Con người trong quan niệm của phật giáo và triết học hiện sinh của Aartre: Cái nhìn đối sánh

Tóm tắt Con người trong quan niệm của phật giáo và triết học hiện sinh của Aartre: Cái nhìn đối sánh: ...hận thức và tuân theo quy luật khách quan. Tự do của con ng−ời chỉ có thể đạt đ−ợc trong việc tìm kiếm một nghệ thuật sống ở đời bằng cách không bao giờ chấp nhận một giá trị tự định sẵn nào. Tự do là tuyệt đối, không cần có nguyên nhân, không cần có cơ sở, nó đòi hỏi độc lập và đoạn t...g−ời ban vui cứu khổ cho ta. Phật giáo cho rằng trong xã hội có ng−ời yểu tử, có kẻ lại sống lâu, có ng−ời bệnh tật, kẻ khác lại khỏe mạnh, kẻ xinh đẹp, ng−ời xấu xí, kẻ giàu sang, ng−ời nghèo khổ. Đó không phải là sự bất bình đẳng hay số phận mà tạo hóa ban cho mà đó là do nghiệp của ...18 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 18 cố định. Theo Sartre, con ng−ời và sự hiện diện của con ng−ời chẳng khác nào một tiến trình năng động bởi ý thức và tạo tác (hoạt động) của chính nó. Bản tính của con ng−ời chính là một dòng t−ơng tục của thân thể và tâm thức của con ng−ời mà kh...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 109 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Con người trong quan niệm của phật giáo và triết học hiện sinh của Aartre: Cái nhìn đối sánh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và những 
chuẩn tắc xác định mà tính tuyệt đối là 
không thể bác bỏ đ−ợc. Tự ý thức của con 
*. Khoa Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính 
khu vực IV 
T 
14 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 
 14
ng−ời đ−ợc thông qua sự đối chiếu với 
những giá trị tuyệt đối đó. Vì vậy, con 
ng−ời thực sự không có khả năng v−ợt 
qua hàng rào của những sự siêu hợp lí 
hóa để đến với bản thân mình, đến với sự 
hiện sinh của mình. Khi cố hiểu một cái 
gì đó về mình, con ng−ời bị sa lầy trong 
mạng l−ới những chuẩn tắc, những giá 
trị, những quan niệm về nhân sinh quan 
của thời đại mình. Và vì vậy, từ lâu con 
ng−ời đã không còn biết nó có thể cảm 
nhận cái gì và mong muốn cái gì (hiểu 
về bản thân mình) nh−ng nó biết rất rõ 
là mình cần phải cảm nhận, mong muốn 
và làm gì ở mỗi thời điểm. Họ cố gắng 
làm cho toàn bộ cuộc sống có ý nghĩa 
của mình phù hợp với những quy tắc của 
xã hội song điều đó chỉ làm cho con 
ng−ời thêm đau khổ do không đạt tới lí 
t−ởng. Những ng−ời chỉ biết hành động 
và suy nghĩ theo những tiền đề, quy tắc 
có sẵn ấy theo Sartre là những ng−ời 
ch−a tự ý thức mình là những nhân vị 
độc đáo, ch−a ý thức về địa vị và thiên 
chức làm ng−ời của mình. Cuộc sống nh− 
vậy chẳng khác gì cuộc sống của cây cỏ, 
động vật. Con ng−ời nh− vậy chẳng khác 
gì một sự vật xuất hiện mà không có sự 
tham gia của ý thức và sự hiện sinh của 
nó. Khi con ng−ời phát hiện ra điều này, 
nó thấy mình nh− “bị bỏ rơi”, trở thành 
“vô gia c−” và trở nên cô độc trong một 
thế giới xa lạ và lạnh nhạt. 
