V.I.Lênin - Người bảo vệ xuất sắc triết học Mác

Tóm tắt V.I.Lênin - Người bảo vệ xuất sắc triết học Mác: ...(2) Sđd, t.1, tr.173. (3) Sđd, t.1, tr.196. (4) V.I.Lênin (1974), sđd, t.1, tr.181. (5) Sđd, t.1, tr.184. (6) Sđd, t.1, tr.184. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(89) - 2015 22 thiết lập một chế độ khủng bố vô cùng tàn bạo đối với những người cách mạng. Những tư tưởng thần bí,...t quan niệm hết sức phi lý là: thế giới, giới tự nhiên và cả con người chỉ tồn tại trong những cảm giác của con người, trong cảm giác của bản thân nhà triết học; toàn bộ lý luận của E.Makhơ và những người theo chủ nghĩa Makhơ (lý luận coi “vật thể là những phức hợp cảm giác” hay là một...bản chất của bệnh “tả” khuynh. Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và chủ nghĩa cơ hội “tả” khuynh đều là những khuynh hướng tư tưởng sai lầm, đều phản bội lại lợi ích căn bản của phong trào công nhân. V.I.Lênin chỉ rõ rằng, chủ nghĩa cơ hội “là sản phẩm của thời kỳ phát triển “hòa bình” của p...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu V.I.Lênin - Người bảo vệ xuất sắc triết học Mác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 quốc - một hiện 
tượng mới mà những quan niệm triết học 
siêu hình không thể lý giải đúng đắn, khoa 
học. Đã vậy, bước sang thế kỷ XX, phong 
trào cách mạng ở nước Nga trở nên sôi 
động hơn bất cứ giai đoạn nào khác. Đó là 
giai đoạn diễn ra cách mạng dân chủ tư sản 
1905 - 1907, Cách mạng tháng Hai năm 
1917 và đỉnh cao là cuộc cách mạng xã hội 
chủ nghĩa tháng Mười năm 1917. Trong bối 
cảnh ấy, trên thế giới cũng như ở nước Nga 
đã xuất hiện một số khuynh hướng tư tưởng 
không khoa học nhằm chống lại chủ nghĩa 
Mác như chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa kinh 
nghiệm phê phán, chủ nghĩa cơ hội, chủ 
nghĩa xét lại,... Đồng thời, sau Cách mạng 
tháng Mười, nước Nga bước vào xây dựng 
chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phải 
chống lại sự can thiệp của 14 nước đế 
quốc. Tất cả những điều kiện trên đã thôi 
thúc, đòi hỏi V.I.Lênin phải bảo vệ sự 
trong sáng, khoa học, cách mạng cũng như 
phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết 
học Mác nói riêng.(*) 
2. V.I.Lênin đấu tranh chống lại phái 
dân túy 
Phái dân túy, một trào lưu xã hội - chính 
trị ở Nga nửa cuối thế kỷ XIX cho rằng, 
nước Nga có thể quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội thông qua công xã nông thôn, không 
cần qua chủ nghĩa tư bản; phái dân túy tìm 
cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác, giải thích 
chủ nghĩa Mác một cách tùy tiện, chủ quan 
theo tính chất dân túy chủ nghĩa. V.I.Lênin 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Học viện 
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. ĐT: 0912148194. 
Email: tvphong61@yahoo.com 
TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃ HỘI HỌC 
V.I.Lênin - Người bảo vệ xuất sắc triết học Mác 
 21 
thông qua tác phẩm “Những người bạn 
dân” là thế nào và họ đấu tranh chống 
những người dân chủ - xã hội ra sao?” 
(1894) đã chỉ rõ rằng, những người dân túy 
“đều tự xưng là đại biểu cho những tư 
tưởng và sách lược của những “người bạn 
dân” chân chính, nhưng thật ra lại là những 
kẻ tử thù của những người dân chủ - xã 
hội”(1). Mikhailốpxki, một đại biểu tiêu biểu 
của phái dân túy Nga, thậm chí còn cho 
rằng C.Mác không hề có tác phẩm nào về 
chủ nghĩa duy vật lịch sử. V.I.Lênin trong 
tác phẩm này đã chỉ rõ, Mikhailốpxki đọc 
Tư bản của C.Mác mà không hiểu C.Mác, 
đã vậy ông ta còn xuyên tạc C.Mác, 
Ph.Ăngghen(2); vào những năm 1845 - 1846 
khi C.Mác, Ph.Ăngghen tự nhận rằng chưa 
thật hiểu đầy đủ về lịch sử kinh tế, thì 
Mikhailốpxki cho hai ông không đủ cơ sở. 
