Văn hoá trong tiến trình lịch sử con người

Tóm tắt Văn hoá trong tiến trình lịch sử con người: ...ợp văn minh Tây phương, Mỹ Latin và Ả Rập, hoặc chỉ gồm có một nước như văn minh Nhật Bản. Văn minh dĩ nhiên hoà hợp và giao tác và có thể có các nhánh nhỏ. Văn minh Tây Phương có hai nhánh chính: Âu châu và Bắc Mỹ và văn minh Hồi giáo có các nhánh Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, và Mã Lai. Tuy thế văn m...nh giàu, nhưng người Nga không thể trở thành người Estonia và người Azeris không thể trở thành người Armenia. Trong sự xung đột về giai cấp và ý thức hệ, câu hỏi then chốt là “Anh theo bên nào?” và người ta có thể chọn và đổi bên. Trong cuộc xung đột giữa các nền văn minh, câu hỏi then chốt là...háp, quyền con người, bình đẳng, theo luật, dân chủ, thị trường tự do, sự phân chia tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước, tất cả đều ít có “cộng hưởng” ở các văn hoá Hồi giáo, Khổng giáo, Nhật, ấn độ giáo, Phật giáo hay Chính thống giáo. Trong sự tranh đấu và xung đột giữa các nền văn minh, c...

pdf15 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Văn hoá trong tiến trình lịch sử con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á mà con 
người có để phân biệt con người với các sinh vật khác. Văn minh được định nghĩa 
bởi những thành phần khách quan cùng chung với nhau như ngôn ngữ, lịch sử, tôn 
giáo, phong tục, cơ sở cơ chế, và bởi sự nhận thức, tự nhận diện chủ quan chung 
của người dân. 
Một nền văn minh có thể gồm vài nước, như trường hợp văn minh Tây 
phương, Mỹ Latin và Ả Rập, hoặc chỉ gồm có một nước như văn minh Nhật Bản. 
Văn minh dĩ nhiên hoà hợp và giao tác và có thể có các nhánh nhỏ. Văn minh Tây 
Phương có hai nhánh chính: Âu châu và Bắc Mỹ và văn minh Hồi giáo có các 
nhánh Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, và Mã Lai. Tuy thế văn minh là những thực thể có ý 
nghĩa, và mặc dầu lằn chia cách chúng rất ít khi thấy rõ, nhưng chúng có thật và 
hiện hưũ. 
Theo Huntington, sau đây là các lý do chính vì sao sẽ có xung đột giữa các 
nền văn minh 
“Vận mệnh thế giới sẽ được tạo ra phần lớn từ các sự liên tác động của 7 hoặc 
8 nền văn minh chính. Những nền văn minh này gồm văn minh Tây phương, 
Khổng giáo, Nhật, Hồi giáo, ấn độ giáo, Chính thống giáo, Mỹ Latin và có thể văn 
minh Phi châu. Những cuộc xung đột quan trọng nhất về tương lai sẽ xảy ra dọc 
theo các đường nứt đoạn (fault lines) văn hoá ngăn chia những nền văn minh này 
trên thế giới. 
Tại sao như vậy? 
Thứ nhất, sự khác biệt giữa các nền văn minh thực là cơ bản. Văn minh khác 
lẫn nhau từ lịch sử, ngôn ngữ, văn hoá, truyền thống và quan trọng nhất là tôn giáo. 
Con người ở các nền văn minh có các quan điểm khác nhau về sự liên hệ giữa 
đấng tối cao và con người, giữa cá nhân và tập thể, giữa công dân và nhà nước, 
giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ, cũng nhự quan điểm khác nhau về sự 
quan trọng tương đối giữa quyền hạn và bổn phận trách nhiệm, tự do và quyền thế, 
bình đẳng và giai cấp. Những sự khác biệt này là sản phẩm của bao thế kỷ. Chúng 
sẽ không biến mất nhanh chóng. Chúng thật là cơ bản hơn là sự khác nhau giữa 
các ý thức hệ chính trị hay các chế độ chính trị. Sự khác biệt không thiết yếu nghĩa 
là có xung đột và xung đột không thiết yếu là bạo đô.ng. Qua các thế kỹ, tuy thế, 
sự khác biệt giữa các văn minh đã gây ra những cuộc xung đột bạo động và kéo 
dài nhất trong lịch sử. 
