Bài giảng nhập môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác- Lênin

Tóm tắt Bài giảng nhập môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác- Lênin: ...hái kinh tế - xã hội biểu thị trình độ phát triển khác nhau của xã hội loài người: - Do sự trình độ phát triển của lực lượng sản xuất làm thay đổi quan hệ sản xuất dẫn đến sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội mới. Sự phù hợp tương đối giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tạo động lực cho sức...kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động d...tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải pháp chiến lược dài ...

doc214 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bài giảng nhập môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác- Lênin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 thành công cụ của giai cấp thống trị chống lại người lao động. Thực tế có những giáo sĩ suốt đời chuyên cần việc đạo, đồng hành với dân tộc, nhưng cũng có những người hợp tác với các thế lực thù địch chống phá cách mạng. Trong lịch sử xuất hiện nhiều vị "chân tu", nhưng đồng thời cũng có những người sẵn sàng hi sinh quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân vì lợi ích của giáo hội và cá nhân. Những biểu hiện đó đòi hỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa cần xem xét vấn đề tôn giáo một cách tỉ mỉ, thận trọng, tránh khuynh hướng "tả" hoặc "hữu" trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh từ tôn giáo.
Chương IX:
 CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG 
Thời lượng: 4 giờ tín chỉ (3 lý thuyết, 1 kiểm tra)
Mục tiêu của người học cần đạt được về kiến thức và kĩ năng:
Hiểu về sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Nắm được nguyên nhân của sự khủng hoảng dẫn đến sự đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội
Nhận định và đánh giá triển vọng của chủ nghĩa xã hội hiện nay
I. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
1. Cách mạng Tháng Mười và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
a) Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
	Dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin, nhân dân và Hồng quân Nga đã phá tan dinh lũy cuối cùng của Chính phủ lâm thời tư sản, lập nên Chính quyền Xô viết đầu tiên trong lịch sử nhân loại: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái Đất. Trong lịch sử loài người, chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG H 2000, tập 12, tr 300.
. Cách mạng Tháng Mười đã mở ra một con đường mới cho sự giải phóng các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân áp bức, mở đầu một thời đại mới, quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
b) Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới
	Từ sau năm 1917 đến kết thúc Chiến thanh Thế giới lần hai, Liên xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng chế độ mới cực kì khó khăn và phức tạp. Nền kinh tế lạc hậu bị chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, nội chiến và chiến tranh can thiệp của 14 nước bao vây, cấm vận về kinh tế tàn phá nặng nề.
	Từ năm 1918 đến năm 1921, để đảm bảo cung cấp lương thực cho quân đội, công nhân và nhân dân thành thị trong điều kiện lương thực cực kì khan hiếm, Đảng Cộng sản Nga mà đứng đầu là V.I. Lênin đã đề ra Chính sách cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của tư sản độc quyền, địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác. Tháng 3 năm 1921, nội chiến kết thúc, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Nga, V.I. Lênin đã đưa ra Chính sách kinh tế mới (NEP) với việc sử dụng các hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận quan trọng của chính sách này. Với sự cầm quyền của Nhà nước vô sản, thông qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kết thừa có chọn lọc những tài sản vật chất, kĩ thuật và tinh hoa tri thức trong kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, khoa học kĩ thuật, trình độ quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc làm tăng lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội.
	Sau khi V.I. Lênin qua đời, chưa được bao lâu, vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỉ XX, triệu chứng của một cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng bộc lộ. Trong bối cảnh đó, muốn biến nước Nga lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp, Nhà nước Xô Viết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao. Thực tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công nghiệp hóa với thời gian chưa đầy 20 năm mà trong nửa thời gian đó là nội chiến, là chống can thiệp, là khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
2. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những thành tựu của nó
a) Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới
	Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm các nước Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Hungari, Rumani, Tiệp Khắc, Albani, Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Cu Ba. Năm 1960, Tại Matxcova, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân các nước trên thế giới đã ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người”1 Hội nghị Đảng Cộng sản và công nhân ở Matxcova 1960, Nxb Sự thật H.1961.
