc và IV chiếm tới 69,6% số trường hợp. Chúng tôi không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm như giới, tuổi, mức độ xấm lấn u (pT), mức di căn hạch (pN) và ...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Ung thư biểu mô tuyến (Adenocarcinoma) vùng nối giữa thực quản - dạ dày: Kết quả điều trị phẫu thuật tại khoa phẫu thuật tiêu hóa bệnh viện Việt Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 66 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN (ADENOCARCINOMA) VÙNG NỐI 
GIỮA THỰC QUẢN - DẠ DÀY: KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT 
TẠI KHOA PHẪU THUẬT TIÊU HÓA BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 
Đỗ Trường Sơn 
Trường Đại học Y Hà Nội 
Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật đối với ung thư biểu mô tuyến (UTBMT) vùng nối thực 
quản dạ dày (TQ - DD) tại khoa Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức. Kết quả cho thấy 135 bệnh nhân 
gồm 71 nam (52,6%), 64 nữ (47,4%); tuổi trung bình 54,3 ± 13,22 tuổi (19 - 82). Theo phân loại Siwert, type 
I có 11 bệnh nhân (8,1%), type II 56 bệnh nhân (41,5%) và type III 68 bệnh nhân (50,4%). Chỉ có độ biệt hóa 
là có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm, các yếu tố khác như giới, tuổi, p(T), p(N) và giai đoạn bệnh 
khác nhau không có ý ngh ĩa. Tỷ lệ sống 5 năm là 18,8% trong đó nhóm II là 13,2%, nhóm III là 18%. Việc 
phân loại các ung thư biểu mô tuyến vùng nối thực quản - dạ dày theo Siwert là có tính khả thi và phù hợp 
với các u ở vùng này. Tỷ lệ sống 5 năm ở nghiên cứu là tương đối thấp do đa số bệnh nhân đến viện muộn. 
Từ khóa: ung thư vùng nối thực quản - dạ dày, phân loại Siwert, cắt toàn bộ dạ dày 
Địa chỉ liên hệ: Đỗ Trường Sơn, Bộ môn Ngoại, trường 
Đại Học Y Hà Nội. 
 Email: dotruongsonn28@gmail.com 
Ngày nhận: 23/9/2013 
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư biểu mô tuyến (adenocarcinoma) 
vùng nối thực quản - dạ dày (TQ-DD) được 
coi là thể bệnh ung thư đường tiêu hóa có tiên 
lượng xấu và tỷ lệ mới mắc đang có xu hướng 
gia tăng, nhất là ở các nước phát triển. Đa số 
bệnh nhân đến viện với các biểu hiện lâm 
sàng ở giai đoạn bệnh tiến triển và khả năng 
mổ cắt được u triệt căn chỉ khoảng 50% [1]. 
Mặc dù về điều trị, ung thư vùng nối thực 
quản - dạ dày thuộc nhóm điều trị đa phương 
thức nhưng phẫu thuật lấy bỏ u triệt căn, khi 
còn cơ hội, vẫn là lựa chọn chính để hy vọng 
có thời gian sống thêm lâu dài. 
Trong lĩnh vực phẫu thuật, do tổn thương 
ác tính phát triển tại vùng giáp ranh giữa thực 
quản và dạ dày, hai tạng này nằm ở hai 
khoang giải phẫu lớn là lồng ngực và ổ bụng 
nên hiện vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều 
về lựa chọn đường mổ cho phù hợp với loại 
ung thư ở vị trí này. Các phẫu thuật viên lồng 
ngực thường sử dụng đường mở ngực trong 
khi các phẫu thuật viên tiêu hóa lại quen 
đường mở bụng. Chính do vậy đã có khá 
nhiều phương pháp mổ khác nhau cho các 
ung thư vùng nối thực quản - dạ dày đã được 
đề xuất và thực hiện như cắt thực quản qua 
đường ngực hoặc qua lỗ hoành, cắt toàn bộ 
dạ dày hoặc cắt dạ dày cực trên (phẫu thuật 
Sweet) qua đường bụng hoặc qua đường 
ngực trái. Cũng có nhiều ý kiến khác nhau về 
mức độ rộng cắt bỏ u, đa số khuyến cáo nên 
cắt mở rộng (extended resection) kèm theo 
nạo vét hạch D2 để đảm bảo 2 mép cắt trên 
và dưới của phần thực quản - dạ dày cắt bỏ 
không còn tế bào ung thư (R0). Tóm lại, nhiều 
ý kiến khác nhau về việc phân định các ung 
thư biểu mố tuyến (UTBMT) ở vùng nối giữa 
thực quản - dạ dày [2], thường xếp chung vào 
một chẩn đoán là ung thư tâm vị, từ đó có 
những quyết định về phương pháp mổ không 
phù hợp, khó cho việc so sánh các thông tin 
khoa học liên quan giữa các nhà nghiên cứu. 
