Báo chí và văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập Quốc tế
Tóm tắt Báo chí và văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập Quốc tế: ...Sự vận động phát triển của các lĩnh vực kinh tế, môi trường, khoa học công nghệ sẽ thúc đẩy quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá mà biểu hiện trước tiên là ở quy mô, ý nghĩa của giao tiếp thông qua các phương tiện báo chí truyền thông. Quá trình này đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, nhanh chóng và...Khi chất liệu văn học được tái tạo trong tác phẩm báo chí, các giá trị kết tinh phẩm chất nhân tính của con người được phổ biến, văn hoá dân tộc đi đến gặp gỡ văn hoá nhân loại. Phóng viên báo chí đã tìm về cội nguồn, tìm về kho tàng ước lệ cổ xưa để biểu đạt sinh động, thâm thuý điều họ muố... vừa phát triển. Một biểu tượng đặt trong ngữ cảnh này có một ý nghĩa nhất định, nhưng khi ngữ cảnh văn hoá thay đổi thì ý nghĩa của biểu tượng văn hoá không còn được giữ nguyên. Cho nên sử dụng biểu tượng đòi hỏi nhận thức và khả năng huy động vốn văn hóa xã hội của mỗi người cầm bút, khi đó ...
ng lịch sử văn hóa của nhân loại, báo chí xuất hiện không đồng thời ở các quốc gia. Những tờ báo đầu tiên xuất hiện ở châu Âu muộn hơn rất nhiều nếu so với những kiệt tác văn học đã xuất hiện từ trước Công nguyên, nhưng báo chí lại phát triển rất nhanh, mở rộng phạm vi thông tin và trở thành công cụ đắc lực cho việc tuyên truyền chính trị, phổ biến tri thức khoa học kĩ thuật. Đến cuối thế kỉ XX, thế giới đã có hơn 53.000 tờ báo, hàng ngày phát hành trên 830 triệu bản. Báo chí Việt Nam xuất hiện muộn hơn so với nhiều nước trên thế giới. Tờ báo đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn bằng tiếng Pháp là tờ Nam Kì Viễn Chinh Công Báo do thống đốc Pháp ở Nam Kì cho xuất bản, phát hành mỗi tuần một bản. Số đầu tiên được phát hành ngày 29/9/1861, đến năm 1888, tờ báo bị đình bản. Tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất bản năm 1865 cũng tại Sài Gòn là tờ Gia Định Báo. Tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo xuất bản năm 1892 ở Bắc Kì được in bằng chữ Nho. Kể từ đó, hàng loạt các báo xuất hiện khắp ba miền Nam, Trung, Bắc. Tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam là tờ Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc xuất bản tại Quảng Châu năm 1925, đặt nền móng cho sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam. Từ đó cho đến nay, báo chí Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hiện nay cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí với hơn 800 ấn phẩm khác nhau: trên 170 báo, hơn 500 tạp chí các loại. Hơn 15.000 người được cấp thẻ nhà báo, hàng ngàn cán bộ kĩ sư làm việc trong các cơ quan báo chí, hàng chục nghìn người khác là cộng tác viên. Đặc biệt có khoảng 150 báo điện tử và các trang tin điện tử của các cơ quan báo chí và hàng ngàn trang website của các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả, đưa thông tin đến mọi miền của đất nước. Các loại hình báo chí của Việt Nam đều phát triển với tốc độ nhanh chóng khiến báo chí trở thành một phương tiện đặc biệt của sự tương tác xã hội, có vai trò và sức mạnh ngày càng lớn trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống. Quá trình sáng tạo một tác phẩm báo chí có liên quan mật thiết đến những công việc của người nghệ sĩ khi sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật bởi tác phẩm báo chí chính là sản phẩm của sáng tạo văn hóa, nó chứa đựng