.
b) Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
	Dù có nhiều biến động nhưng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu lớn sau đây:
	Thứ nhất, chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới.
	Thứ hai, sau hơn 70 năm xây dựng, chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu về kinh tế, đảm bảo tốt hơn đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Nước Nga trước Cách mạng Tháng Mười lạc hậu hơn so với các nước phát triển từ 50 đến 100 năm. Khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ bằng 1/22 của Mỹ cùng thời đó. Chỉ sau một thời gian ngắn, Liên Xô đã trở thành một trong hai siêu cường quốc của thế giới. Năm 1985, thu nhập quốc dân của Liên Xô bằng 66% của Mỹ, sản lượng công nghiệp bằng 85% của Mỹ. Chỉ sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã xóa bỏ nạn mù chữ. Cuối năm 1980, Liên Xô là nước có trình độ học vấn cao nhất thế giới. Các lĩnh vực quân sự, quốc phòng, khoa học vũ trụ là những lĩnh vực mạnh của Liên Xô.
	Thứ ba, chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng lớn trong đời sống chính trị của thế giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Tính đến nay, 100 nước đã dành được độc lập và tham gia vào Phong trào không liên kết.
	Thứ tư, chủ nghĩa xã hội hiện thực đóng vai trò quyết định trong việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới.
	Thứ năm, với ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ở các nước phương tây, nhân dân lao động đã đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, phúc lợi xã hội và các nước phương tây đã phải nhượng bộ, chấp nhận thực tế nhiều yêu sách đó.
	Sự phát triển như vũ bão của ba dòng thác cách mạng (hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa; phong trào giải phóng dân tộc và các nước độc lập dân tộc; phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa) trong suốt mấy thập kỉ đã gắn liền với sự tồn tại và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa. 
II. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết 
1. Sự khủng hoảng và sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết
a) Sự khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết
	Lịch sử nhân loại là một quá trình vận động qua nhiều con đường gấp khúc, quanh co và phong trào cách mạng cũng đã vận động theo con đường phát triển và những thời kì thoái trào. Vào những năm 70 của thế kì XIX, khi chủ nghĩa xã hội còn là học thuyết, sau thất bại của Công xã Paris, cuộc khủng hoảng đầu tiên đã diễn ra. Quốc tế I tan rã năm 1876. Nhưng từ trong sự khủng hoảng, sự phát triển của lí luận thời kì này đã phá vỡ sự bế tắc trong phong trào công nhân, dẫn đến sự ra đời của Quốc tế II năm 1889. 
	Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt là sau khi Ph. Ăngghen qua đời, Quốc tế II phân thành phái hữu, phải tả và phái giữa. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, Quốc tế III ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng lần thứ hai.
b) Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông Âu
	Bắt đầu cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu rơi vào thời kì khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở đi, chủ nghĩa xã hội liên tiếp đổ vỡ ở Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và 6 nước Đông Âu sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng đồng thời diễn ra ở Mông Cổ và Albani.
	2. Nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết 
	a) Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Xô viết
	Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa Xô viết có các nguyên nhân sâu xa sau đây:
	Thứ nhất, sau khi V.I. Lênin qua đời, NEP không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thời kì đầu, kế hoạch hóa tập trung đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, nhưng càng về sau đã biến dạng chuyển thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động.
	Thứ hai, do chậm đổi mới cơ chế kinh tế và hệ thống quản lí nên gây hậu quả chậm phát triển về trình độ phát triển kinh tế, thể hiện trong lĩnh vực khoa học – công nghệ và năng suất lao động. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ năm 1991, Đảng ta đã chỉ rõ: “Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ”1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H 1991, tr 6.
 gây nên tình trạng trì trệ kéo dài về kinh tế – xã hội rồi đi tới khủng hoảng.
b) Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp
	Một là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên xô đã mắc sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức: hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Thực chất, trong cải tổ, những người lãnh đạo đã công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa, từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và vai trò của Đảng Cộng sản.