Thứ hai, thế giới hiện nay đang trở nên nhỏ dần. Sự liên tác giữa các các dân 
từ các nền văn minh khác nhau sẽ càng ngày càng tăng lên; và những sự liên tác 
càng nhiều này sẽ làm mọi người ý thức về các nền văn minh, văn hoá và nhận 
thức ra về các sự khác nhau giữa các nền văn minh và các điểm chung trong cùng 
một nền văn minh. Thí dụ, sự di dân của người bắc Phi vào Pháp đã gây ra các sự 
chống đối thù hằn từ người Pháp nhưng đồng thời lại chấp nhận có thiện cảm từ sự 
di dân của những người Công giáo Ba Lan. Người Mỹ phản ứng không thiện cảm 
về đầu tư của người Nhật nhiều hơn là đầu tư từ Canada và các nước Âu châu. 
Cũng vậy như Donal Horowitz đã chỉ rõ “Một người Ibo có thể được phân biệt và 
gọi là là người Owerri Ibo hay Onitsha Ibo ở vùng Đông Nigeria. ở Lagos, ông ta 
chỉ coi là người Ibo. ở Luân Đôn, thì ông ta là người Nigeria. Còn ở New York, thì 
ông chỉ được biết là người Phi châu”. Sự liên tác của các dân từ các văn minh khác 
nhau sẽ làm tăng lên sự nhân thức về văn hoá của họ và từ đó làm tăng lêm sự 
khác nhau và khó chịu, thù hằn đã có từ xưa trong lịch sử. 
Thứ ba, tiến trình canh tân kinh tế và thay dổi trong xã hội với viễn cảnh của 
toàn cầu hoá đã làm người dân mất dần đi cái đặc tính và tính chất thực thể của địa 
phương và làm yếu đi vai trò của quốc gia trong sự tự nhận diện về đặc tính, đặc 
thù của cá thể. Vì thế ở nhiều nơi trên thế giới, tôn giáo đã điền vào khoảng trống 
này, dưới dạng các phong trào tôn giáo giáo điều trở về nguồn (fundamentalist). 
Những phong trào này đã xuất hiện ở Ki Tô giáo, Đạo Do thái, Phật giáo, ấn độ 
giáo cũng như Hồi giáo. Đa số những người tham gia trong các phong trào này là 
trẻ, có học và thuộc tầng lớp trung lưu. Sự hồi sinh của tôn giáo ở thời đại mới, “la 
revanche de Dieu”, như Gilles Kepel đã mô tả, cung cấp được một nền tảng cho 
phép sự tự nhận diện và hiện hữu của một cá thể hay một tập thể và sự tham gia 
vượt qua khỏi biên giới quốc và thống nhất các nền văn minh. 
Thứ tư, sự lớn mạnh của nhận thức về văn hoá ở người dân được tăng thêm 
bởi vai trò lưỡng đôi của thế giới Tây phương. Về một mặt, phương Tây đang ở 
cao điểm của quyền lư.c. Tuy vậy, trong cùng thời điểm, và có thể cũng vì vậy mà 
có hiện tượng trở về nguồn đã xảy ra ở các nền văn minh khác. Chúng ta càng 
ngày nghe nói về khuynh hướng hướng nội về “Á châu hoá” ở Nhật Bản, sự chấm 
dứt của di sản Nehru và sự “ấn độ giáo hoá” ở ấn Độ, sự thất bại của ý thực hệ Tây 
phương về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa quốc gia và vì thế sự hồi sinh của “Hồi 
giáo hoá” ở Trung Đông, và nay thì tranh cải giữa “Tây phương hoá” hay “Nga 
hoá” ở xứ sở của Boris Yelsin. Phương Tây ở điểm cao của quyền lực đối diện với 
các xã hội khác càng ngày có ý muốn, ý chí và khả năng tài nguyên để lèo lái và 
thiết lập một thế giới mới theo kiểu và cách khác với phương Tây. 