những điều kì diệu mà đôi khi không thể nhận thức được bằng lý trí. Điều kì diệu ấy làm nên sức hấp dẫn của báo chí, bởi tài năng và thế giới quan trong quá trình sáng tạo một tác phẩm báo chí xuất phát từ tài năng của người cầm bút, tạo nên đặc trưng hình tượng và tính truyền cảm cho tác phẩm báo chí. Người làm báo là người biết quan sát, là người có trí tưởng tượng sáng tạo, có những năng lực tư duy, có sự tích lũy tri thức, có vốn hiểu biết văn hóa xã hội sâu rộng. Sáng tạo ra tác phẩm báo chí là kì công và sau khi tác phẩm được hoàn thành nó sẽ được gửi tới độc giả như là một thông điệp để tác động đến tư tưởng tình cảm con người. Quá trình sáng tạo đó đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc khách quan gắn với đặc trưng mỗi loại hình báo chí, gắn với cá tính sáng tạo và khả năng sáng tạo của chủ thể bởi mỗi người làm báo đều có một hoàn cảnh sống, một lĩnh vực quen thuộc, một phong cách sáng tạo riêng. Sáng tạo là hoạt động tạo ra cái mới, là biến đổi diện mạo của thế giới khách quan, nhân hóa thế giới đó để nó trở thành sản phẩm văn hóa phù hợp với quan niệm thẩm mỹ, nhận thức của con người và nhằm hướng tới phục vụ con người. Lao động sáng tạo trong hoạt động báo chí đòi hỏi người làm báo phải luôn luôn tự nâng cao vốn kiến thức xã hội, luôn có khát vọng vươn xa để tích lũy và mở rộng tầm hiểu biết, phải có một năng lực tư duy sắc sảo và biện chứng để biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, nắm bắt quy luật tự nhiên để cải tạo tự nhiên. Báo chí với tư cách là sản phẩm văn hóa có chức năng đặc biệt quan trọng, nó không chỉ mang tính định hướng xã hội, nó còn thể hiện khả năng nhìn nhận và thẩm định đời sống hiện thực xã hội ấy một cách biện chứng và sâu sắc. Báo chí mang đến cho ta những thông tin chính trị xã hội văn hoá đã và đang diễn ra trên thế giới từng ngày, từng giờ. Nghề làm báo hôm nay không thể khép mình trong văn hoá nội sinh, mà phải biến báo chí thành cầu nối, đưa văn hoá dân tộc lên tầm cao nhân loại, phải thu vào trang báo cả thế giới trong chiều sâu vô tận và chiều rộng vô cùng. Việt Nam hôm nay đã chính thức bước vào ngôi nhà chung kinh tế toàn cầu, WTO sẽ tạo ra nhiều thay đổi cho hoạt động báo chí Việt Nam. Sự vận động phát triển của các lĩnh vực kinh tế, môi trường, khoa học công nghệ sẽ thúc đẩy quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá mà biểu hiện trước tiên là ở quy mô, ý nghĩa của giao tiếp thông qua các phương tiện báo chí truyền thông. Quá trình này đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, nhanh chóng và sôi động. Tri thức văn hoá của mỗi quốc gia trở thành tài sản chung của cả nhân loại, làm giàu cho nhau bằng sự thâm nhập, tái sinh rồi lại trở về với văn hoá dân tộc, gõ cửa mỗi tâm hồn theo nhiều phương thức, phương tiện khác nhau. Bên cạnh hàng trăm, hàng nghìn bài báo in xuất hiện hàng ngày, hàng giờ là sách báo điện tử, điện ảnh, tivi, hệ nối mạng Văn hoá đọc đang bị cạnh tranh khốc liệt bởi sự hiện diện của văn hoá máy tính. Con người ngày càng được mở rộng tầm nhận thức, nâng cao sự hiểu biết của mình. Họ có quyền lựa chọn thông tin theo cách mà họ cho là phù hợp và hấp dẫn. Điều này khiến người cầm bút trong sáng tạo báo chí hôm nay phải tự đổi mới, tự nâng cao để không bị bỏ quên. Trong dòng đời sôi động, muôn màu hôm nay, trang báo đơn sơ với những mô típ quen thuộc chứa đựng thông tin cần thiết không còn hấp dẫn độc giả nữa. Báo chí phải tự làm mới mình. Báo chí Việt Nam ngày càng khằng định