Ðặc điểm nội dung và nghệ thuật kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại
Tóm tắt Ðặc điểm nội dung và nghệ thuật kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại: ... Hữu ðản và Nỏ thần của Lờ Duy Hạnh. Ở cả hai tỏc phẩm ủại diện cho chớnh nghĩa ủều khụng giành thắng lợi trước ủại diện phi nghĩa. Tuy nhiờn, dựa trờn cơ sở hai bi kịch của lịch sử dõn tộc, Hoàng Hữu ðản và Lờ Duy Hạnh ủó cú cỏch xử lý riờng ủể tỏc phẩm mang ủến một thụng ủiệp khỏc với ...o nhõn vật bộc lộ bản chất của mỡnh và tạo nờn tớnh hấp dẫn người xem. Nguyờn tắc khi sử dụng hai loại sự kiện này là phải ủảm bảo tớnh liền mạch và logic, ủặt trong diễn tiến tõm lý nhõn vật và sự phỏt triển của hệ thống sự kiện của cốt truyện. Sự xuất hiện của sự kiện bất ngờ ở phần ca...ậu khụng phải là cặp nhõn vật ủối lập về tớnh cỏch mà theo hướng nhõn quả. Hành ủộng của nhõn vật người mẹ tạo nờn tớnh cỏch cho người con. Sự nuụng chiều của nhõn vật người mẹ ủó gúp phần làm cho con mỡnh hư hỏng và ủẩy chớnh mỡnh vào bi kịch khi cựng lỳc mất cả hai người con. Kịch bản ...
m bộ trong giai đoạn xây dựng, phát triển và hội nhập của đất nước ở đủ mọi thành phần xã hội. Trong số đĩ, những nhân vật bình dân chiếm được nhiều tình cảm của cơng chúng. Những hình tượng nhân vật này kết tinh trong mình tính cách truyền thống của người Nam bộ như nặng tình với quê hương như ơng Tư trong Dạ cổ Hồi Lang (Thanh Hồng), Tư Hào trong Biển (Lê Duy Hạnh), trọng nhân nghĩa như Sáu Yên trong ðất lở (Ngọc Linh), thủy chung như Tư xích lơ trong Trầu Cau (Thanh Hồng), nghĩa hiệp như Việt trong Trái tim nhảy múa (Nguyễn Thị Minh Ngọc) Hình tượng nhân vật lịch sử xuất hiện trong các tác phẩm như Bí mật vườn Lệ Chi, Nỏ thần, Vương Thánh Triều Lê, Tả quân Lê Văn Duyệt. Riêng kịch bản Người đàn bà thất lạc của Nguyễn Thị Minh TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 19, SỐ X1-2016 Trang 105 Ngọc là một hiện tượng xây dựng nhân vật độc đáo của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại khi tác giả cho nhân vật lịch sử đồng hiện và đối thoại với nhân vật đương thời. Ở gĩc độ kiểu nhân vật, kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh phổ biến với kiểu nhân vật tính cách, được xây dựng theo nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực. Ngồi ra, kịch nĩi thành phố bước đầu cĩ những kịch bản văn học xây dựng nhân vật biểu trưng, biểu tượng. Trong xây dựng nhân vật, các tác giả thường xây dựng hai tuyến nhân vật chính đại diện cho hai tuyến xung đột giữa thiện-ác, tích cực-tiêu cực, tiến bộ-lạc hậu Hành động của nhân vật do tính cách nhân vật quyết định. Hành động nhân vật tạo thành một chuỗi sự kiện-hành động của cốt truyện, mang tính chất nhân quả, thúc đẩy hành động kịch vận động. Cách thức thể hiện tính cách nhân vật theo cơng thức phổ biến là sự kiện-hành động và ngơn ngữ nhân vật. Tính cách của nhân vật cịn thể hiện thơng qua ngơn ngữ của chính nhân vật đĩ hoặc qua miêu tả của một nhân vật khác, đồng thời thơng qua việc mở rộng các thủ pháp miêu tả nội tâm nhân vật như phân thân, giấc mơ, đồng hiện. Những tính cách nhân vật được xây dựng sắc sảo, đậm nét thường trong các kịch bản thuộc phạm vi đề tài lịch sử hoặc những kịch bản được chuyển thể từ tác phẩm văn học. Tiêu biểu như tích cách chính trực, yêu nước thương dân của nhân vật Nguyễn Trãi đối lập với tính cách xu nịnh, gian xảo của nhân vật thái giám Tạ Thanh hay tích cách vị kỷ của nhân vật hồng hậu Nguyễn Thị Anh trong Bí mật vườn Lệ Chi của Hồng Hữu ðản, tính cách cương trực và đề