Chính vì vậy, tại Hội nghị khoa học của Hiệp 
 TCNCYH 86 (1) - 2014 67 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
hội ung thư dạ dày quốc tế và Hiệp hội bệnh 
thực quản quốc tế họp tại Munich tháng 
4/1997, các chuyên gia đã nhất trí chọn định 
nghĩa và phân loại của Siwert [3] làm cơ sở để 
nghiên cứu và báo cáo thông tin về điều trị 
bệnh ung thư tâm vị. Nghiên cứu này nhằm 
mục tiêu mô tả một số đặc điểm lâm sàng mô 
bệnh học và kết quả điều trị phẫu thuật của 
các ung thư biểu mô tuyến vùng nối dạ dày - 
thực quản theo phân loại của Siwert tại Khoa 
Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Bao gồm những bệnh nhân được chẩn 
đoán là ung thư vùng nối giữa thực quản - dạ 
dày và được mổ cắt u với ý đồ triệt căn, tại 
khoa Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức 
trong khoảng thời gian từ tháng 1/2004 đến 
tháng 12/2011. 
Tiêu chuẩn chọn vào nhóm nghiên cứu: 
- Vị trí tổn thương: tâm của khối u hay loét 
phải nằm trong phạm vi 5cm trên và 5cm dưới 
so với đường Z, đường phân định ranh giới 
giữa niêm mạc thực quản và dạ dày. 
- Có xác nhận kết quả giải phẫu bệnh là 
adenocarcinome. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
- Xét nghiệm giải phẫu bệnh trả lời ung thư 
biểu mô vẩy (squamous cell carcinoma). 
- Ung thư đồng thời ở nhiều vị trí khác 
nhau. 
2. Phương pháp 
Mô tả hồi cứu dựa trên cơ sở dữ liệu 
(database) về ung thư dạ dày thực quản tại 
khoa Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức. 
Phân loại ung thư vùng nối thực quản - dạ 
dày theo Siwert: Type I, ung thư biểu mô 
tuyến ở đầu xa của thực quản có tâm của u 
nằm trong phạm vi từ 1 - 5 cm cách đường nối 
giải phẫu giữa thực quản - dạ dày; type II: ung 
thư tâm vị chính cống, có tâm u nằm trong 
phạm vi 1 cm trên và 2 cm dưới đường nối 
tiếp thực quản - dạ dày; type III: ung thư dưới 
tâm vị, tâm của u nằm trong phạm vi 2 - 5 cm 
cách dưới đường nối thực quản - dạ dày. 
Phân loại độ biệt hóa và giai đoạn ung thư 
(TNM) theo hướng dẫn của AJCC/UICC sửa 
đổi phiên bản 7 năm 2009 [4]. 
Phẫu thuật triệt căn (R0) được định nghĩa 
là không còn tổn thương ung thư khi kết thúc 
cuộc mổ (cả về vi thể lẫn đại thể); R1: ở mép 
cắt trên hoặc dưới của bệnh phẩm cắt bỏ, 
mắt thường không nhìn thấy tổn thương 
nhưng vi thể có thấy tế bào u; R2: mắt 
thường đã phát hiện được tổn thương u ở 2 
mép trên hoặc dưới. 