vị thế của mình trên diễn đàn văn hoá xã hội, diện phổ cập ngày càng sâu rộng. Báo Việt không chỉ của người Việt mà đã trở thành bạn tâm giao của nhiều bạn đọc trên thế giới, bởi người nước ngoài sống, làm việc và du học ở miền đất diệu kỳ Việt Nam ngày càng nhiều. Văn hoá Việt vốn trọng tình hiếu khách. Còn cách thể hiện nào sâu sắc hơn tình cảm với du khách Pháp khi báo chí Việt Nam dùng tên tác phẩm “Ba chàng ngự lâm pháo thủ” của A. Đuyma đặt tên cho tít báo của mình? Và không riêng người Mỹ có cảm giác ấm nồng khi bắt gặp trên trang báo tiếng Việt dòng tên tác phẩm “Cuốn theo chiều gió”. Người Việt Nam đắm say trong “Mùa thu vàng” của Lêvitan, người Nga mỉm cười tin cậy khi nhận thấy ngọn lửa từ “Trái tim Đancô” của họ đang toả sáng trên phố cổ Hà thành Việt Nam. Báo chí có khả năng đánh thức trong mỗi bạn đọc những rung cảm sâu xa nhất, những liên tưởng kì thú nhất. Bằng cách ấy, báo chí nối liền những trái tim, nối liền những nền văn hoá khác biệt. Sức mạnh của báo chí khi sử dụng điển tích văn học thế giới dưới góc nhìn văn hoá xã hội là sức mạnh màu nhiệm của triết lý hoà hợp, hoà bình, triết lý nghệ thuật. Mỗi điển tích không chỉ gắn với một mã văn hoá mà nó thực sự mở ra một vùng văn hoá, bởi khả năng tái sinh, mở rộng trường nghĩa dưới bàn tay tinh tế của người viết là vô cùng. Mỗi trang báo ẩn chứa giá trị văn hoá Việt, một vẻ đẹp bình dị mà sâu xa. Nó không chỉ cung cấp thông tin, không nhằm đơn thuần giải trí, mà còn góp phần bồi dưỡng nguồn nhân lực, nghĩa là nâng cao nhận thức cho người đọc nguời viết, cung cấp kiến thức sâu rộng cho bạn đọc xa gần. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng luôn đón chờ mỗi trang báo Việt với bao khao khát, tin cậy sẻ chia. Điển tích văn học thế giới đi vào trang báo Việt Nam với nhiều dạng thức, cấp độ và trường nghĩa khiến chiều kích trang báo được nâng lên, sức hấp dẫn lớn hơn, chất trí tuệ sâu sắc hơn. Chất liệu văn học thế giới sẽ làm giàu thêm văn hoá dân tộc, giúp người làm báo đưa tri thức đến với người đọc một cách nghệ thuật và khoa học, giúp người đọc nâng cao văn hoá lối sống của mình. Sử dụng điển tích văn học thế giới trong tác phẩm báo chí là cách để báo chí Việt Nam nâng mình ngang tầm quốc tế, là động lực cho báo chí phát triển. Bởi quá trình quốc tế hoá thông tin không chấp nhận việc báo chí đứng ngoài cuộc. Vai trò của báo chí đồng thuận với sự phát triển của xã hội; xã hội nào thì báo chí ấy. Mối quan hệ tương tác ấy cho thấy chức năng nhận thức - giáo dục - thẩm mỹ của báo chí Việt Nam thật lớn lao. Công chúng là chủ thể thẩm định đánh giá tác phẩm sẽ khám phá, đồng sáng tạo với nhà báo. Mỗi bạn đọc có một vốn văn hoá, một quan niệm, một thị hiếu riêng, điển tích văn học thế giới sẽ được tái tạo qua màng lọc văn hoá đọc ở Việt Nam, trở nên mới mẻ và sâu sắc, làm giàu thêm lớp nghĩa tường minh vốn có ở nền văn hoá phát sinh điển tích. Những kiệt tác văn chương xưa nay luôn chứa đựng những tri thức vô cùng quý giá về cuộc sống, có ý nghĩa đặc biệt trong việc phản ánh diện mạo lịch sử văn hoá nhân loại. Tác phẩm văn học lưu trữ và trao truyền mã văn hoá cho tương lai thông qua giao tiếp bằng truyền thông báo chí. Khi chất liệu văn học được tái tạo trong tác phẩm báo chí, các giá trị kết tinh phẩm chất nhân tính của con người được phổ biến, văn hoá dân tộc đi đến gặp gỡ văn hoá nhân loại. Phóng viên báo chí đã tìm về cội nguồn, tìm về kho tàng ước lệ cổ xưa để biểu đạt sinh động, thâm thuý điều họ muốn nói thời