Trong quá khứ, những người quyền thế ở các xã hội ngoài phương Tây thường 
là người có liên hệ với phương Tây nhiều nhất, đã được giáo dục ở Oxford, 
Sorbonne hay Sandhurst, và đã hấp thụ thái độ và giá trị của văn hoá Tây phương. 
Trong cùng thời gian thì dân chúng ở các xã hội này thường thì vẫn còn giữ, bảo 
tồn và sống theo văn hoá bản sứ. Nay thì trái lại ở thời đại toàn cầu hoá, thì lại trái 
ngược. “Bản điạ hoá” ở tầng lớp cao, có học và quyền thế đang xảy ra trong khi dó 
thì văn hoá phương Tây (nhất là Mỹ), với lối sống, phong tục, cách ăn mặc đã trở 
thành phổ thông ở tầng lớp dân chúng. 
Thứ năm, đặc tính văn hoá và các sự khác biệt rất khó thay đổi và vì thế khó 
dung hoà và giải quyết hơn là sự khác biệt về kinh tế hay chính trị. ở Liên bang Sô 
Viết cũ, người cộng sản có thể thành người dân chủ, người giàu trở thành nghèo 
và người nghèo trở thành giàu, nhưng người Nga không thể trở thành người 
Estonia và người Azeris không thể trở thành người Armenia. Trong sự xung đột về 
giai cấp và ý thức hệ, câu hỏi then chốt là “Anh theo bên nào?” và người ta có thể 
chọn và đổi bên. Trong cuộc xung đột giữa các nền văn minh, câu hỏi then chốt là 
“Anh là ai?”, là ai là cái đã được cho và không thể thay đổi được. Như ta biết từ 
Bosnia, đến vùng Caucasus, Sudan, câu trả lời sai có thể dẫn đến một viên đạn vào 
đầu. Hơn cả dân tộc và chủng tộc, tôn giáo phân biệt rõ ràng và riêng biệt giữa con 
người. Một người có thể là nữa Pháp, nữa Ả Rập và đồng thời là công dân của hai 
nước. Nhưng rất khó để người đó là nữa Công giáo và nữa Hồi giáo. 
Và sau cùng, sự thành lập các khối kinh tế trong các khu vực càng nhiều. Tổng 
số số lượng thương mãi trong cùng khối kinh tế trong vùng tăng lên trong năm 
1980 đến 1989, từ 51% lên 59% ở Âu châu, từ 33% lên 37% ở Đông Á, và từ 32% 
lên 36% ở Bắc Mỹ. Sự quan trọng của các khối kinh tế khu vực sẽ càng ngày càng 
tăng trong tương lai. Về một mặt, sự thành công của các khối kinh tế khu vực sẽ 
làm tăng ý thức về văn hoá, văn minh chung. Về mặt khác, kinh tế khu vực chỉ có 
thể thành công khi nó có gốc là cùng chung một nền văn minh. Cộng đồng chung 
Âu châu dựa vào cơ bản chung của văn hoá Âu châu và đạo Ki-tô. 
Năm lý do trên là cốt lỏi của học thuyết Huntington. Lý do sau cùng về kinh tế 
và về phương diện này, ông cũng không khác Kotkin. Thí dụ về sự xuất hiện của 
cường quốc kinh tế Trung Quốc, cũng như Kotkin, ông cho rằng 
“Cùng chung văn hoá, trái lại làm thuận lợi sự mở rộng nhanh chóng về quan 
hệ kinh tế giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Hồng Kông, Đài Loan, 
Singapore và các cộng đồng Hoa kiều ở các nước Á châu khác. Nếu cùng chung 
văn hoá là tiên quyết cho sự hội nhập kinh tế thì khối kinh tế chính ở Đông Á về 
tương lai là sẽ có trọng điểm ở Trung Quốc. Khối kinh tế này, thực ra, thì đã có và 
tồn tại rồi. 