Ông ta còn cho rằng C.Mác, Ph.Ăngghen 
có quan điểm duy vật kinh tế, chủ nghĩa 
Mác là phép biện chứng của Hêghen, là tam 
đoạn thức(3). Ông ta coi quan điểm của 
C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề quần chúng 
là quan điểm về vấn đề anh hùng và đám 
đông,... Từ đó, V.I.Lênin đi đến kết luận về 
bản chất của Mikhailốpxki nói riêng của 
những người dân túy nói chung: “Nếu nói 
theo một câu cách ngôn nổi tiếng thì chúng 
ta có thể nói rằng: hãy cạo lớp da ngoài của 
“người bạn dân” đi một chút thì sẽ thấy lòi 
anh tư sản ra”(4). Như vậy, “người bạn dân” 
về bản chất là tư sản. Tính chất tư sản của 
Mikhailốpxki còn ở chỗ, ông ta đã giải 
thích chế độ thừa kế bằng sinh con, đẻ cái 
và bằng trạng thái tâm lý về sự sinh con, đẻ 
cái; giải thích dân tộc bằng những mối liên 
hệ thị tộc; coi những phạm trù và những 
kiến trúc thượng tầng của một hình thái xã 
hội là vĩnh viễn(5). V.I. Lênin đã mỉa mai, 
châm biếm rất hay: “nhà triết học chủ quan 
của chúng ta vừa mới định chuyển từ cách 
nói suông sang cách chỉ ra những sự chỉ 
dẫn thực tế cụ thể thì ông ta ngã sóng soài 
vào trong vũng lầy. Và hình như ông ta lại 
thấy rất dễ chịu trong cái vị trí không được 
sạch sẽ lắm đó”(6). 
3. V.I.Lênin đấu tranh chống chủ 
nghĩa kinh nghiệm phê phán 
Những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế 
kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang 
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và ngày càng 
bộc lộ rõ bản chất hiếu chiến, phản động, ăn 
bám, bóc lột của nó. Lúc này C.Mác và 
Ph.Ăngghen đã qua đời, tạo cơ hội cho bọn 
phản bội, bọn cơ hội trong Quốc tế II trỗi 
dậy đả kích, chống phá chủ nghĩa Mác nói 
chung, triết học Mác nói riêng. Một số lãnh 
tụ Quốc tế II đã đánh giá không đúng chủ 
nghĩa tư bản cũng như chủ nghĩa đế quốc. 
Chẳng hạn, Bốctanh, lãnh tụ Quốc tế II 
công khai đòi xét lại chủ nghĩa Mác, cho 
rằng chủ nghĩa duy vật đã bị bác bỏ; 
C.Cauxky, một trong những thủ lĩnh của 
Đảng dân chủ - xã hội Đức, cho rằng có thể 
“bổ sung” triết học Mác bằng nhận thức 
luận của E.Makhơ... Trong bối cảnh đó, 
nhiều trào lưu tư tưởng không khoa học đua 
nhau nổi lên chống triết học Mác. Tiêu biểu 
cho những trào lưu chống triết học Mác là 
“chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” hay còn 
gọi là “chủ nghĩa Makhơ” (Makhơ cùng với 
Avênariút khởi xướng ra “chủ nghĩa kinh 
nghiệm phê phán”, có khả năng khắc phục 
được tính phiến diện của cả chủ nghĩa duy 
tâm lẫn chủ nghĩa duy vật). Trong khi đó, 
tình hình ở nước Nga sau thất bại của cuộc 
Cách mạng dân chủ tư sản (1905 - 1907) rất 
phức tạp. Chế độ chuyên chế Nga hoàng đã 
(1) V.I.Lênin (1974), Toàn tập, t.1, Nxb Tiến bộ, 
Mátxcơva, tr.153. 
(2) Sđd, t.1, tr.173. 
(3) Sđd, t.1, tr.196. 
(4) V.I.Lênin (1974), sđd, t.1, tr.181. 
