Văn hoá trong tiến trình lịch sử con người
Tóm tắt Văn hoá trong tiến trình lịch sử con người: ...ợp văn minh Tây phương, Mỹ Latin và Ả Rập, hoặc chỉ gồm có một nước như văn minh Nhật Bản. Văn minh dĩ nhiên hoà hợp và giao tác và có thể có các nhánh nhỏ. Văn minh Tây Phương có hai nhánh chính: Âu châu và Bắc Mỹ và văn minh Hồi giáo có các nhánh Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, và Mã Lai. Tuy thế văn m...nh giàu, nhưng người Nga không thể trở thành người Estonia và người Azeris không thể trở thành người Armenia. Trong sự xung đột về giai cấp và ý thức hệ, câu hỏi then chốt là “Anh theo bên nào?” và người ta có thể chọn và đổi bên. Trong cuộc xung đột giữa các nền văn minh, câu hỏi then chốt là...háp, quyền con người, bình đẳng, theo luật, dân chủ, thị trường tự do, sự phân chia tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước, tất cả đều ít có “cộng hưởng” ở các văn hoá Hồi giáo, Khổng giáo, Nhật, ấn độ giáo, Phật giáo hay Chính thống giáo. Trong sự tranh đấu và xung đột giữa các nền văn minh, c...
á mà con người có để phân biệt con người với các sinh vật khác. Văn minh được định nghĩa bởi những thành phần khách quan cùng chung với nhau như ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, phong tục, cơ sở cơ chế, và bởi sự nhận thức, tự nhận diện chủ quan chung của người dân. Một nền văn minh có thể gồm vài nước, như trường hợp văn minh Tây phương, Mỹ Latin và Ả Rập, hoặc chỉ gồm có một nước như văn minh Nhật Bản. Văn minh dĩ nhiên hoà hợp và giao tác và có thể có các nhánh nhỏ. Văn minh Tây Phương có hai nhánh chính: Âu châu và Bắc Mỹ và văn minh Hồi giáo có các nhánh Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, và Mã Lai. Tuy thế văn minh là những thực thể có ý nghĩa, và mặc dầu lằn chia cách chúng rất ít khi thấy rõ, nhưng chúng có thật và hiện hưũ. Theo Huntington, sau đây là các lý do chính vì sao sẽ có xung đột giữa các nền văn minh “Vận mệnh thế giới sẽ được tạo ra phần lớn từ các sự liên tác động của 7 hoặc 8 nền văn minh chính. Những nền văn minh này gồm văn minh Tây phương, Khổng giáo, Nhật, Hồi giáo, ấn độ giáo, Chính thống giáo, Mỹ Latin và có thể văn minh Phi châu. Những cuộc xung đột quan trọng nhất về tương lai sẽ xảy ra dọc theo các đường nứt đoạn (fault lines) văn hoá ngăn chia những nền văn minh này trên thế giới. Tại sao như vậy? Thứ nhất, sự khác biệt giữa các nền văn minh thực là cơ bản. Văn minh khác lẫn nhau từ lịch sử, ngôn ngữ, văn hoá, truyền thống và quan trọng nhất là tôn giáo. Con người ở các nền văn minh có các quan điểm khác nhau về sự liên hệ giữa đấng tối cao và con người, giữa cá nhân và tập thể, giữa công dân và nhà nước, giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ, cũng nhự quan điểm khác nhau về sự quan trọng tương đối giữa quyền hạn và bổn phận trách nhiệm, tự do và quyền thế, bình đẳng và giai cấp. Những sự khác biệt này là sản phẩm của bao thế kỷ. Chúng sẽ không biến mất nhanh chóng. Chúng thật là cơ bản hơn là sự khác nhau