Mặc dầu hiện nay Nhật bản đang đứng đầu trong vùng, nhưng khối kinh tế của 
người Hoa ở Á châu đã nhanh chóng trở thành một trọng điểm mới về kỹ nghệ, 
thương mại và tài chính. Vùng chiến lược này có số lượng và khả năng lớn về kỹ 
nghệ và chế tạo (Đài Loan), 
Theo ông sự xung đột của các nền văn minh xảy ra ở hai tầng lớp. Ở tầng vi 
mô, các nhóm cạnh nhau dọc theo đường nứt đoạn giữa các nền văn minh sẽ tranh 
đấu, thường thì bạo động, để thống trị lãnh thổ và kiềm chế lẫn nhau. Ở tầng vĩ mô, 
các quốc gia từ các nền văn minh khác cạnh tranh về quân sự và kinh tế, tranh đấu 
để dành quyền kiểm soát các cơ cấu, tổ chức quốc tế, và cạnh tranh để đưa và nâng 
cao giá trị chính trị và tôn giáo của mình. 
Khi chiến tranh lạnh chấm dứt và bức màng sắt chia đôi ý thức hệ bị mất, thì 
đường nứt đoạn giữa các nền văn minh sẽ là biên giới mới. “Bức màng nhung” của 
văn hoá sẽ thay thế “bức màng sắt” của ý thức hê. Ông tiên đoán sẽ có sự xung đột 
giữa hai nền văn minh Hồi giáo và Tây phương. 
Trong lịch sử, sự xung đột giữa hai nền văn minh này đã trãi qua 1,300 năm 
cho đến nay, dọc theo đường nứt đoạn. Khả năng xung đột về quân sự có thể cao 
về tương lai. Như ta đã biết, chiến tranh vùng Vịnh đã làm cho một số người Ả 
Rập hản diện vì một mình Sađam Hussein đã dám đứng đối đầu với phương Tây 
và tấn công kẻ thù chung Do Thái. 
Ngay cả khi các nước Ả Rập đã sung túc, kinh tế và xã hội phát triển với tài 
nguyên dầu hỏa phong phú, và qua đó nền dân chủ sẽ và đang được tạo lập thay 
thế sự cai trị độc đoán phong kiến (một số nước hiện nay đã đi đến tình trạng này) 
thì những đoàn thể được lợi nhất là các phong trào Hồi giáo. Nói tóm lại, dân chủ 
phương Tây sẽ thực ra làm mạnh thêm những lực lượng chính trị chống phương 
Tây. (Suy luận này của Huntington hoàn toàn trái với Fukuyama. Fukuyama cho 
rằng dân chủ Tây phương sẽ bắt cội rễ và có ảnh hưởng lâu dài và thuận lợi cho 
nhân loại.) 
Sự liên hệ giữa Hồi giáo và phương Tây cũng rắc rối thêm vì dân số ở các 
nước Ả Rập tăng rất nhanh, đặc biệt là ở bắc Phi, đã dẫn đến làn di dân đến Tây 
Âu và đã gây căng thảng ở Pháp, Đức nơi mà sự phân biệt chủng tộc và bạo động 
chống người Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ đã lan rộng. 
Ở cả hai bên, sự giao tiếp của hai nền văn minh này được coi như là sự xung 
đột và cọ xát chứ không phải là hoà đồng học hỏi. M.J. Akbar, một tác giả ấn gốc 
Hồi giáo cho rằng sự trạm chán kế tiếp của phương Tây chắc chắn sẽ đến từ thế 
giới Hồi giáo. Nó sẽ đến từ một dãi vòng cung gồm các nước Hồi giáo trãi dài từ 
bắc Phi đến Pakistan, đứng đậy và bắt đầu tranh đấu cho một trật tự thế giới mới. 
Ngoài sự xung đột giữa thế giới Hồi giáo và Tây phương ở “biên giới Đông 
Tây”, còn có sự xung đột giữa Hồi giáo và Chính thống giáo cũng không kém 
quan trọng ở biên giới “Bắc Nam”. Cả lịch sử Nga đã gắn liền với sự tranh đấu 
giữa người Nga Slavs với các người Thổ ở khắp biên giới phía Nam. Và ta cũng 
không quên sự xung đột giữa Hồi giáo và ấn độ giáo hiện nay và tương lai có khả 
năng chiến tranh hạt nhân. 