nay. Báo chí đưa chất liệu văn học thế giới đến với bạn đọc và chính chất liệu văn học giúp báo chí ở lại cuộc sống với ý nghĩa trang báo – trang đời. Báo chí tìm đến với văn hóa là tìm đến với khuôn vàng thước ngọc để tìm kiếm một sức sống mới, để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến mà đậm đà bản sắc, nền văn hoá trí tuệ Việt Nam. 2. Báo chí và quá trình hội nhập quốc tế Báo chí là yếu tố văn hóa ngoại sinh khi văn hóa Việt Nam cấu trúc lại chính mình trong giao lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây. Điều này đã mặc nhiên đặt ra một nhiệm vụ cho đội ngũ những người làm báo: để nâng cao tính chuyên nghiệp của báo chí, người làm báo không chỉ phải có vốn văn hóa dân tộc sâu sắc, mà còn phải trang bị cho mình vốn văn hóa xã hội mang tính quốc tế thông qua kĩ năng khai thác và sử dụng tri thức văn hóa nhân loại. Vấn đề này lại càng trở nên cấp thiết khi báo chí Việt Nam bước vào thời kì hội nhập quốc tế, thế giới đang trở nên “phẳng” bởi sự bùng nổ thông tin. Báo chí phải tận dụng được những lợi thế và vượt qua rào cản văn hóa trong quá trình hội nhập toàn cầu, để thực sự trở thành động lực góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt báo chí Việt Nam trước một nhiệm vụ khó khăn, đó là phải nâng cao tính chuyên nghiệp nếu muốn tồn tại và phát triển song song với sự vận hành của cuộc sống. Văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới khi tham gia vào lao động sáng tạo báo chí của người làm báo, góp phần định hình phong cách của nhà báo. Người Việt Nam là công chúng của báo chí Việt Nam, họ vốn có thiên hướng tư duy giàu màu sắc hình tượng, trạng thái tư duy thiên về hình tượng hóa ấy là cơ sở cho mối quan hệ tương tác mật thiết giữa văn hóa và báo chí. Sáng tạo báo chí cũng chính là sáng tạo văn hóa, mà mọi hoạt động sáng tạo cua con người đều tuân theo một quy luật chung, đó là quy luật của cái đẹp. Cho nên tác phẩm báo chí muốn thành công là phải mang hơi thở sự sống, là phải nói đúng nói hay, là phải phản ánh hiện thực cuộc sống không chỉ trên bình diện hiện thời, mà còn chú trọng chiều sâu đa diện đa tầng. Văn hóa đã đem đến cho báo chí nguồn nội lực và sức mạnh để báo chí hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, từ hệ thống đề tài bất tận đến cả một kho tàng điển tích vô giá với bao nhiêu tri thức của nhân loại xưa và nay. Tri thức văn hóa được khai thác và vận dụng trong tất cả các thành phần của tác phẩm báo chí, có thể là từ việc đặt tên tác phẩm bằng thành ngữ tục ngữ, bằng ca dao - nhưng sáng tạo kết tinh trí tuệ và tình cảm của nhân dân. Khi hóa thân vào tác phẩm báo chí, những sáng tạo ấy hoặc được sử dụng y nguyên hoặc tái tạo lại nó khiến bài báo vừa quen thuộc vừa mới mẻ hấp dẫn, thu hút sự chú ý của công chúng. Chúng lặn sâu vào ngòi bút của phóng viên, hóa thân trong sa pô, trong rut tit, trong nội dung bài báo. Đôi khi tên tác giả tác phẩm, tên nhân vật văn học trở thành tên gọi của một tác phẩm báo chí, đôi khi điển tích điển cố văn chương vốn giàu giá trị biểu cảm, giàu hình ảnh sinh động được sử dụng để kết thúc tác phẩm, tác động tâm lý đối với người đọc sẽ đạt hiệu quả rất cao. Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là sử dụng một hình tượng nào đó như một dấu hiệu nhằm diễn đạt một ý nghĩa mang tính trừu tượng. Khi những biểu tượng này hóa thân vào trang báo, dòng tin khô khan sẽ trở nên mềm mại, tác động không chỉ vào trí não con người, mà con khơi gợi và đánh thức những rung động sâu xa, những khát vọng cao đẹp. Sức mạnh của biểu tượng khi ấy sẽ lớn hơn mọi lời truyền lệnh, nó sẽ liên kết những trái tim cho con người sống thật người hơn. Biểu tượng được hiểu là hình ảnh được tái hiện, được hình dung lại với những thuộc tính nổi bật của sự vật hiện tượng, gắn với một môi trường văn hoá cụ thể, mang giá trị tinh thần. Tác phẩm báo chí là sản phẩm văn hóa mà văn hoá là thế giới thứ hai, thế giới do hoạt động sáng tạo của con người tác động vào tự nhiên mà sinh thành. Vấn đề là ở chỗ ý nghĩa của biểu tượng sẽ phát sinh trong ngữ cảnh, trong môi trường văn hoá mới, mà văn hoá lại vừa ổn định vừa phát triển. Một biểu tượng đặt trong ngữ cảnh này có một ý nghĩa nhất định, nhưng khi ngữ cảnh văn hoá thay đổi thì ý nghĩa của biểu tượng văn hoá không còn được giữ nguyên. Cho nên sử dụng biểu tượng đòi hỏi nhận thức và khả năng huy động vốn văn hóa xã hội của mỗi người cầm bút, khi đó biểu tượng văn hóa sẽ trở thành thước đo năng lực sáng tạo của nhà báo. Biểu tượng văn hoá được sử dụng với chức năng thay thế, thay cho những câu trả lời bằng những biểu tượng văn hoá để làm phong phú thêm cho khám phá nhận thức. Biểu tượng văn hoá đồng thời thực hiện chức năng giao tiếp nhằm giúp con người liên kết lại với nhau, giúp con người hoà đồng với môi trường xã hội, biểu thị được những giá trị đã trở thành chuẩn mực văn hoá của cộng đồng. Trên trang báo Việt Nam, hình ảnh “Trái tim Đancô” cũng mang giá trị văn hóa linh thiêng như vai trò của nó trong đời sống tinh thần của văn hóa Nga. Người làm báo mượn hình ảnh nhân vật đã trở thành biểu tượng văn hóa không phải là để sao chép một phiên bản, mà là để khám phá linh hồn cuộc sống bằng quyền năng của nghệ sĩ ngôn từ trong hoạt động sáng tạo báo chí. Nếu coi văn hoá là một quan hệ thì đó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một cá nhân, một tộc người so với một cá nhân khác, một tộc người khác. Sự lựa chọn ấy làm nên bản sắc của mỗi nền văn hoá. Hiểu như vậy thì một nền văn hoá luôn mang trong nó các hệ thống biểu tượng vừa có tính ổn định tương đối vừa luôn biến đổi. Biểu tượng văn hoá phải được xem xét trong mối liên hệ phổ biến và sự vận động phát triển. Khi đi vào tác phẩm báo chí, biểu tượng văn hoá lại phát sinh một đời sống riêng, bởi sản phẩm của hoạt động sáng tạo tác phầm báo chí vừa tuân theo chuẩn mực của quy luật xã hội, vừa là dấu ấn cá tính sáng tạo độc đáo tự do. Tác phầm báo chí vì thế là kết quả của sự hợp nhất giữa cá nhân và cộng đồng, giữa khách thể và chủ thể, giữa vô thức và ý thức. Nếu coi văn hoá của một dân tộc sản sinh ra các biểu tượng gốc thì khi biểu tượng này được sinh thành trong văn hoá nghệ thuật, nó đã có quá trình dịch chuyển biến đổi. Biểu tượng nghệ thuật là những hình ảnh, những tín hiệu, những sắc màu trong tác phẩm nghệ thuật có tính khái quát và phổ biến, có khả năng gợi ra hình ảnh khác, đặc trưng khác với đối tượng biểu hiện. Biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật được nuôi dưỡng bằng tư duy thẩm mỹ và năng lực sáng tạo của nghệ sĩ mà thước đo tư duy và năng lực sáng tạo ấy ở mỗi người mỗi khác nhau. Có thể trong một môi trường văn hoá nhưng ý nghĩa của biểu tượng trong tiếp nhận của mỗi người, mỗi nhóm người với tư cách là chủ thể sáng tạo vừa đồng nhất vừa khác biệt. Đó là bởi biểu tượng trong thế giới nghệ thuật phải vừa độc đáo khác biệt vừa thống nhất và phổ biến, nó được sử dụng như một ẩn dụ mang tính quy ước. Biểu tượng như là một đơn vị cơ bản của văn hoá. Giá trị của