cao cảnh giác của Cao Thục đối lập với tích cách nham hiểm của nhân vật Nhan Tấn và tích cách chủ quan, hưởng lạc của nhân vật An Dương Vương trong Nỏ thần của Lê Duy Hạnh; tính cách lưu manh của Xuân trong Số đỏ của Lê Chí Trung chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Sở dĩ tính cách nhân vật trong các kịch bản này đậm nét vì bản thân các nhân vật này đã là những nhân vật cĩ tính cách sắc sảo trong lịch sử hoặc trong tác phẩm văn học. ðồng thời, các nhân vật này được phát triển tính cách trên nền của những kịch bản cĩ cốt truyện đầy đặn, xung đột đặt ra gay gắt. Ở phạm vi phản ánh hiện thực cuộc sống, một số kịch bản đã xây dựng được những nhân vật với tính cách hồn chỉnh, tạo nên sự sinh động và chiều sâu cho tác phẩm như nhân vật Tâm với tính cách chất phác, hồn hậu, làm ăn chân chính đối lập với tính cách lọc lõi, bất chấp, chà đạp lên mọi giá trị của Trí trong Hoa Biển của Lê Bình. Nhân vật bà Thơm với tình yêu mù quáng, nuơng chiều con và nhân vật Hậu đổ đốn, hư hỏng trong Tiếng vạc sành của Trung Dân. ðiểm khá thú vị trong xây dựng nhân vật của Hoa Biển là Hai nhân vật bà Thơm và Hậu khơng phải là cặp nhân vật đối lập về tính cách mà theo hướng nhân quả. Hành động của nhân vật người mẹ tạo nên tính cách cho người con. Sự nuơng chiều của nhân vật người mẹ đã gĩp phần làm cho con mình hư hỏng và đẩy chính mình vào bi kịch khi cùng lúc mất cả hai người con. Kịch bản Ngơi nhà khơng cĩ đàn ơng của Ngọc Linh tuy chỉ đi vào vấn đề thuộc phạm vi tình yêu, gia đình, nhưng dưới ngịi bút khắc họa tính cách nhân vật của Ngọc Linh, những nhân vật, với tính cách rõ ràng in dấu trong tâm trí của người xem hơn 20 năm nay như tính bảo thủ của nhân vật bà Hậu, tính cam chịu của nhân vật Dì Ba, tính sắc sảo của nhân vật Xuân, tính buơng thả của nhân vật Hạ và tính cách quyết liệt của nhân vật Thu. Về khai thác chiều sâu tâm lý, nội tâm nhân vật, kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đương đại cĩ dịng kịch tâm lý mà tiêu biểu là các kịch bản văn học của tác giả Ái Như, Thành Hội (lấy bút danh chung là Hồng Thái Thanh). Các nhân vật tâm lý trong kịch của Hồng Thái Thanh thường cĩ số phận éo le và được đặt vào những tình huống nhiều trăn trở, day dứt. Hồng Thái Thanh đã sáng tác ba tác phẩm nối tiếp nhau Thử yêu lần nữa, Màu của tình yêu, Cảm ơn mình đã yêu em khai thác tâm lý SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 Trang 106 nhân vật Thơi Hồng Phấn và cơ giáo Bích Hồng trong những tình huống khác nhau. ðây cũng là kiểu sáng tác kịch bản nhiều tập độc đáo. Thử yêu lần nữa khai thác niềm day dứt giữa lịng hận thù và khát vọng yêu thương của nhân vật Thơi Hồng Phấn khi gặp cơ giáo Bích Hồng. Màu của tình yêu khai thác nội tâm của hai nhân vật này khi người vợ cũ quay trở về trước thềm đám cưới của họ. Và Cảm ơn mình đã yêu em khai thác nội tâm của hai nhân vật trước ngưỡng cửa của cái chết, chia lìa họ. Các kịch bản dịng kịch tâm lý giúp diễn viên thể hiện chiều sâu diễn xuất của mình và làm nên phong cách riêng của tác giả Hồng Thái Thanh cũng như sân khấu kịch Hồng Thái Thanh. Lê Hồng cĩ lẽ là tác giả cĩ nhiều kịch bản sáng tác theo xu hướng nghệ thuật phi truyền thống nhất. Ở gĩc độ xây dựng nhân vật, nhân vật trong kịch của Lê Hồng được xây dựng theo hướng biểu trưng, biểu tượng hơn là tính cách. Tiêu biểu như nhân vật người chủ cửa hàng trong tác phẩm Lùng người trong mộng của Lê Hồng. Nhân vật này lúc đầu xuất hiện là một con người bình thường nhưng về sau lại được các nhân vật nữ lắp ghép thành các nhân