Trong sự xung đột giữa các nền văn minh, ta thấy có “hiện tượng nước anh 
em” (the kin-country syndrome). Các nước gần gủi nhau về văn hóa, tôn giáo sẽ 
dễ liên đới và giúp đỡ lẫn nhau, dễ giải quyết các sự tranh chấp và trở thành đồng 
minh khi bị đe doạ: các nước Hồi giáo đã tích cực giúp đỡ người Hồi ở Bosnia. 
Và vì sao, văn minh phương Tây sẽ bị thách thức. Nhìn ở bề ngoài thì dường 
như văn hoá Tây phương đã xâm nhập trên khắp thế giới. Nhưng ở mức bậc cơ 
bản nhất, quan niệm Tây phương khác hẳn quan niệm sống ở các nền văn minh 
khác. Ý niệm của phương Tây về các nhân, tự do, hiến pháp, quyền con người, 
bình đẳng, theo luật, dân chủ, thị trường tự do, sự phân chia tách biệt giữa tôn giáo 
và nhà nước, tất cả đều ít có “cộng hưởng” ở các văn hoá Hồi giáo, Khổng giáo, 
Nhật, ấn độ giáo, Phật giáo hay Chính thống giáo. 
Trong sự tranh đấu và xung đột giữa các nền văn minh, có vài nước ở trong 
trường hợp lường lự, vì các nước này có hai nền văn minh chi phối trong lịch sữ 
của chúng. Các nước này gọi là các nước “phân vân” (the torn-country), ở giữa và 
chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh. Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ và Nga là các thí dụ. 
Đối với Úc (Australia), thì đây là quốc gia cố gắng đi ngược lại để trở thành 
một nước “phân vân”. Mặc dầu Úc đã là một hội viên không những của nền văn 
minh phương Tây mà là một thành phần hạt nhân của quân sự, tình báo phương 
Tây, nhưng lãnh đạo lại muốn bỏ phương Tây và cố gắng tạo cho mình thành một 
nước châu Á để hoà đồng và có tương lai. Huntington cho rằng sự đi ngược lại 
như vậy sẽ không thực hiện được vì chưa có đủ các điều kiện. 
Sự xung đột tương lai giữa văn minh phương Tây và Hồi giáo-Trung Quốc, 
trục liên minh Trung Quốc – Hồi giáo sẽ là mối đe doạ lớn cho nền văn minh 
phương Tây về phương diện quyền lực, giá trị xã hội và nếp sống. Vì lý do văn 
hoá và tiền năng sức mạnh kinh tế, Trung Quốc và các nước Hồi giáo không muốn 
gia nhập vào phương Tây và cạnh tranh với phương Tây bằng cách sẽ tự phát triển 
tiềm lực kinh tế, quân sự và chính trị của mình. Trục liên minh văn minh Khổng 
giáo – Hồi giáo sẽ thách thức quyền lực và giá trị văn minh Tây phương trên khắp 
thế giới. Đây là một trong những viễn cảnh đáng ngại nhất về tương lai. 
Nhiều người cho rằng Huntington bi quan, bảo thủ chú ý nhiều về sự khác biệt 
giữa các xã hội văn hoá hơn là sự giống nhau và điểm tương đồng của các xã hô.i. 
Ông Seizaburo Sato trong bài phê bình Huntington, “Xung đột các nền văn minh: 
quan điểm của Nhật bản” (“Clash of civilizations: View from Japan”), đăng trong 
tạp chí “Asia Pacific Review” tháng 10, 1997 của Viện Nghiên cứu chính sách 
quốc tế” (“Institute for International Policy Studies”) cho là ý tưởng của 
Huntington có ảnh hưởng nguy hại và kêu gọi các nhà lãnh đạo và hoạch định 
chính sách của các nước Âu Tây gạt bỏ các tư tưởng của Huntington, nếu không tự 
nó sẽ làm và xảy ra đúng như sự tiên đoán trong tương lai nguy hiểm của thế giới 
Huntington. Một thế giới nếu không điều tiết đúng mức sẽ đưa đến chiến tranh 
thảm họa cho nhân loa.i. 
