Ðặc điểm nội dung và nghệ thuật kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại

Tóm tắt Ðặc điểm nội dung và nghệ thuật kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại: ... Hữu ðản và Nỏ thần của Lờ Duy Hạnh. Ở cả hai tỏc phẩm ủại diện cho chớnh nghĩa ủều khụng giành thắng lợi trước ủại diện phi nghĩa. Tuy nhiờn, dựa trờn cơ sở hai bi kịch của lịch sử dõn tộc, Hoàng Hữu ðản và Lờ Duy Hạnh ủó cú cỏch xử lý riờng ủể tỏc phẩm mang ủến một thụng ủiệp khỏc với ...o nhõn vật bộc lộ bản chất của mỡnh và tạo nờn tớnh hấp dẫn người xem. Nguyờn tắc khi sử dụng hai loại sự kiện này là phải ủảm bảo tớnh liền mạch và logic, ủặt trong diễn tiến tõm lý nhõn vật và sự phỏt triển của hệ thống sự kiện của cốt truyện. Sự xuất hiện của sự kiện bất ngờ ở phần ca...ậu khụng phải là cặp nhõn vật ủối lập về tớnh cỏch mà theo hướng nhõn quả. Hành ủộng của nhõn vật người mẹ tạo nờn tớnh cỏch cho người con. Sự nuụng chiều của nhõn vật người mẹ ủó gúp phần làm cho con mỡnh hư hỏng và ủẩy chớnh mỡnh vào bi kịch khi cựng lỳc mất cả hai người con. Kịch bản ...

pdf15 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Ðặc điểm nội dung và nghệ thuật kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m bộ trong giai 
đoạn xây dựng, phát triển và hội nhập của đất nước 
ở đủ mọi thành phần xã hội. Trong số đĩ, những 
nhân vật bình dân chiếm được nhiều tình cảm của 
cơng chúng. Những hình tượng nhân vật này kết 
tinh trong mình tính cách truyền thống của người 
Nam bộ như nặng tình với quê hương như ơng Tư 
trong Dạ cổ Hồi Lang (Thanh Hồng), Tư Hào 
trong Biển (Lê Duy Hạnh), trọng nhân nghĩa như 
Sáu Yên trong ðất lở (Ngọc Linh), thủy chung như 
Tư xích lơ trong Trầu Cau (Thanh Hồng), nghĩa 
hiệp như Việt trong Trái tim nhảy múa (Nguyễn Thị 
Minh Ngọc) 
Hình tượng nhân vật lịch sử xuất hiện trong các 
tác phẩm như Bí mật vườn Lệ Chi, Nỏ thần, Vương 
Thánh Triều Lê, Tả quân Lê Văn Duyệt. Riêng kịch 
bản Người đàn bà thất lạc của Nguyễn Thị Minh 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 19, SỐ X1-2016 
 Trang 105 
Ngọc là một hiện tượng xây dựng nhân vật độc đáo 
của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh 
đương đại khi tác giả cho nhân vật lịch sử đồng hiện 
và đối thoại với nhân vật đương thời. 
Ở gĩc độ kiểu nhân vật, kịch bản văn học Thành 
phố Hồ Chí Minh phổ biến với kiểu nhân vật tính 
cách, được xây dựng theo nguyên tắc của chủ nghĩa 
hiện thực. Ngồi ra, kịch nĩi thành phố bước đầu cĩ 
những kịch bản văn học xây dựng nhân vật biểu 
trưng, biểu tượng. 
Trong xây dựng nhân vật, các tác giả thường 
xây dựng hai tuyến nhân vật chính đại diện cho hai 
tuyến xung đột giữa thiện-ác, tích cực-tiêu cực, tiến 
bộ-lạc hậu Hành động của nhân vật do tính cách 
nhân vật quyết định. Hành động nhân vật tạo thành 
một chuỗi sự kiện-hành động của cốt truyện, mang 
tính chất nhân quả, thúc đẩy hành động kịch vận 
động. Cách thức thể hiện tính cách nhân vật theo 
cơng thức phổ biến là sự kiện-hành động và ngơn 
ngữ nhân vật. Tính cách của nhân vật cịn thể hiện 
thơng qua ngơn ngữ của chính nhân vật đĩ hoặc qua 
miêu tả của một nhân vật khác, đồng thời thơng qua 
việc mở rộng các thủ pháp miêu tả nội tâm nhân vật 
như phân thân, giấc mơ, đồng hiện. 