giữa các ý thức hệ chính trị hay các chế độ chính trị. Sự khác biệt không thiết yếu nghĩa là có xung đột và xung đột không thiết yếu là bạo đô.ng. Qua các thế kỹ, tuy thế, sự khác biệt giữa các văn minh đã gây ra những cuộc xung đột bạo động và kéo dài nhất trong lịch sử. Thứ hai, thế giới hiện nay đang trở nên nhỏ dần. Sự liên tác giữa các các dân từ các nền văn minh khác nhau sẽ càng ngày càng tăng lên; và những sự liên tác càng nhiều này sẽ làm mọi người ý thức về các nền văn minh, văn hoá và nhận thức ra về các sự khác nhau giữa các nền văn minh và các điểm chung trong cùng một nền văn minh. Thí dụ, sự di dân của người bắc Phi vào Pháp đã gây ra các sự chống đối thù hằn từ người Pháp nhưng đồng thời lại chấp nhận có thiện cảm từ sự di dân của những người Công giáo Ba Lan. Người Mỹ phản ứng không thiện cảm về đầu tư của người Nhật nhiều hơn là đầu tư từ Canada và các nước Âu châu. Cũng vậy như Donal Horowitz đã chỉ rõ “Một người Ibo có thể được phân biệt và gọi là là người Owerri Ibo hay Onitsha Ibo ở vùng Đông Nigeria. ở Lagos, ông ta chỉ coi là người Ibo. ở Luân Đôn, thì ông ta là người Nigeria. Còn ở New York, thì ông chỉ được biết là người Phi châu”. Sự liên tác của các dân từ các văn minh khác nhau sẽ làm tăng lên sự nhân thức về văn hoá của họ và từ đó làm tăng lêm sự khác nhau và khó chịu, thù hằn đã có từ xưa trong lịch sử. Thứ ba, tiến trình canh tân kinh tế và thay dổi trong xã hội với viễn cảnh của toàn cầu hoá đã làm người dân mất dần đi cái đặc tính và tính chất thực thể của địa phương và làm yếu đi vai trò của quốc gia trong sự tự nhận diện về đặc tính, đặc thù của cá thể. Vì thế ở nhiều nơi trên thế giới, tôn giáo đã điền vào khoảng trống này, dưới dạng các phong trào tôn giáo giáo điều trở về nguồn (fundamentalist). Những phong trào này đã xuất hiện ở Ki Tô giáo, Đạo Do thái, Phật giáo, ấn độ giáo cũng như Hồi giáo. Đa số những người tham gia trong các phong trào này là trẻ, có học và thuộc tầng lớp trung lưu. Sự hồi sinh của tôn giáo ở thời đại mới, “la revanche de Dieu”, như Gilles Kepel đã mô tả, cung cấp được một nền tảng cho phép sự tự nhận diện và hiện hữu của một cá thể hay một tập thể và sự tham gia vượt qua khỏi biên giới quốc và thống nhất các nền văn minh. Thứ tư, sự lớn mạnh của nhận thức về văn hoá ở người dân được tăng thêm bởi vai trò lưỡng đôi của thế giới Tây phương. Về một mặt, phương Tây đang ở cao điểm của quyền lư.c. Tuy vậy, trong cùng thời điểm, và có thể cũng vì vậy mà có hiện tượng trở về nguồn đã xảy ra ở các nền văn minh khác. Chúng ta càng ngày nghe nói về khuynh hướng hướng nội về “Á châu hoá” ở Nhật Bản, sự chấm dứt của di sản Nehru và sự “ấn độ giáo hoá” ở ấn Độ, sự thất bại của ý thực hệ Tây phương về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa quốc gia và vì thế sự hồi sinh của “Hồi giáo hoá” ở Trung Đông, và nay thì tranh cải giữa “Tây phương hoá” hay “Nga hoá” ở xứ sở của Boris Yelsin. Phương Tây ở điểm cao của quyền lực đối diện với các xã hội khác càng ngày