3. Xử lý số liệu 
Các số liệu được trình bày dưới dạng các 
tỷ lệ % hoặc trung bình (± độ lệch chuẩn), giá 
trị tối thiểu, tối đa; các biến liên tục được so 
sánh bằng test Mann-Whitney; biến thứ hạng 
được so sánh bằng test χ2; thời gian sống 
thêm toàn bộ (OS, overall survival) tính theo 
Kaplan-Meier, có sử dụng test log-rank để so 
sánh các đường biểu diễn xác suất sống thêm 
sau mổ với mức ý nghĩa khi p ≤ 0,05. Quá 
trình phân tích có sử dụng phần mềm tính 
toán SPSS 13.0. 
4. Đạo đức nghiên cứu 
Đây là một nghiên cứu quan sát, hoàn toàn 
không có can thiệp mới, dựa trên các dữ liệu 
hồ sơ bệnh nhân đã được phẫu thuật điều trị 
ung thư vùng thực quản - dạ dày theo qui định 
thường qui tại khoa Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh 
viện Việt Đức. Mục đích của nghiên cứu này 
nhằm phân tích các yếu tố tác động đến kết 
quả điều trị của người bệnh nhằm nâng cao 
hơn nữa hiệu quả chữa bệnh trong tương lai. 
 68 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Nghiên cứu này tuân thủ các qui định về Đạo 
đức cho một nghiên cứu quan sát, đảm bảo 
quyền tự quyết định của đối tượng khi tham 
gia phỏng vấn để lấy thông tin sau mổ; không 
công bố danh tính của người bệnh trong các 
báo cáo khi công bố, và đã được Thường trực 
Hội đồng Đạo đức cấp cơ sở bệnh viện Việt 
Đức chấp thuận. 
III. KẾT QUẢ 
Trong 8 năm (1/2004 - 12/2011) đã có 135 
bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chọn vào nghiên cứu 
này, gồm 71 nam (52,6%) và 64 nữ (47,4%); 
tuổi trung bình 54,3 ± 13,22 tuổi (19 - 82). 
Theo phân loại Siwert, type I có 11 bệnh nhân 
(8,1%), type II 56 bệnh nhân (41,5%) và type 
III 68 bệnh nhân (50,4%). 
Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống 
về giới, tuổi của bệnh nhân thuộc các type 
phân loại nêu trên, cụ thể lần lượt cho các 
type I, II, III về giới có tỷ lệ nam: nữ là 1.2:1, 
1.1:1, 1.3:1, và tuổi trung bình là 49,2 ± 15,24; 
56,7 ± 13,87; 53,2 ± 12,12 (p = 0,142). Các 
yếu tố khác như độ xấm lấn u (pT), hạch di 
căn (pN) và giai đoạn bệnh cũng đều không 
có sự khác biệt giữa các nhóm I, II, III; chỉ có 
độ biệt hóa là có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa các nhóm này (bảng 1). 
Bảng 1. Một số đặc điểm giải phẫu bệnh lâm sàng của các nhóm 
Đặc điểm 
Type I 
n1 (%) 
Type II 
n2 (%) 
Type III 
n3 (%) 
p 
Độ biệt hóa 
Mạnh 
Vừa 
kém 
5 (45,5) 
4 (36,4) 
2 (18,2) 
7 (12,5) 
26 (46,4) 
23 (41,1) 
21 (15,6) 
54 (40,0) 
50 (44,4) 
0,033 
Xếp loại pT 
T2 
T3 
T4 
1 (9,1) 
4 (36,4) 
6 (54,5) 
3 (5,4) 
19 (33,9) 
34 (60,7) 
7 (10,3) 
28 (41,2) 
33 (48,5) 
0,697 
Xếp loại pN 
N0 
N1 
N2 
N3 
0 
4 (36,4) 
5 (45,5) 
2 (18,1) 
8 (14,3) 
18 (32,1) 
13 (23,2) 
17 (30,4) 
13 (19,1) 
19 (27,9) 
23 (37,9) 
13 (19,1) 
0,194 
Giai đoạn bệnh 
IIb 
IIIa 
IIIb 
IIIc 
IV 
1 (9,1) 
3 (27,2) 
1 (9,1) 
5 (45,5) 
1 (9,1) 
8 (14,3) 
4 (7,1) 
8 (14,3) 
35 (62,5) 
1 (1,8) 
16 (23,5) 
9 (13,2) 
9 (13,2) 
28 (41,2) 
6 (8,2) 
0,194 
Chỉ có độ biệt hóa là có ý nghĩa thống kê trong số các nhóm. 