Với Phật tổ thì “Đời là bể khổ, hữu 
sinh hữu khổ”, “n−ớc mắt chúng sinh 
nhiều hơn n−ớc biển”. Và sở dĩ con ng−ời 
phải vật lộn trong bể khổ trầm luân là 
do những ham muốn, dục vọng và vô 
minh. Vì vô minh nên con ng−ời không 
biết rõ bản chất thực sự của mọi đối 
t−ợng trên đời này chỉ là giả, không thực 
vì vậy con ng−ời mới tham muốn chiếm 
đoạt và làm nô lệ vào chúng. Nh−ng các 
tham muốn đó không bao giờ đ−ợc thỏa 
mãn (vì lòng tham vô đáy, có một muốn 
hai, có hai muốn ba, muốn bốn). Qua 
những phản ứng không thích nghi (do 
tham không đ−ợc thì giận dữ, bực tức - 
sân, cả giận mất khôn, khiến con ng−ời 
mê mờ tâm tính - si) tạo ra sự buồn khổ 
và thất vọng cho chính mình và gây đau 
khổ cho ng−ời khác. Nh−ng tham, sân, si 
không phải là những gì trừu t−ợng chỉ 
hiện hữu trong tâm lí con ng−ời mà còn 
thể hiện qua lời nói, cử chỉ, tâm ý tạo ra 
nghiệp xấu. Nghiệp xấu này lôi con 
ng−ời đi trong vô l−ợng kiếp nữa. Vì còn 
dục vọng thì con luân hồi, còn luân hồi 
thì còn khổ. Vì vậy, vô minh và dục vọng 
không chỉ gây đau khổ cho con ng−ời 
trong kiếp này (hiện tại) mà còn cả 
trong kiếp khác (t−ơng lai), không chỉ 
gây đau khổ cho chính họ mà còn cho 
ng−ời khác. Nh− vậy, chính vô minh và 
dục vọng là sợi dây trói buộc con ng−ời 
với mọi khổ đau. 
Từ cái nhìn đó, cả Sartre và Phật tổ 
đều mong muốn giải thoát cho con 
ng−ời, đem đến sự tự do cho con ng−ời. 
Đức Phật từng nói: “N−ớc biển ngoài 
khơi chỉ có một vị mặn, đạo của ta dạy 
đây cũng chỉ có một vị là giải thoát”. Còn 
Sartre thì đòi hủy bỏ mọi l−ợc đồ văn 
hóa mang tính tuyệt đối, giải phóng ý 
thức con ng−ời khỏi sự áp chế, đè nén 
của chúng và mở ra cho con ng−ời khả 
năng đạt tới sự tự do tuyệt đối. Sartre đòi 
hỏi tự do tuyệt đối cho mỗi cá nhân thoát 
Hà Thị Thùy D−ơng. Con ng−ời trong quan niệm 15 
 15
khỏi sự ràng buộc của mọi quy tắc xã 
hội. Tuy nhiên, quan niệm về tự do của 
Sartre và Đức Phật không hoàn toàn 
trùng khớp. 
Khái niệm về mất tự do trong đạo 
Phật là sự bị trói buộc, bị v−ớng mắc vào 
dục vọng, sân hận. Cho nên tự điều phục 
mình, chế ngự bản năng dục vọng của 
mình, tự chiến thắng mình là sự tự v−ơn 
tới tự do. Ng−ời có tự do là ng−ời sống 
trong cuộc đời vô th−ờng, vô ngã, bất 
tịnh, đau khổ với bao nhiêu thăng trầm 
sinh tử, mà không thấy có vô th−ờng, vô 
ngã, bất tịnh, đau khổ với bao nhiêu 
thăng trầm sinh tử ấy. Còn với Sartre, tự 
do là nguyên tắc chủ đạo của tồn tại 
ng−ời, là cái phân biệt con ng−ời với mọi 
cái tự nhiên. Theo ông, tự do là sáng tạo, 
chứ không phải vận động máy móc theo 
con đ−ờng tiến hóa, nó loại bỏ bất kì một 
khuôn mẫu có sẵn nào. Tự do không bị 
giới hạn bởi điều kiện và khă năng hoạt 
động của con ng−ời, không dựa trên cơ sở 
nhận thức và tuân theo quy luật khách 
quan. Tự do của con ng−ời chỉ có thể đạt 
đ−ợc trong việc tìm kiếm một nghệ thuật 
sống ở đời bằng cách không bao giờ chấp 
nhận một giá trị tự định sẵn nào. Tự do là 
tuyệt đối, không cần có nguyên nhân, 
không cần có cơ sở, nó đòi hỏi độc lập và 
đoạn tuyệt với quá khứ. Tự do là tự do lựa 