có ý muốn, ý chí và khả năng tài nguyên để lèo lái và thiết lập một thế giới mới theo kiểu và cách khác với phương Tây. Trong quá khứ, những người quyền thế ở các xã hội ngoài phương Tây thường là người có liên hệ với phương Tây nhiều nhất, đã được giáo dục ở Oxford, Sorbonne hay Sandhurst, và đã hấp thụ thái độ và giá trị của văn hoá Tây phương. Trong cùng thời gian thì dân chúng ở các xã hội này thường thì vẫn còn giữ, bảo tồn và sống theo văn hoá bản sứ. Nay thì trái lại ở thời đại toàn cầu hoá, thì lại trái ngược. “Bản điạ hoá” ở tầng lớp cao, có học và quyền thế đang xảy ra trong khi dó thì văn hoá phương Tây (nhất là Mỹ), với lối sống, phong tục, cách ăn mặc đã trở thành phổ thông ở tầng lớp dân chúng. Thứ năm, đặc tính văn hoá và các sự khác biệt rất khó thay đổi và vì thế khó dung hoà và giải quyết hơn là sự khác biệt về kinh tế hay chính trị. ở Liên bang Sô Viết cũ, người cộng sản có thể thành người dân chủ, người giàu trở thành nghèo và người nghèo trở thành giàu, nhưng người Nga không thể trở thành người Estonia và người Azeris không thể trở thành người Armenia. Trong sự xung đột về giai cấp và ý thức hệ, câu hỏi then chốt là “Anh theo bên nào?” và người ta có thể chọn và đổi bên. Trong cuộc xung đột giữa các nền văn minh, câu hỏi then chốt là “Anh là ai?”, là ai là cái đã được cho và không thể thay đổi được. Như ta biết từ Bosnia, đến vùng Caucasus, Sudan, câu trả lời sai có thể dẫn đến một viên đạn vào đầu. Hơn cả dân tộc và chủng tộc, tôn giáo phân biệt rõ ràng và riêng biệt giữa con người. Một người có thể là nữa Pháp, nữa Ả Rập và đồng thời là công dân của hai nước. Nhưng rất khó để người đó là nữa Công giáo và nữa Hồi giáo. Và sau cùng, sự thành lập các khối kinh tế trong các khu vực càng nhiều. Tổng số số lượng thương mãi trong cùng khối kinh tế trong vùng tăng lên trong năm 1980 đến 1989, từ 51% lên 59% ở Âu châu, từ 33% lên 37% ở Đông Á, và từ 32% lên 36% ở Bắc Mỹ. Sự quan trọng của các khối kinh tế khu vực sẽ càng ngày càng tăng trong tương lai. Về một mặt, sự thành công của các khối kinh tế khu vực sẽ làm tăng ý thức về văn hoá, văn minh chung. Về mặt khác, kinh tế khu vực chỉ có thể thành công khi nó có gốc là cùng chung một nền văn minh. Cộng đồng chung Âu châu dựa vào cơ bản chung của văn hoá Âu châu và đạo Ki-tô. Năm lý do trên là cốt lỏi của học thuyết Huntington. Lý do sau cùng về kinh tế và về phương diện này, ông cũng không khác Kotkin. Thí dụ về sự xuất hiện của cường quốc kinh tế Trung Quốc, cũng như Kotkin, ông cho rằng “Cùng chung văn hoá, trái lại làm thuận lợi sự mở rộng nhanh chóng về quan hệ kinh tế giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và các cộng đồng Hoa kiều ở các nước Á châu khác. Nếu cùng chung văn hoá là tiên quyết cho sự hội nhập kinh tế thì khối kinh tế chính ở Đông Á về tương lai là sẽ có trọng điểm ở Trung Quốc. Khối kinh tế này, thực ra, thì đã có và tồn tại rồi. Mặc dầu hiện nay Nhật bản đang đứng đầu trong vùng, nhưng khối kinh tế của người Hoa ở Á