Những tính cách nhân vật được xây dựng sắc 
sảo, đậm nét thường trong các kịch bản thuộc phạm 
vi đề tài lịch sử hoặc những kịch bản được chuyển 
thể từ tác phẩm văn học. Tiêu biểu như tích cách 
chính trực, yêu nước thương dân của nhân vật 
Nguyễn Trãi đối lập với tính cách xu nịnh, gian xảo 
của nhân vật thái giám Tạ Thanh hay tích cách vị kỷ 
của nhân vật hồng hậu Nguyễn Thị Anh trong Bí 
mật vườn Lệ Chi của Hồng Hữu ðản, tính cách 
cương trực và đề cao cảnh giác của Cao Thục đối 
lập với tích cách nham hiểm của nhân vật Nhan Tấn 
và tích cách chủ quan, hưởng lạc của nhân vật An 
Dương Vương trong Nỏ thần của Lê Duy Hạnh; 
tính cách lưu manh của Xuân trong Số đỏ của Lê 
Chí Trung chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của 
nhà văn Vũ Trọng Phụng. Sở dĩ tính cách nhân vật 
trong các kịch bản này đậm nét vì bản thân các nhân 
vật này đã là những nhân vật cĩ tính cách sắc sảo 
trong lịch sử hoặc trong tác phẩm văn học. ðồng 
thời, các nhân vật này được phát triển tính cách trên 
nền của những kịch bản cĩ cốt truyện đầy đặn, xung 
đột đặt ra gay gắt. 
Ở phạm vi phản ánh hiện thực cuộc sống, một 
số kịch bản đã xây dựng được những nhân vật với 
tính cách hồn chỉnh, tạo nên sự sinh động và chiều 
sâu cho tác phẩm như nhân vật Tâm với tính cách 
chất phác, hồn hậu, làm ăn chân chính đối lập với 
tính cách lọc lõi, bất chấp, chà đạp lên mọi giá trị 
của Trí trong Hoa Biển của Lê Bình. Nhân vật bà 
Thơm với tình yêu mù quáng, nuơng chiều con và 
nhân vật Hậu đổ đốn, hư hỏng trong Tiếng vạc sành 
của Trung Dân. ðiểm khá thú vị trong xây dựng 
nhân vật của Hoa Biển là Hai nhân vật bà Thơm và 
Hậu khơng phải là cặp nhân vật đối lập về tính cách 
mà theo hướng nhân quả. Hành động của nhân vật 
người mẹ tạo nên tính cách cho người con. Sự 
nuơng chiều của nhân vật người mẹ đã gĩp phần 
làm cho con mình hư hỏng và đẩy chính mình vào 
bi kịch khi cùng lúc mất cả hai người con. Kịch bản 
Ngơi nhà khơng cĩ đàn ơng của Ngọc Linh tuy chỉ 
đi vào vấn đề thuộc phạm vi tình yêu, gia đình, 
nhưng dưới ngịi bút khắc họa tính cách nhân vật 
của Ngọc Linh, những nhân vật, với tính cách rõ 
ràng in dấu trong tâm trí của người xem hơn 20 năm 
nay như tính bảo thủ của nhân vật bà Hậu, tính cam 
chịu của nhân vật Dì Ba, tính sắc sảo của nhân vật 
Xuân, tính buơng thả của nhân vật Hạ và tính cách 
quyết liệt của nhân vật Thu. 