(5) Sđd, t.1, tr.184. 
(6) Sđd, t.1, tr.184. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(89) - 2015 
 22 
thiết lập một chế độ khủng bố vô cùng tàn 
bạo đối với những người cách mạng. 
Những tư tưởng thần bí, tôn giáo, bi quan 
đủ loại không những được phục hồi mà còn 
nảy nở thêm và lan tràn nhanh chóng. 
Không chỉ những kẻ thuộc phái mensêvích 
mà cả những người thuộc phái bônsêvích 
trước đây (như A.Bôgđanốp, V.Badarốp, 
A.V.Lunatsatxki...) cũng dựa vào chủ nghĩa 
Makhơ để chống lại chủ nghĩa Mác nói 
chung, triết học Mác nói riêng, đòi xét lại 
cả các nguyên tắc sách lược của Đảng trong 
đấu tranh chính trị và mưu toan dùng chủ 
nghĩa duy tâm chủ quan của chủ nghĩa kinh 
nghiệm phê phán do E.Makhơ sáng lập để 
thay thế triết học Mác. Đây là thời kỳ mà 
V.I.Lênin nhận xét: “Chủ nghĩa duy vật đâu 
đâu cũng bị ruồng bỏ” và các thế lực thù 
địch đủ loại “liên minh với nhau vì cùng 
thù ghét chủ nghĩa duy vật biện chứng”(7). 
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và 
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán V.I.Lênin 
đã chỉ rõ, triết học kinh nghiệm phê phán, 
về thực chất là chủ nghĩa duy tâm nhưng 
núp dưới chiêu bài mới, kỳ quặc và khó 
hiểu. Chủ nghĩa Makhơ, chẳng qua chỉ là sự 
phục hồi lại, sự nhai lại triết học duy tâm 
chủ quan của Béccơli và Hium mà thôi. 
Nếu như Béccơli gọi sự vật là “những phức 
hợp của cảm giác”, thì Makhơ lại đưa ra 
học thuyết về “các yếu tố của thế giới”, gọi 
sự vật là “tổ hợp của các yếu tố”. Nhưng 
thực ra, cái gọi là “yếu tố” của E.Makhơ, về 
thực chất cũng chỉ là kinh nghiệm, là cảm 
giác mà thôi. Theo E.Makhơ, nhận thức của 
con người không xuất phát từ sự tồn tại 
khách quan của sự vật mà lại xuất phát từ 
những “tài liệu trực tiếp”, từ những cảm 
giác của con người về âm thanh, màu sắc, 
mùi vị... Để tránh từ “cảm giác”, E.Makhơ 
gọi những cái đó là “những yếu tố của 
những kinh nghiệm chúng ta” và đó chính 
là nền tảng để xây dựng nên toàn bộ thế 
giới vật lý và tâm lý. E.Makhơ cho rằng, 
bằng thuật ngữ “yếu tố” ông ta đã khắc 
phục được cuộc tranh cãi bấy lâu giữa các 
nhà duy vật và duy tâm. Theo E.Makhơ, 
các “yếu tố” của ông ta không phải là vật 
chất cũng chẳng phải là tinh thần, không 
phải là tâm lý mà cũng chẳng phải là vật lý. 
Nó là “cái trung gian” giữa những yếu tố 
đó. Tuy nhiên, học thuyết về các “yếu tố” 
lại được nhiều nhà tư tưởng, nhà triết học ở 
Nga lúc đó ủng hộ nhiệt thành. Họ cho 
rằng, đó là một phát minh vĩ đại, là cơ sở để 
thống nhất giữa chủ nghĩa Makhơ với chủ 
nghĩa Mác. V.I.Lênin cho rằng: “Makhơ và 
Avênariút đã lén lút du nhập chủ nghĩa duy 
vật bằng cách dùng chữ “yếu tố”, tựa hồ 
như chữ này cứu được lý luận của họ thoát 
khỏi “tính phiến diện” của chủ nghĩa duy 
tâm chủ quan, và tựa hồ như nó cho phép 
sự thừa nhận sự phụ thuộc của cái tâm lý 
vào võng mạc, thần kinh,... Thật ra, thủ 
đoạn lợi dụng từ “yếu tố” chỉ là một lối 
ngụy biện hết sức thảm hại”(8). 