Edward Said trong bài “Sự xung đột của các ngu muội” (The clash of 
Ignorances), phê bình Huntington là bảo thủ, cực hữu, coi thường những nước 
kém phát triển và đề cao văn minh Âu Mỹ. 
Cũng không lạ gì khi Huntingtong đa số đã bị chỉ trích và phê bình bởi nhiều 
trí thức và học giả trên thế giới. Tôi cho rằng Huntington nói chung không phải bi 
quan về quan điểm mà là hiện thực khi đặt văn hoá vào trọng điểm trong sự tiến 
bộ của con người. Ông róng tiếng chuông kêu gọi chúng ta hảy cẩn thận khi theo 
đuổi lý tưởng, nếu không nó có thể trở thành ảo tưởng. Huntington quả thật đứng 
dưới nhản quan của phương Tây khi nhìn vào vấn đề. Ông đưa ra những luận điểm 
và các giải pháp chiến lược để giảm các cuộc xung đột ở tương lai và có lợi cho 
văn minh Âu Tây trong cuộc xung đột giữa các nền văn minh có thể xảy ra. 
Nhìn vào mặt tích cực, ông cũng đã đưa ra và đề nghị các biện pháp để chúng 
ta có thể tránh, giảm thiểu sự xung đột và nâng cao vai trò của văn hoá trong sự 
tiến bộ của các xã hội loài người. Ông đã khuyên ta hảy cảm thông về sự khác biệt 
trong sự nhận thức ở mỗi xã hội con người về giá trị nhân bản, luân lý, thẩm mỹ.. 
khác nhau theo các góc độ văn hoá khác nhau thay vì áp đặt theo một nhản quan 
nhất đi.nh. Không phải vì lý tưởng áp dụng thành công ở một số xã hội như Tây 
phương mà có thể đưa vào các xã hội có văn hoá truyền thống khác nếu không suy 
xét, tham khảo và có cùng với sự hợp tác của cộng đồng địa phương. 
Sau sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 không lâu, trong bài xã luận của tờ New 
York Times đã cho rằng ý tưởng của Fukuyama về “Sự chấm dứt của lịch sử” đã 
chấm dứt (The end of “the end of history”) và phê bình, chỉ trích về ảo tưởng này 
và cho rằng chính tư tưởng và suy luận của Huntington mới phản ảnh đúng thực 
tại. 
Ông Fukuyama đã trả lời bài xã luận này, ông cải chính là bài đã suy diễn 
không đúng về ý tưởng của sách “Sự chấm dứt của lịch sử”. Ông cho là sự kiện 
chỉ là một cản trở sẽ được vượt qua trên con đường sẽ đi đến điểm cuối của lịch sử 
mà không ai có thể cản trở đươ.c. 
Riêng tôi và chắc rằng hầu hết chúng ta đều mong muốn và hy vọng là xã hội, 
lịch sử con người sẽ tiến đến như Fukuyama tiên đoán. Nhưng đồng thời chúng ta 
phải cẩn thận, sáng suốt và ghi nhớ sự nhắc nhở, và thông điệp quan trọng quý giá 
của Huntington về vai trò của văn hoá trên sự phát triển của xã hội loài người. 
Nhưng những ý kiến và suy luận của Huntington có các khuyết điểm và cũng 
đặt ra nhiều câu hỏi. Văn hoá có thể học hỏi, trao đổi và du nhập lẫn nhau không 
nhất thiết phải có sự xung đột và giao chiến. Văn hoá cũng tiến hoá và sau này có 
thể hoà nhập lẫn nhau để tạo thành một nền văn hoá nhân bản “phổ quát” 
(universal). Có thể có một nền văn hoá mới “phổ quát” hoàn cầu sẽ được thành lập 
trong thời đại mới mà không phải trải qua các xung đột hay chiến tranh như xưa 
trong lịch sử hay không?. (Naipaul, nhà văn Anh gốc ấn độ giáo với giải Nobel 
2001, trong bài “Our Universal Civilization”, đã cho rằng văn minh phương Tây là 
hạt nhân phục vụ sự tiến bộ của khoa học, lý trí con người trên niềm tin tôn giáo là 
hạt nhân để thành lập văn minh phổ quát toàn vũ cho nhân loại) 
Trước đây các nền văn minh, văn hoá truyền thống trên thế giới ta biết ngày 
nay, cũng đã được tạo ra và truyền bá trên những vùng khác nhau trên thế giới. 