Về khai thác chiều sâu tâm lý, nội tâm nhân vật, 
kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đương đại cĩ 
dịng kịch tâm lý mà tiêu biểu là các kịch bản văn 
học của tác giả Ái Như, Thành Hội (lấy bút danh 
chung là Hồng Thái Thanh). Các nhân vật tâm lý 
trong kịch của Hồng Thái Thanh thường cĩ số 
phận éo le và được đặt vào những tình huống nhiều 
trăn trở, day dứt. Hồng Thái Thanh đã sáng tác ba 
tác phẩm nối tiếp nhau Thử yêu lần nữa, Màu của 
tình yêu, Cảm ơn mình đã yêu em khai thác tâm lý 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 
Trang 106 
nhân vật Thơi Hồng Phấn và cơ giáo Bích Hồng 
trong những tình huống khác nhau. ðây cũng là 
kiểu sáng tác kịch bản nhiều tập độc đáo. Thử yêu 
lần nữa khai thác niềm day dứt giữa lịng hận thù và 
khát vọng yêu thương của nhân vật Thơi Hồng Phấn 
khi gặp cơ giáo Bích Hồng. Màu của tình yêu khai 
thác nội tâm của hai nhân vật này khi người vợ cũ 
quay trở về trước thềm đám cưới của họ. Và Cảm 
ơn mình đã yêu em khai thác nội tâm của hai nhân 
vật trước ngưỡng cửa của cái chết, chia lìa họ. Các 
kịch bản dịng kịch tâm lý giúp diễn viên thể hiện 
chiều sâu diễn xuất của mình và làm nên phong 
cách riêng của tác giả Hồng Thái Thanh cũng như 
sân khấu kịch Hồng Thái Thanh. 
Lê Hồng cĩ lẽ là tác giả cĩ nhiều kịch bản sáng 
tác theo xu hướng nghệ thuật phi truyền thống nhất. 
Ở gĩc độ xây dựng nhân vật, nhân vật trong kịch 
của Lê Hồng được xây dựng theo hướng biểu 
trưng, biểu tượng hơn là tính cách. Tiêu biểu như 
nhân vật người chủ cửa hàng trong tác phẩm Lùng 
người trong mộng của Lê Hồng. Nhân vật này lúc 
đầu xuất hiện là một con người bình thường nhưng 
về sau lại được các nhân vật nữ lắp ghép thành các 
nhân vật khác. Ngồi ra cĩ thể kể đến nhân vật 
Miên Tâm trong Ngơi nhà anh túc của Nguyễn 
Mạnh Tuấn. Nhân vật Miên Tâm ám chỉ bĩng đêm, 
những gĩc khuất trong lịng người. Và nếu ta thỏa 
hiệp với nhân vật đấy thì từng chút, từng chút một, 
nhân vật đấy sẽ dẫn ta đến con đường xa ngã. Ngồi 
ra, nhân vật dàn đồng ca trong kịch bản Người đàn 
bà thất lạc của Nguyễn Thị Minh Ngọc cũng là một 
nét mới trong xây dựng nhân vật của kịch nĩi 
Thành phố Hồ Chí Minh đương đại. Nhân vật này 
vừa đĩng vai trị bình phẩm như trong sân khấu 
truyền thống Việt Nam nhưng đồng thời đĩng vai 
trị dẫn dắt và thúc đẩy mạch kịch vận động ở một 
kịch bản mà xung đột kịch khơng hiện trên bề nổi 
thơng qua sự đối kháng giữa tính cách nhân vật. 
Nhân vật giàn đồng ca cịn là một kiểu nhân vật 
biểu trưng, đại diện cho tập thể những người phụ nữ 
Việt Nam. 
Mặc dù số lượng kịch bản thời gian qua khá lớn, 
kiểu, loại nhân vật được thể hiện trong kịch bản 
phong phú nhưng kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh 
đương đại chưa cĩ nhiều hình tượng nhân vật lưu 
dấu sâu đậm trong tâm trí của độc giả cũng như 
khán giả. Lý do cĩ thể bắt nguồn từ phần lớn nội 
dung kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đi vào 
những xung đột mang tính chất cá nhân hoặc sinh 
hoạt đời sống, khơng nhiều các tác phẩm khai thác 
những xung đột mang tính chất xã hội, thể hiện tính 
chính luận, tư tưởng sắc bén cho nên thiếu những 
nhân vật trung tâm thể hiện sức khái quát hĩa và 
điển hình hĩa đặc trưng của thời xây dựng, phát 
triển và hội nhập của thành phố và đất nước. Ngồi 
ra, khi đi vào các đề tài cĩ nội dung gắn với bối 
cảnh đất nước hiện nay, kịch bản văn học Thành 
phố Hồ Chí Minh đương đại thường theo khuynh 
hướng kịch hiện thực phê phán. Các nhân vật đại 
diện cho tiêu cực trong xã hội được điển hình hĩa 
trong khi nhân vật tích cực thì lại chưa được xây 
dựng đúng tầm, đơi khi tác giả xử lý hành động của 
nhân vật tích cực mang tính chất gượng ép, chưa 
hợp lý và thiếu sức thuyết phục. Kịch bản văn học 
Thành phố Hồ Chí Minh đương đại đang thiếu 
những nhân vật kết tinh đậm nét và mang hơi thở 
của thời đại xây dựng, phát triển và hội nhập của 
thành phố và đất nước, thiếu những người “anh 
hùng” của thời cuộc. 