Phê phán những quan điểm sai lầm đó, 
V.I.Lênin cho rằng chủ nghĩa Makhơ muốn 
xoá nhòa tính đảng trong triết học Mác, 
muốn đứng trên chủ nghĩa duy vật và chủ 
nghĩa duy tâm, nhưng thực chất nó chỉ nhắc 
lại một cách giản đơn những quan niệm cũ 
của Béccơli, Hium. Cái mà E.Makhơ cho là 
thuật ngữ mới, chẳng qua chỉ là sự lợi dụng 
những thành tựu mới của khoa học tự nhiên 
nhằm che đậy chủ nghĩa duy tâm. Sai lầm 
chủ yếu của E.Makhơ và những người theo 
chủ nghĩa Makhơ chính là lý thuyết về “yếu 
tố trung gian”. V.I.Lênin khẳng định: “Thật 
là trẻ con nếu nghĩ rằng bịa ra một từ mới, 
là có thể tránh được những trào lưu triết học 
cơ bản,, triết học của các ngài chỉ là chủ 
(7) V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t.18, Nxb Tiến bộ, 
Matxcơva, tr.9. 
(8) V.I.Lênin (1980), sđd, tr.56. 
V.I.Lênin - Người bảo vệ xuất sắc triết học Mác 
 23 
nghĩa duy tâm đã uổng công che đậy sự trần 
trụi của chủ nghĩa duy ngã của mình bằng 
một thuật ngữ “khách quan” hơn. Hoặc giả 
“yếu tố” không phải là cảm giác, và như 
vậy từ “mới” của các ngài tuyệt đối không 
có một chút ý nghĩa gì cả, và các ngài chỉ 
làm ồn lên vô ích mà thôi”(9). 
Theo V.I.Lênin, quan niệm đó của 
E.Makhơ dù muốn hay không cũng tất yếu 
dẫn đến một quan niệm hết sức phi lý là: 
thế giới, giới tự nhiên và cả con người chỉ 
tồn tại trong những cảm giác của con người, 
trong cảm giác của bản thân nhà triết học; 
toàn bộ lý luận của E.Makhơ và những 
người theo chủ nghĩa Makhơ (lý luận coi 
“vật thể là những phức hợp cảm giác” hay 
là một “phức hợp yếu tố, trong đó cái tâm 
lý đồng nhất với cái vật lý”) chẳng qua “chỉ 
là một chủ nghĩa ngu dân triết học, tức là 
chủ nghĩa duy tâm chủ quan được phát triển 
đến chỗ vô lý”(10). Chủ nghĩa Makhơ luôn 
phỏng theo cách nói của chủ nghĩa duy tâm 
chủ quan, hoặc là lặp lại luận cứ của 
Beccơli, của Phíchtơ. Những cách diễn đạt 
khác nhau của Beccơli năm 1710, của 
Phíchtơ năm 1801, của Avênariút năm 1891 
- 1894, không hề làm thay đổi bản chất của 
chủ nghĩa duy tâm chủ quan của họ. Họ còn 
viện đến “thuyết thực tại ngây thơ” để bảo 
vệ triết học duy tâm chủ quan của mình. 
Đây là lối ngụy biện tầm thường, bởi lẽ 
theo V.I.Lênin: ““Thuyết thực tại ngây thơ” 
của bất cứ một người lành mạnh nào, không 
qua nhà thương điên hay không qua trường 
đại học của những nhà triết học duy tâm, là 
ở chỗ thừa nhận sự tồn tại của vật, của hoàn 
cảnh, của thế giới không phụ thuộc vào cảm 
giác của chúng ta, vào ý thức của chúng ta, 
vào cái Tôi của chúng ta và vào con người 
nói chung”(11). 
V.I.Lênin đặt ra cho những người theo 
chủ nghĩa Makhơ một câu hỏi mà họ không 
thể trả lời được. Đó là, con người có suy 
nghĩ bằng óc không? Avênariút công khai 
khẳng định: “Óc của chúng ta không phải là 
nơi ở, là trụ sở của tư duy, là kẻ sáng tạo ra 
tư duy, cũng không phải là công cụ hoặc 
khí quan của tư duy, là kẻ chứa đựng tư 
duy, hoặc là cơ chất,... của tư duy”(12). Điều 
này hoàn toàn trái ngược, mâu thuẫn với 
khoa học tự nhiên hiện đại và đời sống thực 
tiễn. Trên cơ sở vạch rõ bản chất chủ nghĩa 
duy tâm chủ quan của chủ nghĩa Makhơ, 
V.I.Lênin đã chỉ rõ chủ nghĩa Makhơ: 
“Trên thực tế, như thế là hoàn toàn rời bỏ 
chủ nghĩa duy vật biện chứng, tức chủ 
nghĩa Mác”(13). 