Lịch sử cho thấy trong những quá trình này đã có những xung đột, chiến tranh xảy 
ra và văn hoá trội nổi là văn hoá của những người chiến thắng. Tuy vậy cũng có 
những sự du nhập, truyền bá, phát triển văn hoá không qua chiến tranh, xâm lươ.c. 
Phật giáo truyền qua Việt nam và Đông Nam Á và đã làm giàu cho nền văn hoá 
bản sứ chứ không đối nghịch. Nền văn minh khoa học phương Tây cũng đã thu 
nhập kiến thức và phương pháp từ văn minh Hồi giáo ở các thế kỳ 13-15 và từ đó 
đã có thời kỳ Phục Hưng. Văn minh phương Tây có được hiện nay cũng nhờ một 
phần vào sự cống hiến quý báu của văn minh Hồi giáo. 
Giả sử là văn minh Tây phương trong tương lai sẽ không còn là văn minh trội 
hẵn và còn ảnh hưởng trên thế giới, thì ta tự đặt câu hỏi là nền văn minh nào sẽ 
nên là nền văn minh trội, có ảnh hưởng và lợi cho thế giới loài người?. Văn minh 
Hồi giáo, Trung Quốc hay Phật giáo?. Hay ta sẽ và nên có một nền văn minh mới 
“hoàn vũ” như Naipaul đã gọi, cho nhân loại ?. Đây chỉ là một vài câu hỏi chưa 
được trả lời từ luận thuyết của Huntington. 
Quan điểm và suy luận của Huntington cũng có nguy cơ là sẽ bị lợi dụng và 
dùng bởi một số người ở các dân tộc là họ sẽ coi người dân từ văn minh khác dưới 
cặp mắt nghi ngại và “rập theo khuôn mẫu đúc sẳn”, thay vì theo từng tính chất 
của mổi cá thể. Mỗi nền văn minh đều có những phần tử xấu, ít học bảo thủ tôn 
giáo giáo điều. Sự đấu tranh giữa lý trí, cái tốt và ngu muội, giáo điều, cái xấu đều 
đã và đang diễn ra trong mỗi nền văn minh. Văn minh phương Tây đã trãi qua sự u 
tối trong nhiều thế kỹ trước khi lực lượng tôn giáo giáo điều bảo thủ bị đánh lùi và 
thành thiểu số như hiện nay. 
Umberto Eco, trong bài “Nguyên nhân của sự xung đột “ (“The roots of 
conflicts”) cho ta thấy nền văn minh phương Tây cũng đã bị tôn giáo giáo điều bảo 
thủ kiềm chế trong suốt bao thế kỷ. Umberto Eco kêu gọi người phương Tây và 
mọi chúng ta hãy rộng lượng và hiểu biết là lực lượng giáo điều bảo thủ ở văn 
minh Hồi giáo hiện đang trội nổi trong sự đấu tranh giữa giáo điều, bạo lực và lý 
trí, ôn hoà. Nhưng sau này chúng sẽ bị đánh bại bởi lý trí và nhân đức. 
Chúng ta vì thế phải không ác cảm và giúp làm sao cái tốt và lý trí sẽ vượt qua 
và thắng thế trong nội bộ văn minh Hồi giáo bằng sự rộng lượng và hiểu biết của 
mình. Hiểu biết về những cái tốt ở văn minh Hồi giáo và tin tưởng rằng lý trí và 
nhân đức sẽ thắng thế cũng như văn minh phương Tây đã đấu tranh và vượt qua 
được ở các thế kỹ trước. Thời gian sẽ chứng minh điều này. Và xã hội loài người 
sẽ giàu thêm trong thế giới đa văn minh, văn hoá. 

File đính kèm:

  • pdfvan_hoa_trong_tien_trinh_lich_su_con_nguoi.pdf