	Chủ trương “tăng tốc” về kinh tế để chấm dứt trì trệ nhưng không có câu trả lời đúng đắn, cải tổ rơi vào thế bế tắc. Từ cải tổ về kinh tế đã chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị, coi đây là chìa khóa cho mọi vấn đề. Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ 19 năm 1988, Đảng Cộng sản Liên xô chuyển trọng tâm sang cải tổ hệ thống chính trị trên cơ sở cái gọi là “tư duy chính trị mới”. Thực chất đây là sự thỏa hiệp vô nguyên tắc, là sự phản bội Chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội. Những người ngấm ngầm hoặc công khai thù địch với Chủ nghĩa Mác – Lênin chiếm các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và Nhà nước.
	Từ làn sóng phê phán công kích dẫn đến bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử trên 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ định sạch trơn những thành tựu mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được, gây hoang mang, xáo động đến cực độ tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của nhân dân vào chủ nghĩa xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyền đào bới, phủ định quá khứ, được báo chí phương Tây tiếp thêm sức mạnh, lái theo những ý đồ đen tối của họ.
	Hai là, chủ nghĩa đế quốc can thiệp một cách toàn diện vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên xô và các nước Đông Âu. Trong cuốn sách “Chiến thắng không cần chiến tranh” của Nickson, cho rằng: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”. Ông ta viết: “Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.
	Sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ trên bộ máy chóp bu là nguyên nhân trực tiếp làm cho Liên xô sụp đổ. Đây là hai nguyên nhân tác động cùng chiều, cộng hưởng, tạo nên một cơn lốc chính trị phá sập ngôi nhà xã hội chủ nghĩa.
III. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội 
1. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người
	Thứ nhất, bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Mặc dù trong mấy thập kỉ qua, do biết tự điều chỉnh và thích ứng, đặc biệt là sử dụng triệt để những thành tựu khoa học và công nghệ, các nước tư bản không chỉ vượt qua những cơn khủng hoảng mà còn có khả năng phát triển mạnh hơn, nhưng bản chất của họ vẫn là bóc lột vô nhân đạo, gây ra những ung nhọt không thể chữa khỏi. Trong cuốn sách “Ngoài vòng kiểm soát” xuất bản năm 1993, Brêdinxky đã cay đắng thừa nhận 20 khuyết tật của xã hội Mỹ vào thời điểm đó và dự báo Mỹ sẽ mất vai trò siêu cường quốc ở thế kỉ XXI. Trong các khuyết tật đó, nổi lên là chăm sóc y tế không đầy đủ, giáo dục trung học kém chất lượng, phân biệt chủng tộc, tội ác và bạo lực tràn lan, tinh thần trống rỗng làm cho xã hội khủng hoảng và vô phương cứu chữa. 
	Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn còn có đến 1,2 tỉ người tiếp tục chịu nghèo đói, bệnh tật, mù chữ, chiến tranh và mức thu nhập dưới 1 đô la/ngày/người; 2,5 tỉ người nghèo có tổng thu nhập chỉ bằng của 250 tỉ phú, triệu phú lớn nhất thế giới gộp lại; khoảng 1 tỉ người thất nghiệp ở các mức độ khác nhau. Chiến tranh, bệnh tật vẫn tiếp tục diễn ra, mà thủ phạm chủ yếu là các nước tư bản đế quốc.
	Thứ hai, các yếu tố xã hội chủ nghĩa đang xuất hiện trong lòng xã hội tư bản. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những yếu tố mới của nền văn minh hậu công nghiệp, kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển. Tính chất xã hội của sở hữu ngày càng gia tăng, sự điều tiết của nhà nước đối với thị trường ngày càng hữu hiệu. Tính nhân dân và xã hội của nhà nước ngày càng tăng lên. Những vấn đề phúc lợi xã hội và môi trường ngày càng được giải quyết tốt hơn. Có thể coi những đặc điểm trên đây là những yếu tố mới chứa đựng trong xã hội tư bản và xã hội tương lai.