 TCNCYH 86 (1) - 2014 69 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
Các phương pháp phẫu thuật đã áp dụng 
Chủ yếu và nhiều nhất là cắt toàn bộ dạ 
dày (TBDD) với 129 bệnh nhân (95,6%) trong 
đó có 18 bệnh nhân (13,3%) có cắt kèm theo 
một hoặc 2 tạng khác như lách, thân đuôi tụy, 
cắt gan hạ phân thùy II, III (do có nhân di căn), 
buồng trứng, nhiều nhất là cắt lách kèm theo 
(15/135 bệnh nhân). Có 2 trường hợp cắt làm 
phẫu thuật Sweet qua đường bụng (1,5%) và 
4 trường hợp (3%) làm phẫu thuật Lewis 
Santy (cắt thực quản và cực trên dạ dày, 
miệng nối thực quản - dạ dày trong lồng ngực 
qua đường mở bụng và ngực phải). Trong số 
129 bệnh nhân cắt toàn bộ dạ dày có 15 bệnh 
nhân (11,6%) được mổ bằng phẫu thuật nội 
soi hỗ trợ, chủ yếu là những bệnh nhân thuộc 
giai đoạn tương đối sớm (IIb hoặc IIIa) và 
thuộc type II hoặc III. 
Xét theo các tiêu chuẩn mổ triệt căn, chỉ có 
66 bệnh nhân (48,9%) đạt loại R0, trong đó 
type I có 3 bệnh nhân, type II 26 bệnh nhân và 
type III 37 bệnh nhân. Sự khác biệt giữa các 
nhóm không có ý nghĩa thống kê (p = 0,462). 
Biến chứng và tử vong trong vòng 30 
ngày sau mổ 
Tỷ lệ biến chứng chung cho cả các nhóm 
là 9,6% (13/135 bệnh nhân), trong đó viêm 
phúc mạc do bục miệng nối có 2 trường hợp 
(1,5%), áp xe tồn dư trong ổ bụng 2 bệnh 
nhân, áp xe dưới cơ hoành 1 bệnh nhân, áp 
xe thành bụng 2 bệnh nhân, tràn dịch màng 
phổi 3 bệnh nhân và tràn máu màng phổi 2 
bệnh nhân. Đặc biệt có một trường hợp viêm 
phổi sau mổ dẫn đến suy thở và tử vong vào 
ngày thứ 12 sau mổ. 
Tử vong sau mổ có một bệnh nhân (0,7%), 
72 tuổi, mổ cắt toàn bộ dạ dày qua đường 
bụng, sau mổ bị viêm phổi dẫn đến suy thở và 
tử vong. 
Kết quả theo dõi xa sau mổ 
Tính chung cho cả 3 nhóm, thời gian sống 
thêm trung vị (median) của ung thư vùng nối 
thực quản - dạ dày là 16 tháng (95% CI: 
13,389 - 18,611). Thời gian này có liên quan 
rất rõ đến giai đoạn bệnh (biểu đồ 1). 
Biểu đồ 1. Xác xuất sống thêm theo giai đoạn bệnh 
Log-rank test, p < 0,001. 
 70 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 2. Thời gian sống thêm theo các nhóm (Siwert types) 
Type Siwert 
Thời gian sống thêm trung vị (median) của các nhóm 
Ước lượng Sai số chuẩn 95% CI 
Type I 
Type II 
Type III 
Chung 3 nhóm 
12 tháng 
13 tháng 
18 tháng 
16 tháng 
2,752 
1,247 
1,123 
1,332 
6,605 - 17,395 
10,555 - 15,445 
15,798 - 20,202 
13,389 - 18,611 
Chưa phát hiện thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sống thêm (trung vị) giữa các 
nhóm theo phân loại Siwert. 
Biểu đồ 2. Sống thêm của các nhóm theo phân loại Siwert 
Log-rank test, p = 0,121. 
Không phát hiện thấy sự khác biệt về thời gian sống thêm theo các nhóm. 