châu đã nhanh chóng trở thành một trọng điểm mới về kỹ nghệ, thương mại và tài chính. Vùng chiến lược này có số lượng và khả năng lớn về kỹ nghệ và chế tạo (Đài Loan), Theo ông sự xung đột của các nền văn minh xảy ra ở hai tầng lớp. Ở tầng vi mô, các nhóm cạnh nhau dọc theo đường nứt đoạn giữa các nền văn minh sẽ tranh đấu, thường thì bạo động, để thống trị lãnh thổ và kiềm chế lẫn nhau. Ở tầng vĩ mô, các quốc gia từ các nền văn minh khác cạnh tranh về quân sự và kinh tế, tranh đấu để dành quyền kiểm soát các cơ cấu, tổ chức quốc tế, và cạnh tranh để đưa và nâng cao giá trị chính trị và tôn giáo của mình. Khi chiến tranh lạnh chấm dứt và bức màng sắt chia đôi ý thức hệ bị mất, thì đường nứt đoạn giữa các nền văn minh sẽ là biên giới mới. “Bức màng nhung” của văn hoá sẽ thay thế “bức màng sắt” của ý thức hê. Ông tiên đoán sẽ có sự xung đột giữa hai nền văn minh Hồi giáo và Tây phương. Trong lịch sử, sự xung đột giữa hai nền văn minh này đã trãi qua 1,300 năm cho đến nay, dọc theo đường nứt đoạn. Khả năng xung đột về quân sự có thể cao về tương lai. Như ta đã biết, chiến tranh vùng Vịnh đã làm cho một số người Ả Rập hản diện vì một mình Sađam Hussein đã dám đứng đối đầu với phương Tây và tấn công kẻ thù chung Do Thái. Ngay cả khi các nước Ả Rập đã sung túc, kinh tế và xã hội phát triển với tài nguyên dầu hỏa phong phú, và qua đó nền dân chủ sẽ và đang được tạo lập thay thế sự cai trị độc đoán phong kiến (một số nước hiện nay đã đi đến tình trạng này) thì những đoàn thể được lợi nhất là các phong trào Hồi giáo. Nói tóm lại, dân chủ phương Tây sẽ thực ra làm mạnh thêm những lực lượng chính trị chống phương Tây. (Suy luận này của Huntington hoàn toàn trái với Fukuyama. Fukuyama cho rằng dân chủ Tây phương sẽ bắt cội rễ và có ảnh hưởng lâu dài và thuận lợi cho nhân loại.) Sự liên hệ giữa Hồi giáo và phương Tây cũng rắc rối thêm vì dân số ở các nước Ả Rập tăng rất nhanh, đặc biệt là ở bắc Phi, đã dẫn đến làn di dân đến Tây Âu và đã gây căng thảng ở Pháp, Đức nơi mà sự phân biệt chủng tộc và bạo động chống người Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ đã lan rộng. Ở cả hai bên, sự giao tiếp của hai nền văn minh này được coi như là sự xung đột và cọ xát chứ không phải là hoà đồng học hỏi. M.J. Akbar, một tác giả ấn gốc Hồi giáo cho rằng sự trạm chán kế tiếp của phương Tây chắc chắn sẽ đến từ thế giới Hồi giáo. Nó sẽ đến từ một dãi vòng cung gồm các nước Hồi giáo trãi dài từ bắc Phi đến Pakistan, đứng đậy và bắt đầu tranh đấu cho một trật tự thế giới mới. Ngoài sự xung đột giữa thế giới Hồi giáo và Tây phương ở “biên giới Đông Tây”, còn có sự xung đột giữa Hồi giáo và Chính thống giáo cũng không kém quan trọng ở biên giới “Bắc Nam”. Cả lịch sử Nga đã gắn liền với sự tranh đấu giữa người Nga Slavs với các người Thổ ở khắp biên giới phía Nam. Và ta cũng không quên sự xung đột giữa Hồi giáo và ấn độ giáo hiện nay và tương lai có khả năng chiến tranh hạt nhân. Trong sự xung đột giữa các nền văn minh, ta thấy có “hiện tượng