chọn và quyết định trong những tình 
huống nhất định. Tự do không phải là kết 
quả của hành động mà nó bao hàm ở 
chính trong khát vọng của mình. Trở 
thành ng−ời tự do không có nghĩa là có 
đ−ợc tất cả những gì mình mong muốn, 
đó chỉ là ở vào tâm trạng mong muốn 
chính cái mình yêu thích “thành công 
hoàn toàn không quan trọng đối với tự 
do”(1). Tự do theo Sartre là tự do lựa chọn 
sự tồn tại của mình, biểu hiện ở khả năng 
lựa chọn quan hệ của mình với một tình 
huống nhất định. Hoàn cảnh tự nó không 
hạn chế sự tự do của chúng ta mà chỉ có 
chúng ta cảm nhận nó với t− cách là hạn 
chế, là trở ngại của tự do. Nh− vậy, vấn đề 
tự do của con ng−ời theo Sartre và Đức 
Phật đều mang tính chủ quan, nó đều là 
sự v−ợt lên trên hoàn cảnh của con 
ng−ời. Con ng−ời tự do theo Phật tổ là 
con ng−ời không bị lệ thuộc vào bất cứ 
thứ gì, có khả năng sống trong xã hội 
đau khổ mà không cảm thấy đau khổ. 
Còn với Sartre, tự do thể hiện ở chỗ con 
ng−ời có thể thể hiện sự sáng tạo, cá tính 
độc đáo của mình, không phục tùng theo 
những quy tắc đã định sẵn. Những tiêu 
chuẩn khách quan nào đó có sẵn, ở bên 
ngoài con ng−ời là những vật cản thủ 
tiêu sự tự do của con ng−ời. 
Để đạt tới sự tự do ấy, cả Sartre và 
Phật tổ đều đề cao vai trò của con ng−ời 
khi khẳng định rằng chỉ có con ng−ời và 
chính con ng−ời mới có thể tự giải 
phóng mình khỏi mọi sự ràng buộc đang 
bủa vây lấy họ. Các học thuyết của các 
ông đều phủ nhận vai trò của Th−ợng Đế, 
của định mệnh hay một yếu tố nào đó 
bên ngoài con ng−ời trong việc giải 
thoát cho con ng−ời. Việc con ng−ời có 
thể giải thoát, có thể đạt tới sự tự do hay 
không là nằm trong tay mỗi ng−ời. 
Với Sartre, con ng−ời chỉ có thể có tự 
do khi thể hiện đ−ợc sự hiện sinh của 
mình, tính độc đáo không lặp lại về nhân 
cách con ng−ời cá nhân. Con ng−ời phải 
để lại dấu vân tay của mình trong mỗi 
1. J. P. Sartre, Tồn tại và h− vô, Matxcơva, tr. 563. 
16 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 
 16
hành động, phải tìm thấy chính mình 
trong những hoàn cảnh đặc thù. Nh−ng 
con ng−ời không thể trở thành một hiện 
sinh trung thực nếu không tự mình 
khám phá ra điều đó. Không có một tiền 
lệ hay cẩm nang h−ớng dẫn con ng−ời 
trên con đ−ờng khó nhọc và đầy lo âu trở 
thành chính mình. Sứ mệnh trở thành 
bản ngã của chính mình đòi hỏi con 
ng−ời sự quyết định, cam kết, dấn thân. 
Nh− vậy, theo Sartre chính con ng−ời 
thông qua hoạt động của mình có thể tự 
giải thoát cho mình khỏi mọi ràng buộc 
của các quy tắc xã hội. Đức Phật cũng 
khẳng định tính tự lực của con ng−ời 
trong hành trình v−ơn tới sự tự do, thoát 
khỏi bể khổ trầm luân. Đức Phật tuyên bố: 
“Nh− Lai chỉ là ng−ời chỉ đ−ờng, mỗi 
ng−ời phải tự đi đến, không ai đi thế cho 
ai đ−ợc”, “Hãy tự thắp đuốc mà đi, hãy 
n−ơng tựa vào chính mình vì Nh− Lai chỉ 
là ng−ời dẫn đ−ờng” (Kinh Niết Bàn). Đức 
Phật không bao giờ tuyên bố Ngài là đấng 
cứu rỗi. Ngài chỉ là ng−ời tìm ra con 
đ−ờng giải thoát và chỉ dạy cho chúng ta 
về con đ−ờng đó (đó là thực hiện Bát chính 
đạo, hay Tam học: Giới - Định - Tuệ). 