4. V.I.Lênin đấu tranh chống lại chủ 
nghĩa cơ hội 
Chủ nghĩa cơ hội là một trào lưu chính 
trị, tư tưởng trong phong trào công nhân 
nhưng bị ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, 
thể hiện sự thỏa hiệp giai cấp và thù địch 
với chủ nghĩa Mác, khước từ cách mạng xã 
hội chủ nghĩa và sự cần thiết phải giành 
chính quyền về tay giai cấp vô sản. Thực 
chất, chủ nghĩa cơ hội đi ngược lại lợi ích 
của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa cơ hội 
xuất hiện cùng với sự phát triển của phong 
trào công nhân khoảng nửa sau thế kỷ XIX 
đầu thế kỷ XX. Sách lược của chủ nghĩa cơ 
hội ban đầu được vay mượn từ các nhà cải 
cách tự do cũng như các nhà vô chính phủ. 
Trong thời gian hoạt động của Quốc tế I và 
Quốc tế II, một số nhà hoạt động trong 
phong trào công nhân đã đi theo chủ nghĩa 
cơ hội với hai hướng: Thứ nhất, hướng của 
Ph.Látxan và E.Bécxtanh. Hướng này công 
khai đầu hàng, thoả hiệp giai cấp tư sản; 
gắn liền với chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh 
trong phong trào công nhân. Chủ nghĩa cơ 
(9) V.I.Lênin (1980), sđd, tr.56. 
(10) Sđd, tr. 85. 
(11) Sđd, tr.74. 
(12) Sđd, tr.97. 
(13) Sđd, tr.10. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(89) - 2015 
 24 
hội hữu khuynh là những lý thuyết cải 
lương trong phong trào công nhân muốn lái 
phong trào theo hướng gián tiếp phục vụ lợi 
ích của giai cấp tư sản và vì mục tiêu lợi ích 
cục bộ, nhất thời, trước mắt chứ không phải 
lợi ích lâu dài, cơ bản của phong trào. Chủ 
nghĩa cơ hội hữu khuynh chỉ muốn thực 
hiện những cải cách nhỏ vì chủ nghĩa xã hội 
trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản; chủ 
trương “hợp tác” giữa giai cấp tư sản và 
giai cấp vô sản; chối bỏ chuyên chính vô 
sản. Những tư tưởng này phản ánh tư tưởng 
của một bộ phận công nhân quý tộc trong 
phong trào công nhân. Thứ hai, hướng của 
M.A.Bacunin. Hướng này lại muốn đưa 
phong trào công nhân đến chỗ phiêu lưu, 
mạo hiểm; gắn liền với chủ nghĩa cơ hội 
“tả” khuynh. Chủ nghĩa cơ hội “tả” khuynh 
lại muốn đưa phong trào công nhân tới chỗ 
hy sinh vì những mục đích vô nghĩa; tuyệt 
đối hoá bạo lực trong cách mạng; không 
tính tới những điều kiện lịch sử - cụ thể. 