vật khác. Ngồi ra cĩ thể kể đến nhân vật Miên Tâm trong Ngơi nhà anh túc của Nguyễn Mạnh Tuấn. Nhân vật Miên Tâm ám chỉ bĩng đêm, những gĩc khuất trong lịng người. Và nếu ta thỏa hiệp với nhân vật đấy thì từng chút, từng chút một, nhân vật đấy sẽ dẫn ta đến con đường xa ngã. Ngồi ra, nhân vật dàn đồng ca trong kịch bản Người đàn bà thất lạc của Nguyễn Thị Minh Ngọc cũng là một nét mới trong xây dựng nhân vật của kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đương đại. Nhân vật này vừa đĩng vai trị bình phẩm như trong sân khấu truyền thống Việt Nam nhưng đồng thời đĩng vai trị dẫn dắt và thúc đẩy mạch kịch vận động ở một kịch bản mà xung đột kịch khơng hiện trên bề nổi thơng qua sự đối kháng giữa tính cách nhân vật. Nhân vật giàn đồng ca cịn là một kiểu nhân vật biểu trưng, đại diện cho tập thể những người phụ nữ Việt Nam. Mặc dù số lượng kịch bản thời gian qua khá lớn, kiểu, loại nhân vật được thể hiện trong kịch bản phong phú nhưng kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đương đại chưa cĩ nhiều hình tượng nhân vật lưu dấu sâu đậm trong tâm trí của độc giả cũng như khán giả. Lý do cĩ thể bắt nguồn từ phần lớn nội dung kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đi vào những xung đột mang tính chất cá nhân hoặc sinh hoạt đời sống, khơng nhiều các tác phẩm khai thác những xung đột mang tính chất xã hội, thể hiện tính chính luận, tư tưởng sắc bén cho nên thiếu những nhân vật trung tâm thể hiện sức khái quát hĩa và điển hình hĩa đặc trưng của thời xây dựng, phát triển và hội nhập của thành phố và đất nước. Ngồi ra, khi đi vào các đề tài cĩ nội dung gắn với bối cảnh đất nước hiện nay, kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại thường theo khuynh hướng kịch hiện thực phê phán. Các nhân vật đại diện cho tiêu cực trong xã hội được điển hình hĩa trong khi nhân vật tích cực thì lại chưa được xây dựng đúng tầm, đơi khi tác giả xử lý hành động của nhân vật tích cực mang tính chất gượng ép, chưa hợp lý và thiếu sức thuyết phục. Kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại đang thiếu những nhân vật kết tinh đậm nét và mang hơi thở của thời đại xây dựng, phát triển và hội nhập của thành phố và đất nước, thiếu những người “anh hùng” của thời cuộc. Cuối cùng, kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đương đại vẫn cịn nhiều kịch bản mà các nhân vật chủ yếu thể hiện vai trị chức năng, đại diện cho hai thái cực tốt-xấu, tích cực-tiêu cực mang tính chất giáo dục tình cảm, đạo đức hơn là thể hiện được những tính cách sinh động, cĩ chiều sâu, với sức khái quát mang tính chất xã hội. Nguyên nhân này thuộc về trình độ sáng tác của tác giả kịch bản. Các nhân vật được xây dựng theo nguyên tắc sáng tác hiện thực nhưng chất liệu, cơ sở của hiện thực nội dung và hiện thực tâm lý nhân vật chưa chắc chắn và nhuần nhuyễn. Cốt truyện chưa xây dựng được những sự kiện, biến cố mang tính logic, phù hợp với TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 19, SỐ X1-2016 Trang 107 tích cách và sự phát triển của nhân vật. Cho nên hành động của nhân vật trước các sự kiện, biến cố mang tính chất khiên cưỡng, khơng làm bật lên tính cách nhân vật cũng như tính hợp lý về sự tự do ý chí và hành động của nhân vật. 2.3. Xây dựng ngơn ngữ đối thoại Ở nghệ thuật xây dựng ngơn ngữ, ngơn ngữ đối thoại của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại phần lớn vẫn mang những đặc điểm chung của ngơn ngữ kịch nĩi Việt Nam hiện đại. Ngơn ngữ đối thoại của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh là ngơn ngữ thể hiện hành động và tính cách nhân vật. Ngơn ngữ hành động được thể hiện bằng tranh luận, tấn cơng, truy vấn, thuyết phục, cầu khẩn, đe dọa giữa các nhân vật với nhau Tính logic của hành động nhân vật cũng thể hiện qua tính logic trong ngơn ngữ đối thoại giữa các nhân vật. Khơng cĩ vai trị dẫn dắt của tác giả như trong thể loại văn học tự sự, những gì thuộc về nhân vật được bộc lộ bằng chính ngơn ngữ đối thoại của nhân vật đĩ. Ngơn ngữ đối thoại giúp độc giả hiểu được suy nghĩ, quan điểm của nhân vật. Thơng qua ngơn ngữ đối thoại, tính cách nhân vật được bộc lộ, phơi bày. Bên cạnh đĩ, điểm đặc sắc trong ngơn ngữ kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại là ngơn ngữ đối thoại miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật theo hình tượng con người Nam bộ. Việc khắc hĩa tính cách Nam bộ được thể hiện thơng qua lối khẩu ngữ Nam bộ, sử dụng lối nĩi và phương ngữ Nam bộ. Xây dựng ngơn ngữ đối thoại của nhân vật theo lối khẩu ngữ Nam bộ gĩp phần vừa khắc họa tính cách nhân vật, phù hợp với bối cảnh đặt ra trong kịch bản vừa gĩp phần làm nên tính chất đặc sắc của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh so với các địa phương khác của cả nước. Bên cạnh đĩ, ngơn ngữ đối thoại của nhân vật kịch Thành phố Hồ Chí Minh đương đại đa phần đều là dạng ngơn ngữ hồn nhiên, chất phác. Nhìn chung, ngơn ngữ đối thoại của nhân vật trong kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh ít bĩng bảy, ẩn ý hay cao giọng lý luận, triết lý. ðây là phong cách ngơn ngữ nhân vật khơng chỉ riêng kịch nĩi mà cĩ lẽ là phong cách truyền thống của các nhân vật trong văn học Nam bộ từ các tác phẩm văn xuơi hoặc kịch nĩi đầu thế kỷ XX của Nam bộ cho đến nay. Ngơn ngữ nhân vật này là phản chiếu phong cách ngơn ngữ và tư duy của người Việt vùng Nam bộ. ðiều này vừa gĩp phần đưa kịch nĩi gần gũi với độc giả, khán giả Nam bộ vừa cá tính hĩa nhân vật kịch trong thể hiện bối cảnh đời sống, xã hội, văn hĩa và con người vùng Nam bộ. 2.4. Những điểm mới trong thủ pháp nghệ thuật Về mặt thủ pháp nghệ thuật, kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đương đại bước đầu đã tiếp thu và vận dụng những thủ pháp nghệ thuật của kịch nĩi hiện đại thế giới vào xây dựng tác phẩm. Cĩ thể kể đến các tác phẩm vận dụng thành cơng những thủ pháp mới như : Thủ pháp về giấc mơ được Hồng Hữu ðản vận dụng trong tác phẩm Bí mật vườn lệ chi thơng qua giấc mơ của hồng hậu Nguyễn Thị Anh. Hoặc giấc mơ của bà Hậu và cuộc đối thoại của bà với bĩng trắng trong Ngơi nhà khơng cĩ đàn ơng của Ngọc Linh. Thủ pháp gián cách được Việt Linh vận dụng trong tác phẩm Thiên Thiên, với vai trị dẫn dắt và xâu nối cốt truyện của nhân vật Thiên thiên. Hay trong kịch bản Người đàn bà thất lạc của Nguyễn Thị Minh Ngọc, với vai trị dẫn dắt của nhân vật dàn đồng ca. Thủ pháp đồng hiện về khơng gian được Ngọc Linh vận dụng sáng tạo trong tác phẩm Ngơi nhà thiếu đàn bà. Hai tuyến nhân vật tồn tại ở hai thế giới khác nhau: thế giới của người sống và thế giới của người chết. Nhân vật ở hai khơng gian này tuy khơng đối thoại trực tiếp với nhau nhưng cùng song song tồn tại và quan sát lẫn nhau. Trong khi đĩ, thủ pháp đồng hiện về thời gian được Nguyễn Thị Minh Ngọc sử dụng sáng tạo trong Người đàn bà thất lạc. Ở tác phẩm, nhân vật SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 Trang 108 người chồng và những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử, truyền thuyết và văn học khác nhau về thời gian nhưng họ cùng xuất hiện và đối thoại với