Cuối cùng, kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh 
đương đại vẫn cịn nhiều kịch bản mà các nhân vật 
chủ yếu thể hiện vai trị chức năng, đại diện cho hai 
thái cực tốt-xấu, tích cực-tiêu cực mang tính chất 
giáo dục tình cảm, đạo đức hơn là thể hiện được 
những tính cách sinh động, cĩ chiều sâu, với sức 
khái quát mang tính chất xã hội. Nguyên nhân này 
thuộc về trình độ sáng tác của tác giả kịch bản. Các 
nhân vật được xây dựng theo nguyên tắc sáng tác 
hiện thực nhưng chất liệu, cơ sở của hiện thực nội 
dung và hiện thực tâm lý nhân vật chưa chắc chắn 
và nhuần nhuyễn. Cốt truyện chưa xây dựng được 
những sự kiện, biến cố mang tính logic, phù hợp với 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 19, SỐ X1-2016 
 Trang 107 
tích cách và sự phát triển của nhân vật. Cho nên 
hành động của nhân vật trước các sự kiện, biến cố 
mang tính chất khiên cưỡng, khơng làm bật lên tính 
cách nhân vật cũng như tính hợp lý về sự tự do ý 
chí và hành động của nhân vật. 
2.3. Xây dựng ngơn ngữ đối thoại 
Ở nghệ thuật xây dựng ngơn ngữ, ngơn ngữ đối 
thoại của kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh 
đương đại phần lớn vẫn mang những đặc điểm 
chung của ngơn ngữ kịch nĩi Việt Nam hiện đại. 
Ngơn ngữ đối thoại của kịch bản văn học Thành 
phố Hồ Chí Minh là ngơn ngữ thể hiện hành động 
và tính cách nhân vật. Ngơn ngữ hành động được 
thể hiện bằng tranh luận, tấn cơng, truy vấn, thuyết 
phục, cầu khẩn, đe dọa giữa các nhân vật với 
nhau Tính logic của hành động nhân vật cũng thể 
hiện qua tính logic trong ngơn ngữ đối thoại giữa 
các nhân vật. Khơng cĩ vai trị dẫn dắt của tác giả 
như trong thể loại văn học tự sự, những gì thuộc về 
nhân vật được bộc lộ bằng chính ngơn ngữ đối thoại 
của nhân vật đĩ. Ngơn ngữ đối thoại giúp độc giả 
hiểu được suy nghĩ, quan điểm của nhân vật. Thơng 
qua ngơn ngữ đối thoại, tính cách nhân vật được 
bộc lộ, phơi bày. 
Bên cạnh đĩ, điểm đặc sắc trong ngơn ngữ kịch 
bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại là 
ngơn ngữ đối thoại miêu tả và khắc họa tính cách 
nhân vật theo hình tượng con người Nam bộ. Việc 
khắc hĩa tính cách Nam bộ được thể hiện thơng qua 
lối khẩu ngữ Nam bộ, sử dụng lối nĩi và phương 
ngữ Nam bộ. Xây dựng ngơn ngữ đối thoại của 
nhân vật theo lối khẩu ngữ Nam bộ gĩp phần vừa 
khắc họa tính cách nhân vật, phù hợp với bối cảnh 
đặt ra trong kịch bản vừa gĩp phần làm nên tính 
chất đặc sắc của kịch bản văn học Thành phố Hồ 
Chí Minh so với các địa phương khác của cả nước. 