IV. BÀN LUẬN 
Phân loại các ung thư biểu mô tuyến tại 
vùng nối thực quản - dạ dày của Siwert đã và 
đang được chấp nhận và sử dụng rộng rãi 
trong các báo cáo liên quan trên toàn thế giới 
[5]. Tại Việt nam, cách phân loại này còn rất ít 
được quan tâm sử dụng và cũng chưa có 
công bố khoa học nào nào về đánh giá kết 
quả xa sau mổ có sử dụng phân loại này. 
Kết quả này của chúng tôi cho thấy, có 11 
bệnh nhân (8,1%) trong nhóm I, 56 bệnh nhân 
(42,5%) nhóm II và 68 bệnh nhân (50,4%) 
nhóm III. Như vậy nhóm I (type I Siwert) là rất 
thấp so với nhóm II và III. Tỷ lệ này thấp hơn 
so với tác giả Ji-Gang Bai [6], Trung Quốc 
(19,2%) nhưng lại quá cao so với số liệu công 
bố của Takashi Ichikura [7], Nhật Bản (trong 
số 65 bệnh nhân chỉ có 1 bệnh nhân - 1,5% 
 TCNCYH 86 (1) - 2014 71 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
thuộc type I). Sự khác biệt này có lẽ là do 
cách nhận định bệnh phẩm sau khi mổ còn 
chưa nhất quán. 
Về đặc điểm lâm sang - mô bệnh học, 
chúng tôi thấy đa số bệnh nhân được mổ là 
đã ở giai đoạn muộn: 30,4% là giai đoạn IIa, 
IIb và IIIa; Các giai đoạn IIIb, IIIc và IV chiếm 
tới 69,6% số trường hợp. Chúng tôi không 
thấy có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các 
nhóm như giới, tuổi, mức độ xấm lấn u (pT), 
mức di căn hạch (pN) và giai đoạn bệnh 
(theo phân loại của AJCC/UICC 7th), ngoại 
trừ độ biệt hóa là có khác biệt có ý nghĩa 
thống kê, trong đó độ biệt hóa mạnh của 
nhóm I là cao nhất (45,5% biệt hóa mạnh) và 
độ biệt hóa kém hay không biệt hóa thì nhóm 
III là nhiều nhất (44,4% biệt hóa kém). 
Về các phương pháp phẫu thuật chung 
cho cả 3 nhóm thì cắt toàn bộ dạ dày là chiếm 
đa số (129 bệnh nhân chiếm 95,6%) và chủ 
yếu là đường mổ bụng đơn thuần, chỉ 4/135 
trường hợp sử dụng đường mở ngực để 
làm phẫu thuật Lewis Santy. Số trường hợp 
mổ đạt tiêu chuẩn triệt căn (R0) chỉ đạt 
66/135 bệnh nhân (48,9%), hơn 50% số 
trường hợp chỉ đạt mức R1 hoặc R2 (còn 
thấy tế bào ung thư trên diện cắt khi làm xét 
nghiệm vi thể hoặc thấy rõ tổn thương u 
trong khi mổ phải để lại). Có 8 bệnh nhân 
(5,9%) khi mổ phát hiện có nhân di căn nhỏ 
ở gan mà khối u vẫn còn khả năng cắt 
được, các trường hợp này được coi như mổ 
mang tính “tạm thời” (palliative). Tổng số 
hạch vét được cho 135 bệnh nhân là 222 
hạch trong đó tổng số hạch có di căn là 627 
hạch. Như vậy số hạch trung bình lấy được 
là 16,5 ± 6,00 (3 - 35 hạch), số hạch di căn 
trung bình là 4,6 ± 4,10 hạch. 
Kết quả sống thêm toàn bộ sau mổ trong 
nghiên cứu này là không cao, tỷ lệ sống 5 
năm tính chung cả 3 nhóm là 18,8%, trong đó 
nhóm II là 13,2%, nhóm 3 là 18,0% (p > 0,05). 
Riêng nhóm I trong số 11 bệnh nhân đã có 9 
bệnh nhân tử vong với thời gian sống thêm 
trung bình là 10,7 tháng (4 - 18 tháng), hai 
bệnh nhân còn lại vẫn còn đang sống với thời 
gian theo dõi là 26 và 30 tháng. 