Nh−ng chính chúng ta phải tự mình tiến 
b−ớc trên con đ−ờng đầy gian khổ ấy. Sự 
giác ngộ là giây phút bừng sáng của trí 
tuệ của mỗi cá nhân, là sự trải nghiệm của 
từng cá nhân. 
Không chỉ đề cao vai trò của con 
ng−ời bằng việc khẳng định năng lực tự 
giải thoát của con ng−ời mà cả Phật giáo 
và triết học hiện sinh của Sartre đều tin 
t−ởng vào khả năng của con ng−ời trong 
việc sáng tạo ra chính mình và quyết 
định vận mệnh của họ thông qua hoạt 
động của chính họ. Hai học thuyết này 
đều phủ nhận vai trò của Th−ợng Đế 
trong cuộc sống của con ng−ời. Phật giáo 
quan niệm con ng−ời là Th−ợng Đế của 
chính mình. Bởi vì chỉ có mình mới có 
thể quyết định và thay đổi vận mệnh của 
mình bằng cách cải biến nghiệp căn. Do 
đó, hạnh phúc hay đau khổ là do chính 
chúng ta tự tạo lấy cho mình. Hễ mình 
tạo nghiệp nhân gì, thì mình phải chịu 
quả nghiệp ấy, chứ không ai có thể cầm 
cân th−ởng phạt, ban ph−ớc hoặc giáng 
họa cho mình cả. Không ai có thể thay 
đổi hoặc sắp đặt cuộc khổ vui, chỉ có ta 
mới là ng−ời ban vui cứu khổ cho ta. 
Phật giáo cho rằng trong xã hội có 
ng−ời yểu tử, có kẻ lại sống lâu, có ng−ời 
bệnh tật, kẻ khác lại khỏe mạnh, kẻ xinh 
đẹp, ng−ời xấu xí, kẻ giàu sang, ng−ời 
nghèo khổ. Đó không phải là sự bất bình 
đẳng hay số phận mà tạo hóa ban cho mà 
đó là do nghiệp của con ng−ời gây ra từ 
đời tr−ớc. Nghiệp là những t− t−ởng, lời 
nói, hành động do con ng−ời cố ý mà tạo 
ra. Nh− vậy, vận mệnh của mỗi ng−ời 
nằm trong tay mỗi ng−ời. Cuộc đời của 
mỗi ng−ời là do mình tự an bài lấy. Đồng 
thời, con ng−ời có thể thay đổi vận mệnh 
của mình bằng cách thay đổi nghiệp 
(thay đổi tâm t− và hành động của chính 
mình). 
Nếu Phật tổ cho rằng chính con ng−ời 
hoàn toàn có thể quyết định cũng nh− 
thay đổi vận mệnh của mình thì Sartre 
cho rằng con ng−ời sáng tạo ra bản chất 
của mình chứ không phải một yếu tố nào 
khác bên ngoài con ng−ời. Ông chối bỏ 
Th−ợng Đế và không nhận con ng−ời là 
thụ tạo của Ngài: “Không có một năng 
lực nào bên ngoài hay cao hơn để con 
ng−ời có thể n−ơng tựa vào hay van xin 
Hà Thị Thùy D−ơng. Con ng−ời trong quan niệm 17 
 17
cho, không ai cứu rỗi, làm cho con ng−ời 
trở thành một cái gì khác nó. Trách 
nhiệm nằm vuông vắn ngay trên đôi vai 
của chính mình”(2); “Không có điểm tựa nào 
khác, chỉ có con ng−ời quyết định nên bản 
chất của nó. Ngay cả khi Th−ợng Đế có 
mặt cũng không thể làm khác đi đ−ợc”(3). 