nước anh em” (the kin-country syndrome). Các nước gần gủi nhau về văn hóa, tôn giáo sẽ dễ liên đới và giúp đỡ lẫn nhau, dễ giải quyết các sự tranh chấp và trở thành đồng minh khi bị đe doạ: các nước Hồi giáo đã tích cực giúp đỡ người Hồi ở Bosnia. Và vì sao, văn minh phương Tây sẽ bị thách thức. Nhìn ở bề ngoài thì dường như văn hoá Tây phương đã xâm nhập trên khắp thế giới. Nhưng ở mức bậc cơ bản nhất, quan niệm Tây phương khác hẳn quan niệm sống ở các nền văn minh khác. Ý niệm của phương Tây về các nhân, tự do, hiến pháp, quyền con người, bình đẳng, theo luật, dân chủ, thị trường tự do, sự phân chia tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước, tất cả đều ít có “cộng hưởng” ở các văn hoá Hồi giáo, Khổng giáo, Nhật, ấn độ giáo, Phật giáo hay Chính thống giáo. Trong sự tranh đấu và xung đột giữa các nền văn minh, có vài nước ở trong trường hợp lường lự, vì các nước này có hai nền văn minh chi phối trong lịch sữ của chúng. Các nước này gọi là các nước “phân vân” (the torn-country), ở giữa và chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh. Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ và Nga là các thí dụ. Đối với Úc (Australia), thì đây là quốc gia cố gắng đi ngược lại để trở thành một nước “phân vân”. Mặc dầu Úc đã là một hội viên không những của nền văn minh phương Tây mà là một thành phần hạt nhân của quân sự, tình báo phương Tây, nhưng lãnh đạo lại muốn bỏ phương Tây và cố gắng tạo cho mình thành một nước châu Á để hoà đồng và có tương lai. Huntington cho rằng sự đi ngược lại như vậy sẽ không thực hiện được vì chưa có đủ các điều kiện. Sự xung đột tương lai giữa văn minh phương Tây và Hồi giáo-Trung Quốc, trục liên minh Trung Quốc – Hồi giáo sẽ là mối đe doạ lớn cho nền văn minh phương Tây về phương diện quyền lực, giá trị xã hội và nếp sống. Vì lý do văn hoá và tiền năng sức mạnh kinh tế, Trung Quốc và các nước Hồi giáo không muốn gia nhập vào phương Tây và cạnh tranh với phương Tây bằng cách sẽ tự phát triển tiềm lực kinh tế, quân sự và chính trị của mình. Trục liên minh văn minh Khổng giáo – Hồi giáo sẽ thách thức quyền lực và giá trị văn minh Tây phương trên khắp thế giới. Đây là một trong những viễn cảnh đáng ngại nhất về tương lai. Nhiều người cho rằng Huntington bi quan, bảo thủ chú ý nhiều về sự khác biệt giữa các xã hội văn hoá hơn là sự giống nhau và điểm tương đồng của các xã hô.i. Ông Seizaburo Sato trong bài phê bình Huntington, “Xung đột các nền văn minh: quan điểm của Nhật bản” (“Clash of civilizations: View from Japan”), đăng trong tạp chí “Asia Pacific Review” tháng 10, 1997 của Viện Nghiên cứu chính sách quốc tế” (“Institute for International Policy Studies”) cho là ý tưởng của Huntington có ảnh hưởng nguy hại và kêu gọi các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách của các nước Âu Tây gạt bỏ các tư tưởng của Huntington, nếu không tự nó sẽ làm và xảy ra đúng như sự tiên đoán trong tương lai nguy hiểm của thế giới Huntington. Một thế giới nếu không điều