nhau. Bên cạnh đĩ, kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại cũng cĩ những tác phẩm xây dựng kiểu nhân vật mang tính biểu trưng như đặt tên các nhân vật là trắng, xanh, vàng, đỏ trong tác phẩm Lùng người trong mộng của Lê Hồng hay nhân vật Miên Tâm trong tác phẩm Ngơi nhà anh túc của Trần Mạnh Tuấn. Nhìn chung, một số điểm mới trong thủ pháp xây dựng kịch bản văn học thế giới hiện đại đã được một số tác giả kịch bản thành phố tiếp thu và vận dụng sáng tạo trong điều kiện cụ thể của kịch nĩi Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh, phù hợp với thĩi quen tiếp nhận của cơng chúng. Và trong tình hình của văn học kịch Việt Nam nĩi chung và Thành phố Hồ Chí Minh nĩi riêng cần tạo điều kiện cho những kịch bản văn học theo xu hướng đổi mới nghệ thuật đến với cơng chúng, đồng thời trở thành xu hướng chủ đạo nhằm thúc đẩy tiến trình phát triển của kịch nĩi chứ khơng chỉ dừng lại ở việc xây dựng tác phẩm mới lạ nhằm thu hút khán giả đến với sân khấu. Bởi lịch sử kịch nĩi thế giới đã chứng minh rằng nếu khơng cĩ sự đổi mới từ kịch bản văn học gồm cả nội dung và nghệ thuật thể hiện thì sẽ rất khĩ cĩ những đổi mới trong nghệ thuật dàn dựng và trình diễn kịch. 3. Kết luận Trong hơn 20 năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương, khơng muốn nĩi là duy nhất của cả nước, cĩ hoạt động sáng tác kịch bản và biểu diễn kịch nĩi sơi động. Cĩ thể cịn những ý kiến khác nhau về sự chưa đồng đều về chất lượng nghệ thuật của kịch bản văn học, vở diễn và cả cách thức tổ chức hoạt động của kịch nĩi thành phố nhưng cĩ một điều khơng thể phủ nhận là với tâm huyết của đội ngũ tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên và các nghệ sĩ cĩ liên quan, thể loại văn học và sân khấu này đã tồn tại và phát triển tại thành phố trong bối cảnh khĩ khăn chung của cả nước. Và chắc chắn, nếu đề cập đến những đặc điểm, thành tựu của kịch nĩi Việt Nam thời gian qua, với tư cách là một thể loại văn học, mà khơng nhắc đến những đĩng gĩp trong việc duy trì và phát triển đội ngũ sáng tác kịch bản cũng như nội dung phản ánh và những điểm đổi mới về mặt nghệ thuật của kịch nĩi bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại thì quả là một thiếu sĩt. Thời gian vừa qua, văn học kịch Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến những bước mạnh về lực lượng sáng tác, số lượng kịch bản. Nhưng nhìn tổng thể, nỗ lực đổi mới chưa trở thành xu hướng chủ đạo. Kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đang hiếm những kịch bản văn học mang chiều sâu tư duy, mới lạ về điểm nhìn và nghệ thuật thể hiện. Mà kịch bản văn học với tư cách là khâu đầu tiên, quan trọng của tồn bộ quy trình sáng tạo vở diễn cần phải thay đổi và đổi mới trước tiên. Cho nên cần thiết phải cĩ những hỗ trợ cho những tác giả, kịch bản mạnh dạn đổi mới. Hiện nay những kịch bản cách tân vẫn cịn bị khuất lấp bởi những kịch bản sáng tác theo lối mịn, cơng thức. ðổi mới phải gồm cả về nội dung và nghệ thuật xây dựng kịch bản, đổi mới về tư duy tuyển chọn, sử dụng kịch bản và cả cách thức ứng xử với tác giả, tác phẩm từ chính các sân khấu kịch nĩi của thành phố. ðổi mới phải tiếp tục được khuyến khích, tạo điều kiện và phải trở thành xu hướng chủ đạo. Cuối cùng, kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh chỉ cĩ thể tiếp tục phát triển vững chắc khi nỗ lực đổi mới phải diễn ra cùng lúc, cùng chiều ở cả hai phương diện: văn học kịch và sân khấu kịch. Bởi sẽ khĩ cĩ một nền sân khấu kịch phát triển nếu khơng cĩ một nền văn học kịch phát triển và ngược lại. Riêng ở gĩc độ văn học, bên cạnh việc nâng cao lực lượng sáng tác kịch bản, văn học kịch Thành phố đang cần một sự quan tâm đúng mức của giới phê bình và nghiên cứu văn học. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 19, SỐ X1-2016 Trang 109 The features of content and playwriting art in Ho Chi Minh City’s contemporary play • Luu Trung Thuy Vietnam National University - Ho Chi Minh City ABSTRACT: Since the last decade of the twentieth century, Ho Chi Minh City has become one of the Vietnamese lively dramatic literature and theater centers. During the past twenty years, together with dramatic theater, Ho Chi Minh City’s dramatic literature has built up a professional playwriter force, providing audiences plays which reflect the conflicts between human’s life in the time of Vietnam’s reformation and integration. Besides, these plays have contributed experiences in acquiring and applying the world modern playwriting techniques to suit Vietnamese’s drama reception habits. This paper generally provides content feature (focus on conflicts) and playwriting art feature (focus on plots, characteristics, dialogue language construction and the acquirement of new art techniques in Ho Chi Minh City’s contemporary literary scripts), contributing to the evaluation and summary of Ho Chi Minh City’s dramatic literature during the past. Keywords: drama, Contemporary Vietnamese play, Contemporary Vietnamese drama, Contemporary Ho Chi Minh City play, Contemporary Ho Chi Minh City drama TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Annette J.Saddik (2007), Contemporary American drama, Edinburgh University Press, Edinburgh. [2]. David Krasner (2012), A history of modern drama, Wiley-Blackwell, Oxford. [3]. Trần Trọng ðăng ðàn (2004), Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. [4]. Trần Trọng ðăng ðàn (2011), Kịch Việt Nam: thưởng thức và bình luận, Nhà xuất bản Văn hĩa-Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. [5]. Phan Cự ðệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX: Những vấn đề lịch sử và lý luận, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [6]. John Howard Lawson (1960), Theory and technique of playwriting, Hill and Wang, New York. [7]. Marvin Carlson (1993), Theories of the theatre: a historical and critical survey, from the Greeks to the present, Cornell University Press, New York. [8]. Oscar G.Brockett, Robert Findlay (1991), Century of innovation: A history of European and American theatre and drama since the late nineteenth century, Allyn and Bacon, Massachusetts. [9]. ðình Quang, “Kịch nĩi giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay”, Tạp chí Văn học, số 7, tr.3-12 (2001). SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 Trang 110 [10]. ðình Quang, “ðiểm qua phương pháp sáng tạo của sân khấu phương Tây”, Tạp chí sân khấu, số tháng 10, tháng 11, tr.56-59 (2012). [11]. Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Sân khấu và tơi, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội. [12]. Nguyễn Văn Thành (2008), Kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh một chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội. [13]. Tất Thắng (1996), Diện mạo sân khấu: nghệ sĩ và tác phẩm, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội. [14]. Viện sân khấu (1995), 20 năm sân khấu Việt Nam (1975-1995), Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội.
File đính kèm:
- ac_diem_noi_dung_va_nghe_thuat_kich_ban_van_hoc_thanh_pho_ho.pdf