Bên cạnh đĩ, ngơn ngữ đối thoại của nhân vật kịch 
Thành phố Hồ Chí Minh đương đại đa phần đều là 
dạng ngơn ngữ hồn nhiên, chất phác. Nhìn chung, 
ngơn ngữ đối thoại của nhân vật trong kịch nĩi 
Thành phố Hồ Chí Minh ít bĩng bảy, ẩn ý hay cao 
giọng lý luận, triết lý. ðây là phong cách ngơn ngữ 
nhân vật khơng chỉ riêng kịch nĩi mà cĩ lẽ là phong 
cách truyền thống của các nhân vật trong văn học 
Nam bộ từ các tác phẩm văn xuơi hoặc kịch nĩi đầu 
thế kỷ XX của Nam bộ cho đến nay. Ngơn ngữ 
nhân vật này là phản chiếu phong cách ngơn ngữ và 
tư duy của người Việt vùng Nam bộ. ðiều này vừa 
gĩp phần đưa kịch nĩi gần gũi với độc giả, khán giả 
Nam bộ vừa cá tính hĩa nhân vật kịch trong thể 
hiện bối cảnh đời sống, xã hội, văn hĩa và con 
người vùng Nam bộ. 
2.4. Những điểm mới trong thủ pháp nghệ 
thuật 
Về mặt thủ pháp nghệ thuật, kịch nĩi Thành phố 
Hồ Chí Minh đương đại bước đầu đã tiếp thu và vận 
dụng những thủ pháp nghệ thuật của kịch nĩi hiện 
đại thế giới vào xây dựng tác phẩm. Cĩ thể kể đến 
các tác phẩm vận dụng thành cơng những thủ pháp 
mới như : 
Thủ pháp về giấc mơ được Hồng Hữu ðản vận 
dụng trong tác phẩm Bí mật vườn lệ chi thơng qua 
giấc mơ của hồng hậu Nguyễn Thị Anh. Hoặc giấc 
mơ của bà Hậu và cuộc đối thoại của bà với bĩng 
trắng trong Ngơi nhà khơng cĩ đàn ơng của Ngọc 
Linh. 
Thủ pháp gián cách được Việt Linh vận dụng 
trong tác phẩm Thiên Thiên, với vai trị dẫn dắt và 
xâu nối cốt truyện của nhân vật Thiên thiên. Hay 
trong kịch bản Người đàn bà thất lạc của Nguyễn 
Thị Minh Ngọc, với vai trị dẫn dắt của nhân vật 
dàn đồng ca. 
Thủ pháp đồng hiện về khơng gian được Ngọc 
Linh vận dụng sáng tạo trong tác phẩm Ngơi nhà 
thiếu đàn bà. Hai tuyến nhân vật tồn tại ở hai thế 
giới khác nhau: thế giới của người sống và thế giới 
của người chết. Nhân vật ở hai khơng gian này tuy 
khơng đối thoại trực tiếp với nhau nhưng cùng song 
song tồn tại và quan sát lẫn nhau. 
Trong khi đĩ, thủ pháp đồng hiện về thời gian 
được Nguyễn Thị Minh Ngọc sử dụng sáng tạo 
trong Người đàn bà thất lạc. Ở tác phẩm, nhân vật 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 
Trang 108 
người chồng và những người phụ nữ nổi tiếng trong 
lịch sử, truyền thuyết và văn học khác nhau về thời 
gian nhưng họ cùng xuất hiện và đối thoại với nhau. 
Bên cạnh đĩ, kịch bản văn học Thành phố Hồ 
Chí Minh đương đại cũng cĩ những tác phẩm xây 
dựng kiểu nhân vật mang tính biểu trưng như đặt 
tên các nhân vật là trắng, xanh, vàng, đỏ trong tác 
phẩm Lùng người trong mộng của Lê Hồng hay 
nhân vật Miên Tâm trong tác phẩm Ngơi nhà anh 
túc của Trần Mạnh Tuấn. 