tiết đúng mức sẽ đưa đến chiến tranh thảm họa cho nhân loa.i. Edward Said trong bài “Sự xung đột của các ngu muội” (The clash of Ignorances), phê bình Huntington là bảo thủ, cực hữu, coi thường những nước kém phát triển và đề cao văn minh Âu Mỹ. Cũng không lạ gì khi Huntingtong đa số đã bị chỉ trích và phê bình bởi nhiều trí thức và học giả trên thế giới. Tôi cho rằng Huntington nói chung không phải bi quan về quan điểm mà là hiện thực khi đặt văn hoá vào trọng điểm trong sự tiến bộ của con người. Ông róng tiếng chuông kêu gọi chúng ta hảy cẩn thận khi theo đuổi lý tưởng, nếu không nó có thể trở thành ảo tưởng. Huntington quả thật đứng dưới nhản quan của phương Tây khi nhìn vào vấn đề. Ông đưa ra những luận điểm và các giải pháp chiến lược để giảm các cuộc xung đột ở tương lai và có lợi cho văn minh Âu Tây trong cuộc xung đột giữa các nền văn minh có thể xảy ra. Nhìn vào mặt tích cực, ông cũng đã đưa ra và đề nghị các biện pháp để chúng ta có thể tránh, giảm thiểu sự xung đột và nâng cao vai trò của văn hoá trong sự tiến bộ của các xã hội loài người. Ông đã khuyên ta hảy cảm thông về sự khác biệt trong sự nhận thức ở mỗi xã hội con người về giá trị nhân bản, luân lý, thẩm mỹ.. khác nhau theo các góc độ văn hoá khác nhau thay vì áp đặt theo một nhản quan nhất đi.nh. Không phải vì lý tưởng áp dụng thành công ở một số xã hội như Tây phương mà có thể đưa vào các xã hội có văn hoá truyền thống khác nếu không suy xét, tham khảo và có cùng với sự hợp tác của cộng đồng địa phương. Sau sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 không lâu, trong bài xã luận của tờ New York Times đã cho rằng ý tưởng của Fukuyama về “Sự chấm dứt của lịch sử” đã chấm dứt (The end of “the end of history”) và phê bình, chỉ trích về ảo tưởng này và cho rằng chính tư tưởng và suy luận của Huntington mới phản ảnh đúng thực tại. Ông Fukuyama đã trả lời bài xã luận này, ông cải chính là bài đã suy diễn không đúng về ý tưởng của sách “Sự chấm dứt của lịch sử”. Ông cho là sự kiện chỉ là một cản trở sẽ được vượt qua trên con đường sẽ đi đến điểm cuối của lịch sử mà không ai có thể cản trở đươ.c. Riêng tôi và chắc rằng hầu hết chúng ta đều mong muốn và hy vọng là xã hội, lịch sử con người sẽ tiến đến như Fukuyama tiên đoán. Nhưng đồng thời chúng ta phải cẩn thận, sáng suốt và ghi nhớ sự nhắc nhở, và thông điệp quan trọng quý giá của Huntington về vai trò của văn hoá trên sự phát triển của xã hội loài người. Nhưng những ý kiến và suy luận của Huntington có các khuyết điểm và cũng đặt ra nhiều câu hỏi. Văn hoá có thể học hỏi, trao đổi và du nhập lẫn nhau không nhất thiết phải có sự xung đột và giao chiến. Văn hoá cũng tiến hoá và sau này có thể hoà nhập lẫn nhau để tạo thành một nền văn hoá nhân bản “phổ quát” (universal). Có thể có một nền văn hoá mới “phổ quát” hoàn cầu sẽ được thành lập trong thời đại mới mà không phải trải qua các xung đột hay chiến tranh như xưa trong lịch sử hay không?. (Naipaul, nhà văn Anh gốc ấn độ giáo với giải Nobel 2001, trong