V.I.Lênin trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả” 
khuynh trong phong trào cộng sản (1920) 
đã phân tích chỉ rõ bản chất của bệnh “tả” 
khuynh. Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và 
chủ nghĩa cơ hội “tả” khuynh đều là những 
khuynh hướng tư tưởng sai lầm, đều phản 
bội lại lợi ích căn bản của phong trào công 
nhân. V.I.Lênin chỉ rõ rằng, chủ nghĩa cơ 
hội “là sản phẩm của thời kỳ phát triển “hòa 
bình” của phong trào công nhân... Mặt 
khác, thời kỳ này đã đẻ ra khuynh hướng 
phủ nhận đấu tranh giai cấp ca tụng hòa 
bình xã hội, phủ nhận cách mạng xã hội chủ 
nghĩa, phủ nhận về nguyên tắc các tổ chức 
bí mật, thừa nhận chủ nghĩa ái quốc tư 
sản,...”(14). Nguyên nhân của chủ nghĩa cơ 
hội, theo V.I.Lênin là do bộ phận quý tộc, 
những người tiểu tư sản trong giai cấp công 
nhân, đã thoái hóa, phản bội lại những 
người công nhân: “Một số tầng lớp nhất 
định của giai cấp công nhân (bọn quan liêu 
trong nội bộ phong trào công nhân và bọn 
công nhân quý tộc được thừa hưởng một 
phần nhỏ những thu nhập có được do sự 
bóc lột các thuộc địa và do địa vị đặc quyền 
của “tổ quốc” họ trên thị trường quốc tế) 
cùng với các bạn đường tiểu tư sản trong 
những đảng xã hội chủ nghĩa, là chỗ dựa xã 
hội chủ yếu của những khuynh hướng ấy và 
là những kẻ đi gieo rắc ảnh hưởng tư sản 
trong giai cấp vô sản”(15). V.I.Lênin đã phân 
tích chỉ ra nguồn gốc giai cấp của chủ nghĩa 
cơ hội: “Nguồn gốc giai cấp của chủ nghĩa 
xã hội - sôvanh và của chủ nghĩa cơ hội chỉ 
là một: đó là sự liên minh giữa một tầng lớp 
nhỏ bé gồm những công nhân được hưởng 
đặc quyền đặc lợi, với tư sản dân tộc “nước 
mình”, chống lại quần chúng giai cấp công 
nhân; là sự liên minh giữa bọn tôi tớ của 
giai cấp tư sản với với giai cấp ấy, chống 
lại giai cấp bị giai cấp ấy bóc lột”(16). 
V.I.Lênin cũng chỉ ra nội dung chính trị của 
chủ nghĩa cơ hội cũng như của chủ nghãi xã 
hội - sôvanh: “Nội dung chính trị của chủ 
nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xã hội - sôvanh 
chỉ là một: hợp tác giai cấp, từ bỏ chuyên 
chính vô sản, từ bỏ những hành động cách 
mạng, thừa nhận vô điều kiện chế độ hợp 
pháp tư sản, thiếu tin tưởng vào giai cấp vô 
sản, tin tưởng vào giai cấp tư sản”(17). 
5. V.I.Lênin đấu tranh chống lại chủ 
nghĩa xét lại 
Chủ nghĩa xét lại cũng là một trào lưu tư 
tưởng cơ hội nhưng đòi xét lại chủ nghĩa 
Mác dưới chiêu bài tư duy sáng tạo về 
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác trong 
điều kiện mới, nhưng thực chất là từ bỏ 
những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa 
Mác mà thực tiễn đã kiểm nghiệm, khẳng 
định là đúng đắn. Chủ nghĩa xét lại có hai 
khuynh hướng chủ yếu là “tả” và “hữu”. 
(14) V.I.Lênin (1980), sđd, t.26, tr.201. 
(15) Sđd, tr.201. 
(16) V.I.Lênin (1980), sđd, t.27, tr.155. 
(17) Sđd, tr.155. 