2. Chủ nghĩa xã hội – tương lai của loài người
a) Liên xô và các nước Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội
	Sự sụp đổ của Liên xô và Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa, nó không đồng nghĩa với sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội mà loài người đang vươn tới.
b) Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn
	Khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ, các nước còn lại, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới tương đối thành công. Mặc dù đường lối cải cách và đổi mới của hai nước có sự khác biệt về nhiều phương diện, nhưng có các nét tương đồng sau:
	Thứ nhất, đã từ bỏ mô hình kinh tế tập trung, chuyển sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
	Thứ hai, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp với những cam kết quốc tế, thực hiện chế độ dân chủ, đặc biệt là dân chủ cơ sở theo hướng công khai, minh bạch.
	Thứ ba, xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ, đa dạng về nghề nghiệp, tôn giáo, văn hóa.
	Thứ tư, hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, Liên hợp quốc, các tổ chức khu vực.
	Thứ năm, đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. 
Trung Quốc đã tổng kết 30 năm cải cách mở cửa và Việt Nam 20 năm đổi mới, kinh tế – xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
c) Thế giới đã xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội
	Từ những năm 90 thế kỉ XX, nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Mỹ La tinh đã xuất hiện xu thế thiên tả và ngày càng phát triển mạnh thành một trào lưu đầu thế kỉ XXI. Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các chính phủ cánh tả tiến bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước La tinh. Trong số các nước đó, Venezuela đã tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội. Tháng 12 năm 2006, Tổng thống Hugo Chavez đã nhiều lần công khai tuyên bố đưa đất nước Venezuela đi lên chủ nghĩa xã hội với các nội dung cơ bản sau:
	- Về tư tưởng, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin , tư tưởng cách mạng của Ximôn Bôliva và tư tưởng nhân đạo thiên chúa giáo làm nền tảng.
	- Về chính trị, nhấn mạnh tư tưởng dân chủ nhân quyền trong đó nhân dân có trách nhiệm tham gia quyết định vận mệnh của đất nước, xây dựng một xã hội mà mọi người dân đều có chỗ đứng cho dù đó là một thổ dân.
	- Về kinh tế, thực hiện kinh tế nhiều thành phần, trong đó nhà nước và hợp tác xã nắm vai trò chủ đạo, nhấn mạnh việc giành lại chủ quyền quốc gia, dân tộc đối với tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ, nước sạch và môi sinh.
	- Về xã hội, thực hiện phân phối công bằng để giải quyết vấn đề bất bình đẳng và phân hóa xã hội.
	- Về đối ngoại, thúc đẩy khối đại đoàn kết Mỹ La tinh và quan hệ hữu nghị với tất cả các nước; lấy hợp tác thay cho cạnh tranh, lấy hội nhập thay cho bóc lột, đấu tranh vì một thế giới đa cực, dân chủ.
	- Về phương pháp, kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa xã hội không rập khuôn, sao chép, coi trọng kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cu ba.
 	Ecuado và Nicaragoa cũng đã tuyên bố lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội Mỹ La tinh thế kỉ XXI, dù là một hiện tượng nhưng cũng đã củng cố niềm tin về chủ nghĩa xã hội.
MỤC LỤC
 Trang
Chương mở đầu
Nhập môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
1
Phần thứ nhất
Thế giới quan và phương pháp luận triết học
của chủ nghĩa Mác - Lênin
Chương I: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
9
Chương II: Phép biện chứng duy vật
21
Chương III: Chủ nghĩa duy vật lịch sử
50
Phần thứ hai
Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin
về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Chương IV: Học thuyết giá trị
70
Chương V: Học thuyết giá trị thặng dư
83
Chương VI: Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền
 và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
123
Phần thứ ba
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội
Chương VII: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
 và cách mạng xã hội chủ nghĩa
148
Chương VIII: Những vấn đề chính trị-xã hội có tính quy luật 
 trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
166
Chương IX: Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng
182

File đính kèm:

  • docbai_giang_nhap_mon_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_mac.doc
Ebook liên quan