Nhìn chung, một số điểm mới trong thủ pháp 
xây dựng kịch bản văn học thế giới hiện đại đã 
được một số tác giả kịch bản thành phố tiếp thu và 
vận dụng sáng tạo trong điều kiện cụ thể của kịch 
nĩi Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh, phù hợp 
với thĩi quen tiếp nhận của cơng chúng. Và trong 
tình hình của văn học kịch Việt Nam nĩi chung và 
Thành phố Hồ Chí Minh nĩi riêng cần tạo điều kiện 
cho những kịch bản văn học theo xu hướng đổi mới 
nghệ thuật đến với cơng chúng, đồng thời trở thành 
xu hướng chủ đạo nhằm thúc đẩy tiến trình phát 
triển của kịch nĩi chứ khơng chỉ dừng lại ở việc xây 
dựng tác phẩm mới lạ nhằm thu hút khán giả đến 
với sân khấu. Bởi lịch sử kịch nĩi thế giới đã chứng 
minh rằng nếu khơng cĩ sự đổi mới từ kịch bản văn 
học gồm cả nội dung và nghệ thuật thể hiện thì sẽ 
rất khĩ cĩ những đổi mới trong nghệ thuật dàn dựng 
và trình diễn kịch. 
3. Kết luận 
Trong hơn 20 năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh 
là một trong những địa phương, khơng muốn nĩi là 
duy nhất của cả nước, cĩ hoạt động sáng tác kịch 
bản và biểu diễn kịch nĩi sơi động. Cĩ thể cịn 
những ý kiến khác nhau về sự chưa đồng đều về 
chất lượng nghệ thuật của kịch bản văn học, vở diễn 
và cả cách thức tổ chức hoạt động của kịch nĩi 
thành phố nhưng cĩ một điều khơng thể phủ nhận là 
với tâm huyết của đội ngũ tác giả kịch bản, đạo 
diễn, diễn viên và các nghệ sĩ cĩ liên quan, thể loại 
văn học và sân khấu này đã tồn tại và phát triển tại 
thành phố trong bối cảnh khĩ khăn chung của cả 
nước. Và chắc chắn, nếu đề cập đến những đặc 
điểm, thành tựu của kịch nĩi Việt Nam thời gian 
qua, với tư cách là một thể loại văn học, mà khơng 
nhắc đến những đĩng gĩp trong việc duy trì và phát 
triển đội ngũ sáng tác kịch bản cũng như nội dung 
phản ánh và những điểm đổi mới về mặt nghệ thuật 
của kịch nĩi bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh 
đương đại thì quả là một thiếu sĩt. 
Thời gian vừa qua, văn học kịch Thành phố Hồ 
Chí Minh đã tiến những bước mạnh về lực lượng 
sáng tác, số lượng kịch bản. Nhưng nhìn tổng thể, 
nỗ lực đổi mới chưa trở thành xu hướng chủ đạo. 
Kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh đang hiếm những 
kịch bản văn học mang chiều sâu tư duy, mới lạ về 
điểm nhìn và nghệ thuật thể hiện. Mà kịch bản văn 
học với tư cách là khâu đầu tiên, quan trọng của 
tồn bộ quy trình sáng tạo vở diễn cần phải thay đổi 
và đổi mới trước tiên. Cho nên cần thiết phải cĩ 
những hỗ trợ cho những tác giả, kịch bản mạnh dạn 
đổi mới. Hiện nay những kịch bản cách tân vẫn cịn 
bị khuất lấp bởi những kịch bản sáng tác theo lối 
mịn, cơng thức. ðổi mới phải gồm cả về nội dung 
và nghệ thuật xây dựng kịch bản, đổi mới về tư duy 
tuyển chọn, sử dụng kịch bản và cả cách thức ứng 
xử với tác giả, tác phẩm từ chính các sân khấu kịch 
nĩi của thành phố. ðổi mới phải tiếp tục được 
khuyến khích, tạo điều kiện và phải trở thành xu 
hướng chủ đạo. 