V.I.Lênin - Người bảo vệ xuất sắc triết học Mác 
 25 
Chủ nghĩa xét lại hữu khuynh tìm cách thay 
thế những nguyên lý của chủ nghĩa Mác 
bằng những quan điểm, những cải cách tư 
sản. Chủ nghĩa xét lại “tả” khuynh lại đánh 
tráo những nguyên lý chủ nghĩa Mác bằng 
những quan điểm vô chính phủ, duy ý chí, 
có tính tiểu tư sản. Chủ nghĩa xét lại là hậu 
quả tác động của tư tưởng tư sản và tiểu tư 
sản đến phong trào công nhân. Về bản chất 
giai cấp, chủ nghĩa xét lại là tư tưởng của 
giai cấp tiểu tư sản, của tầng lớp công nhân 
quý tộc. Nó phản ánh tính chất hai mặt của 
những giai tầng xã hội này trong điều kiện 
tư bản chủ nghĩa và trong điều kiện đấu 
tranh vì chủ nghĩa xã hội ngày càng gay 
gắt. V.I.Lênin đã chỉ ra nguồn gốc giai cấp 
của chủ nghĩa xét lại ở trong xã hội hiện 
đại: “Vì, trong mỗi nước tư bản chủ nghĩa, 
bên cạnh giai cấp vô sản bao giờ cũng còn 
có những tầng lớp rộng rãi của giai cấp tiểu 
tư sản, của các tiểu chủ... Hoàn toàn dĩ 
nhiên là thế giới quan tư sản vẫn thấm và 
còn thấm vào hàng ngũ các đảng công nhân 
rộng rãi”(18). Chủ nghĩa xét lại xuất hiện vào 
những năm 70 của thế kỷ XIX trong đảng 
dân chủ - xã hội Đức với đại biểu tiêu biểu 
là E.Bécxtanh. Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen 
qua đời thì nó được hình thành như một hệ 
tư tưởng và lan rộng sang các đảng dân chủ 
- xã hội Pháp, Áo - Hung, Nga. Cuối thế kỷ 
XIX - đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa xét lại đòi 
xét lại tất cả các bộ phận cấu thành chủ 
nghĩa Mác. Trong triết học, nó phủ nhận 
chủ nghĩa duy vật biện chứng, tìm cách lắp 
ghép chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa 
Cantơ mới, hay chủ nghĩa kinh nghiệm phê 
phán của Makhơ; thay đấu tranh của các 
mặt đối lập bằng sự thoả hiệp; phủ nhận sự 
nhảy vọt về chất trong phát triển; thay cách 
mạng bằng tiến hoá, “tầm thường hóa về 
mặt triết học đối với khoa học”(19). Chủ 
nghĩa xét lại cho rằng, sự thay thế sản xuất 
nhỏ bằng sản xuất lớn tư bản đang bị chậm 
lại và trong nông nghiệp không thể diễn ra; 
các liên hợp xí nghiệp và các cácten lại tạo 
điều kiện cho chủ nghĩa tư bản khắc phục 
khủng hoảng. Do đó, mâu thuẫn cơ bản của 
chủ nghĩa tư bản sẽ dịu đi. Chính vì vậy, 
không cần đấu tranh xoá bỏ bóc lột tư bản, 
chỉ cần thâm nhập hòa bình của khuynh 
hướng xã hội chủ nghĩa là thực hiện được 
mục tiêu xóa bỏ bóc lột. Chủ nghĩa xét lại 
đòi xét lại nguyên lý của chủ nghĩa Mác về 
đấu tranh giai cấp và mục tiêu cuộc đấu 
tranh của giai cấp công nhân; phủ nhận 
chuyên chính vô sản. Họ cho rằng, tự do 
chính trị, dân chủ, quyền công dân trong 
chủ nghĩa tư bản sẽ phá huỷ cơ sở cuộc đấu 
tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Họ 
coi mục tiêu của cuộc đấu tranh của công 
nhân là thiết lập dân chủ tư sản, cải cách 
chủ nghĩa tư bản, điều hòa xung đột giữa tư 
sản và công nhân. Ngày nay, chủ nghĩa xét 
lại có những điều chỉnh nhất định nhưng 
bản chất vẫn là chống chủ nghĩa Mác. 
6. Kết luận 
Rõ ràng, V.I.Lênin đã bảo vệ xuất sắc 
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói 
riêng khỏi các trào lưu tư tưởng duy tâm, 
phản khoa học, phản động như chủ nghĩa 
dân túy, chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, 
chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại. Trong 
cuộc đấu tranh tư tưởng ấy, V.I.Lênin đã 
chỉ rõ “nhưng chủ nghĩa Mác, sau mỗi lần 
bị khoa học chính thống “thủ tiêu” thì lại 
càng vững mạnh, càng được tôi luyện và 
càng sinh động hơn”(20). Cuộc đấu tranh của 
V.I.Lênin chống lại các trào lưu tư tưởng 
phản tiến bộ, bảo vệ chủ nghĩa Mác nói 
chung, triết học Mác nói riêng mãi mãi là 
những bài học tư tưởng có ý nghĩa lý luận 
và khoa học đối với chúng ta hiện nay. 
(18) V.I.Lênin (1979), Toàn tập, sđd, t.17, tr.21. 
(19) Sđd, tr.29. 
(20) Sđd, tr.20. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(89) - 2015 
 26 

File đính kèm:

  • pdfv_i_lenin_nguoi_bao_ve_xuat_sac_triet_hoc_mac.pdf