Con ng−ời và chỉ có con ng−ời mới có 
quyền tự do quyết định mình sẽ trở thành 
ng−ời nào và nh− thế nào, chứ không phải 
do ng−ời khác, cái khác quyết định thay 
cho mình. Sartre viết “con ng−ời phải tự 
phát minh ra mình”, nghĩa là con ng−ời 
đ−ợc toàn quyền tự đặt ý nghĩa cho cuộc 
đời mình. Theo Sartre, ngay từ đầu, con 
ng−ời không thể định nghĩa đ−ợc. Bởi 
ngay từ lúc ban đầu, con ng−ời không là 
gì cả (con ng−ời không có bản tính thiện 
hay bản tính ác), sau đó con ng−ời mới sẽ 
là thế này, thế nọ và sẽ là cái mình tự tạo 
nên: “Không định nghĩa đ−ợc con ng−ời vì 
ngay từ đầu nó đã là h− vô. Nó chỉ trở 
thành con ng−ời muộn hơn và trở thành 
một con ng−ời nh− là nó tự làm ra mình. 
Nh− vậy, không có bản chất ng−ời, không 
có chúa sáng tạo ra bản chất ấy”(4). Bản 
chất của con ng−ời là do chính con ng−ời 
tạo nên và con ng−ời tự định nghĩa về 
mình. “Con ng−ời chỉ là cái mà nó tự làm 
ra từ bản thân mình. Đó là nguyên lí thứ 
nhất của chủ nghĩa hiện sinh”(5). Bản chất 
của con ng−ời không có sẵn nh− đồ vật mà 
con ng−ời ngày đêm phải tìm cách tạo nên 
bản chất cho mình. Nh−ng bản chất của 
con ng−ời đ−ợc xác định thông qua điều 
gì? Con ng−ời thể hiện bản chất của mình, 
sự hiện sinh, cái tôi của mình thông qua 
việc vạch ra bản thiết kế, bản dự án của 
mình (dự phòng) và hiện thực hóa nó bằng 
một chuỗi các hành động. Chính vì vậy, 
Sartre chỉ ra rằng con ng−ời không phải 
là cái gì khác hơn là một “sự sáng tạo liên 
tục ra bản thân mình thông qua lao động 
và thực tiễn”(6), “con ng−ời là kết quả của 
mọi hành động mà nó tạo ra”. 
Chính vì việc khẳng định con ng−ời 
toàn quyền quyết định bản chất, vận mệnh 
của mình thông qua hoạt động của chính 
họ, chúng ta có thể nói rằng Phật giáo và 
triết học hiện sinh của Sartre là triết học 
hành động, triết học nhân bản vì nó nhấn 
mạnh tính tích cực, tính sáng tạo của con 
ng−ời trong hoạt động kiến tạo bản chất 
của mình cũng nh− quyết định vận mệnh 
của mình. Do đó, cả Phật giáo và triết học 
hiện sinh của Sartre tuy đều xuất phát từ 
cái nhìn bi quan về thân phận con ng−ời 
nh−ng thực chất lại không hề bi quan, 
thậm chí có thể nói là lạc quan khi tin 
t−ởng vào khả năng của con ng−ời trong 
việc tự quyết mà không phụ thuộc vào bất 
cứ yếu tố nào bên ngoài. 
Khi nói rằng bản chất, sự hiện sinh 
của con ng−ời là do chính con ng−ời tạo 
ra, Sartre cũng đồng thời khẳng định 
bản chất của con ng−ời không phải là 
nhất thành bất biến, mà luôn luôn vận 
động, biến đổi. Hiện sinh (hữu thể) hạt 
nhân trong học thuyết của Sartre là một 
cái “đang tồn tại”, “đang là” (process 
becoming) với diện mạo riêng. “Đang là” 
nghĩa là chúng ta không có một bản tính 
2. Pr Jay E. Green, 100 Great Thinkers,Washington 
Square Press, 1967, p. 586. 
3. Pr Jay E. Green, 100 Great Thinkers, Sđd, 1967, p. 
587. 