biểu tượng được xác định nằm trong chính sự chuyển vượt từ cái cụ thể sang trừu tượng, cái đã biết sang cái chưa biết, cái tường minh sang cái hàm ẩn. Biểu tượng được sáng tạo dựa vào năng lực tượng trưng hoá của con người theo cách dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa kia nhằm để nhận thức và khám phá một giá trị nào đó theo qui ước bất thành văn, nhưng chính qui ước đó lại qui định mọi hành vi ứng xử và giáo tiếp của con người, đồng thời liên kết họ thành một cộng đồng riêng biệt bởi một cảm quan văn hoá đồng nhất. Với người Việt Nam thì Quốc tử giám là biểu tượng thiêng liêng của truyền thống ngàn năm văn hiến, tôn trọng hiền tài là nguyên khí quốc gia. Hồ Gươm là nơi quy tâm của muôn triệu con tim bởi lòng yêu nước, bởi tinh thần quật khởi quật cường, hồ Gươm là nơi lắng hồn núi sông ngàn năm. Truyền thuyết về cha Rồng mẹ Tiên có khả năng truyền lệnh kì diệu, bởi đó là cội nguồn huyết thống. Mỗi biểu tượng được hiểu như là hình ảnh tượng trưng được cả cộng đồng chấp nhận và đồng thuận về hàm nghĩa, được sử dụng trong một không gian rộng và thời gian dài. Các giá trị, các chuẩn mực được kết tinh trong lòng các biểu tượng chính là yếu tố cốt lõi làm nên bản sắc văn hoá của cộng đồng dân tộc, định hướng cho sự tìm kiếm hoặc lựa chọn quan hệ ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội. Văn hóa chính là kho tàng tri thức của nhân loại, là sản phẩm sáng tạo của con người tuân theo quy luật giá trị. Bởi vậy để quá trình nhận thức về vai trò của văn hóa đối với hoạt động thực tiễn của người làm báo, người làm báo phải có những năng lực then chốt, cơ bản nhất. Đó là năng lực thu thập, phân tích, chọn lọc và xử lý thông tin, đánh giá về các thông tin trên mọi phương diện để rồi truyền bá một cách có hiệu quả những thông tin đó để liên kết và tác động tới người khác nhằm chia sẻ thông tin, giải quyết các vấn đề đặt ra. Phải có năng lực cảm thụ văn hóa nghệ thuật thì mới có năng lực chọn lọc và kế thừa những tinh hoa văn hóa nghệ thuật kết tinh trong kho tàng văn hóa thế giới. Từ đó người làm báo sẽ sáng tạo ra những giá trị mới, đưa những tri thức khai thác và thẩm định được vào trong lao động sáng tạo của nghề báo. Làm báo trong thời kỳ hội nhập, giao lưu văn hóa toàn cầu hôm nay không thể không chú ý tới mối quan hệ tương tác biện chứng giữa văn hóa và báo chí và vấn đề nâng cao tính văn hóa của đội ngũ người làm báo để đáp ứng yêu cầu của chính cuộc sống bởi không gian báo chi Việt Nam đã vươn xa, vươn rộng khắp hoàn cầu. Bạn đọc là công chúng tiếp nhận cũng ngày càng có yêu cầu cao hơn về chất lượng và tính chuyên nghiệp của báo chí. Sự bùng nổ thông tin đã thổi vào đời sống báo chí Việt Nam một luồng sinh khí, để báo chí Việt Nam không chỉ có mối quan hệ mật thiết với văn hóa Việt Nam mà còn có quan hệ trực tiếp và sâu rộng với văn hóa thế giới. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ 11 đã xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng của nước ta trong tương lai là chăm lo phát triển văn hóa, trong đó chú trọng tới vấn đề văn hóa báo chí : “Tập trung đào tạo bồi dưỡng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới...Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, báo chí, xuất bản. Xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài.”1. 1 Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ 11- Nxb. Chính trị quốc gia- Hà Nội 2011- trang 226
File đính kèm:
- bao_chi_va_van_hoa_viet_nam_trong_qua_trinh_hoi_nhap_quoc_te.pdf