Cuối cùng, kịch nĩi Thành phố Hồ Chí Minh chỉ 
cĩ thể tiếp tục phát triển vững chắc khi nỗ lực đổi 
mới phải diễn ra cùng lúc, cùng chiều ở cả hai 
phương diện: văn học kịch và sân khấu kịch. Bởi sẽ 
khĩ cĩ một nền sân khấu kịch phát triển nếu khơng 
cĩ một nền văn học kịch phát triển và ngược lại. 
Riêng ở gĩc độ văn học, bên cạnh việc nâng cao lực 
lượng sáng tác kịch bản, văn học kịch Thành phố 
đang cần một sự quan tâm đúng mức của giới phê 
bình và nghiên cứu văn học. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 19, SỐ X1-2016 
 Trang 109 
The features of content and playwriting art 
in Ho Chi Minh City’s contemporary play 
• Luu Trung Thuy 
Vietnam National University - Ho Chi Minh City 
ABSTRACT: 
Since the last decade of the twentieth 
century, Ho Chi Minh City has become one of 
the Vietnamese lively dramatic literature and 
theater centers. During the past twenty years, 
together with dramatic theater, Ho Chi Minh 
City’s dramatic literature has built up a 
professional playwriter force, providing 
audiences plays which reflect the conflicts 
between human’s life in the time of Vietnam’s 
reformation and integration. Besides, these 
plays have contributed experiences in 
acquiring and applying the world modern 
playwriting techniques to suit Vietnamese’s 
drama reception habits. 
This paper generally provides content 
feature (focus on conflicts) and playwriting art 
feature (focus on plots, characteristics, 
dialogue language construction and the 
acquirement of new art techniques in Ho Chi 
Minh City’s contemporary literary scripts), 
contributing to the evaluation and summary of 
Ho Chi Minh City’s dramatic literature during 
the past. 
Keywords: drama, Contemporary Vietnamese play, Contemporary Vietnamese drama, 
Contemporary Ho Chi Minh City play, Contemporary Ho Chi Minh City drama 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Annette J.Saddik (2007), Contemporary 
American drama, Edinburgh University Press, 
Edinburgh. 
[2]. David Krasner (2012), A history of modern 
drama, Wiley-Blackwell, Oxford. 
[3]. Trần Trọng ðăng ðàn (2004), Nghệ thuật sân 
khấu Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hà 
Nội. 
[4]. Trần Trọng ðăng ðàn (2011), Kịch Việt Nam: 
thưởng thức và bình luận, Nhà xuất bản Văn 
hĩa-Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. 
[5]. Phan Cự ðệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ 
XX: Những vấn đề lịch sử và lý luận, Nhà xuất 
bản Giáo dục, Hà Nội. 
[6]. John Howard Lawson (1960), Theory and 
technique of playwriting, Hill and Wang, New 
York. 
[7]. Marvin Carlson (1993), Theories of the 
theatre: a historical and critical survey, from 
the Greeks to the present, Cornell University 
Press, New York. 
[8]. Oscar G.Brockett, Robert Findlay (1991), 
Century of innovation: A history of European 
and American theatre and drama since the 
late nineteenth century, Allyn and Bacon, 
Massachusetts. 
[9]. ðình Quang, “Kịch nĩi giai đoạn từ sau Cách 
mạng tháng Tám đến nay”, Tạp chí Văn học, 
số 7, tr.3-12 (2001). 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X1-2016 
Trang 110 
[10]. ðình Quang, “ðiểm qua phương pháp sáng tạo 
của sân khấu phương Tây”, Tạp chí sân khấu, 
số tháng 10, tháng 11, tr.56-59 (2012). 
[11]. Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Sân khấu và 
tơi, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội. 
[12]. Nguyễn Văn Thành (2008), Kịch nĩi Thành 
phố Hồ Chí Minh một chặng đường lịch sử, 
Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội. 
[13]. Tất Thắng (1996), Diện mạo sân khấu: nghệ sĩ 
và tác phẩm, Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội. 
[14]. Viện sân khấu (1995), 20 năm sân khấu Việt 
Nam (1975-1995), Nhà xuất bản Sân khấu, Hà 
Nội. 

File đính kèm:

  • pdfac_diem_noi_dung_va_nghe_thuat_kich_ban_van_hoc_thanh_pho_ho.pdf