bài “Our Universal Civilization”, đã cho rằng văn minh phương Tây là hạt nhân phục vụ sự tiến bộ của khoa học, lý trí con người trên niềm tin tôn giáo là hạt nhân để thành lập văn minh phổ quát toàn vũ cho nhân loại) Trước đây các nền văn minh, văn hoá truyền thống trên thế giới ta biết ngày nay, cũng đã được tạo ra và truyền bá trên những vùng khác nhau trên thế giới. Lịch sử cho thấy trong những quá trình này đã có những xung đột, chiến tranh xảy ra và văn hoá trội nổi là văn hoá của những người chiến thắng. Tuy vậy cũng có những sự du nhập, truyền bá, phát triển văn hoá không qua chiến tranh, xâm lươ.c. Phật giáo truyền qua Việt nam và Đông Nam Á và đã làm giàu cho nền văn hoá bản sứ chứ không đối nghịch. Nền văn minh khoa học phương Tây cũng đã thu nhập kiến thức và phương pháp từ văn minh Hồi giáo ở các thế kỳ 13-15 và từ đó đã có thời kỳ Phục Hưng. Văn minh phương Tây có được hiện nay cũng nhờ một phần vào sự cống hiến quý báu của văn minh Hồi giáo. Giả sử là văn minh Tây phương trong tương lai sẽ không còn là văn minh trội hẵn và còn ảnh hưởng trên thế giới, thì ta tự đặt câu hỏi là nền văn minh nào sẽ nên là nền văn minh trội, có ảnh hưởng và lợi cho thế giới loài người?. Văn minh Hồi giáo, Trung Quốc hay Phật giáo?. Hay ta sẽ và nên có một nền văn minh mới “hoàn vũ” như Naipaul đã gọi, cho nhân loại ?. Đây chỉ là một vài câu hỏi chưa được trả lời từ luận thuyết của Huntington. Quan điểm và suy luận của Huntington cũng có nguy cơ là sẽ bị lợi dụng và dùng bởi một số người ở các dân tộc là họ sẽ coi người dân từ văn minh khác dưới cặp mắt nghi ngại và “rập theo khuôn mẫu đúc sẳn”, thay vì theo từng tính chất của mổi cá thể. Mỗi nền văn minh đều có những phần tử xấu, ít học bảo thủ tôn giáo giáo điều. Sự đấu tranh giữa lý trí, cái tốt và ngu muội, giáo điều, cái xấu đều đã và đang diễn ra trong mỗi nền văn minh. Văn minh phương Tây đã trãi qua sự u tối trong nhiều thế kỹ trước khi lực lượng tôn giáo giáo điều bảo thủ bị đánh lùi và thành thiểu số như hiện nay. Umberto Eco, trong bài “Nguyên nhân của sự xung đột “ (“The roots of conflicts”) cho ta thấy nền văn minh phương Tây cũng đã bị tôn giáo giáo điều bảo thủ kiềm chế trong suốt bao thế kỷ. Umberto Eco kêu gọi người phương Tây và mọi chúng ta hãy rộng lượng và hiểu biết là lực lượng giáo điều bảo thủ ở văn minh Hồi giáo hiện đang trội nổi trong sự đấu tranh giữa giáo điều, bạo lực và lý trí, ôn hoà. Nhưng sau này chúng sẽ bị đánh bại bởi lý trí và nhân đức. Chúng ta vì thế phải không ác cảm và giúp làm sao cái tốt và lý trí sẽ vượt qua và thắng thế trong nội bộ văn minh Hồi giáo bằng sự rộng lượng và hiểu biết của mình. Hiểu biết về những cái tốt ở văn minh Hồi giáo và tin tưởng rằng lý trí và nhân đức sẽ thắng thế cũng như văn minh phương Tây đã đấu tranh và vượt qua được ở các thế kỹ trước. Thời gian sẽ chứng minh điều này. Và xã hội loài người sẽ giàu thêm trong thế giới đa văn minh, văn hoá.
File đính kèm:
- van_hoa_trong_tien_trinh_lich_su_con_nguoi.pdf