V. KẾT LUẬN 
Việc phân loại các ung thư biểu mô tuyến 
vùng nối thực quản - dạ dày là việc nên áp 
dụng để có cơ sở so sánh với các nghiên cứu 
khác trên toàn cầu. Với nghiên cứu này cho 
thấy theo cách phân loại của Siwert, type I 
chiếm 8,1%, Type II và III lần lượt là 41,5% và 
50,4%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về độ biệt hóa giữa type I và type II, III, tuy 
nhiên thời gian sống thêm giữa các nhóm 
khác nhau không có ý nghĩa thống kê. Cần 
tiếp tục tiến hành những nghiên cứu sâu hơn 
với số lượng bệnh nhân nhiều hơn để có thể 
khẳng định lợi ích của cách phân loại này đối 
với các ung thư biểu mô tuyến vùng nối giữa 
thực quản và dạ dày. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Crew KD, Neugut AI (2004). Epidemiol-
ogy of upper gastrointestinal malignancies, 
Semin Oncol, 31, 450 - 464. 
2. Marsman WA, Tytgat GNJ, Ten Kate 
FJW, van Lanschot JJB (2005). Differences 
and similarities of adenocarcinoma of the 
esophagus and esophagogastric junction. J 
Surg Oncol, 92, 160 - 168. 
3. Siewert JR, Stein HJ (1996). Adenocar-
cinoma of the gastroesophageal junction: clas-
sification, pathology and extent of resection. 
Dis Esophagus, 9, 173 - 182. 
4. Edge SB, Byrd DR, Compton CC et al 
(2009). AJCC Cancer Staging Manual 7th ed. 
New York: Springer. 
 72 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
5. Hiroaki Ito,Haruhiro Inoue, Noriko 
Odaka et al (2013). Comparison of Clinicopa-
thological Characteristics in the Patients with 
Cardiac Cancer with or without Esophagogas-
tric Junctional Invasion: ASingle-Center Retro-
spective Cohort Study. International Journal of 
Surgical Oncology Article ID 189459, 7 pages 
6. Ji-Gang Bai,Yi Lv and Cheng-Xue 
Dang (2006). Adenocarcinoma of the 
Esophagogastric Junction in China According 
to Siewert’s Classification, Jpn J Clin Oncol; 
36(6), 364 - 367. 
7. Takashi Ichikura, M.D., Toshiya 
Ogawa, M.D., Toshinobu Kawabata, M.D 
et al (2003). Is Adenocarcinoma of the Gastric 
Cardia a Distinct Entity Independent of 
Subcardial Carcinoma? World J. Surg. 27, 
334 - 338. 
Summary 
ADENOCARCINOMA OF THE ESOPHAGOGASTRIC JUNCTION: 
OUTCOMES OF SURGICAL TREATMENT AT THE DEPARTMENT OF 
DIGESTIVE SURGERY, VIET DUC HOSPITAL 
The objective of this study was to evaluate the surgical outcomes of adenocarcinoma at 
esophago-gastric junction by long-term follow-up after surgery. The results showed that there 
were 135 patients involved this study, which consisted of 72 male (52.6%) and 64 female patients 
(47.4%). The median age was 54.3 ± 13.22 years old (19 - 82). According to Siwert classification, 
11 patients were classified as having type I (8.1%), 56 patients had type II (41.5%) and 68 
patients had type III (50.4%) adenocarcinoma at the esophagogastric junction. Only the differen-
tiation grading was significantly different between these groups. Other characteristic such as 
gender, age, p (T), p (N) and disease staging were insignificantly different. The overall 5-years 
survival rate of the whole study was 18.8% with 13.2% in type II and 17% in type III. In conclusion, 
The Siwert classification for adenocarcinoma of esophagogastric junction was feasible and appro-
priate to carcinoma of this area. The 5-years survival rate of the patients in this study was rela-
tively low due to advanced diseases. 
Keywords: EGJ carcinoma, Siwert classification, total gastrectomy 

File đính kèm:

  • pdfung_thu_bieu_mo_tuyen_adenocarcinoma_vung_noi_giua_thuc_quan.pdf