4. J. P. Sartre, Chủ nghĩa hiện sinh - Đó là chủ nghĩa 
nhân đạo, M, 2004, tr. 89. 
5. J. P. Sartre, Chủ nghĩa hiện sinh, Sđd, tr .29. 
6. J. P.Sartre. Phê phán lí tính biện chứng, Paris, 
1950, tập 1, tr. 95. 
18 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 
 18
cố định. Theo Sartre, con ng−ời và sự 
hiện diện của con ng−ời chẳng khác nào 
một tiến trình năng động bởi ý thức và 
tạo tác (hoạt động) của chính nó. Bản 
tính của con ng−ời chính là một dòng 
t−ơng tục của thân thể và tâm thức của 
con ng−ời mà không hề có một bản tính 
tuyệt đối độc lập. Bởi lẽ, con ng−ời không 
đứng im một chỗ, mà hành động liên tục 
h−ớng về t−ơng lai. Bản chất của con 
ng−ời thể hiện qua hành động mà “con 
ng−ời luôn luôn tự do thay đổi mọi tạo tác 
(hoạt động) của mình, và không bị buộc 
chặt bởi một khung ngã tính”(7). Hơn nữa, 
con ng−ời chỉ có thể tồn tại đích thực khi 
nó không dừng lại, không thỏa mãn với 
bản thân mình, với những cái mình đã đạt 
đ−ợc, nó cần phải th−ờng xuyên v−ợt lên 
trên chính mình, phải th−ờng xuyên sáng 
tạo ra những giá trị mới. Con ng−ời phải 
không ngừng v−ợt ra khỏi giới hạn của 
mình, tách mình ra khỏi những cái đã và 
đang hiện hữu và liên tục h−ớng tới cái 
khác. Theo ông, con ng−ời luôn có sứ mệnh 
sử dụng năng lực ý thức của mình để tự 
chất vấn mình, tìm kiếm những giá trị 
mới và bộc lộ tự do sáng tạo của mình. Con 
ng−ời cần phải v−ợt ra khỏi giới hạn của 
cái hiện có và tự quy định mình thông qua 
cái vẫn ch−a hiện diện. Chính vì vậy, 
Sartre khẳng định: “kẻ hèn nhát làm cho 
mình trở thành kẻ hèn nhát, ng−ời anh 
hùng làm cho mình trở thành ng−ời anh 
hùng. Nh−ng kẻ hèn nhát bao giờ cũng có 
khả năng không còn là kẻ hèn nhát nữa, 
còn ng−ời anh hùng không còn là ng−ời 
anh hùng nữa. Điều đó quan trọng chỉ là 
sự cải biến hoàn toàn đạt đ−ợc trong một 
tr−ờng hợp riêng biệt hay thông qua một 
hành vi riêng biệt”(8). Nghĩa là con ng−ời 
bằng hoạt động của mình có thể thay đổi 
bản chất của mình. Quan niệm của Sartre 
cho rằng bản chất của con ng−ời là không 
cố định có sự gần gũi với khái niệm vô 
ngã của Phật giáo. Phật giáo cho rằng 
không có cái tôi vĩnh hằng và thực chất là 
không có cái tôi. Tuy nhiên, cách giải 
thích của Phật giáo thì lại rất khác. Phật 
giáo giải thích rằng con ng−ời cũng nh− 
mọi sinh vật thuộc thế giới hữu hình đ−ợc 
cấu tạo bằng các yếu tố vật chất và tinh 
thần. Yếu tố tinh thần gọi là Danh, yếu tố 
vật chất gọi là Sắc. Theo một cách phân 
chia thì con ng−ời do năm yếu tố (ngũ 
uẩn) tạo nên dó là sắc (vật chất), thụ (cảm 
giác), t−ởng (ấn t−ợng, t−ởng t−ợng), hành 
(t− duy), thức (ý thức). Theo một cách phân 
chia khác thì con ng−ời do sáu yếu tố tạo 
nên là địa (chất khoáng), thủy(chất n−ớc), 
hỏa (chất nhiệt), phong ( gió, không khí), 
không (khoảng không trống rỗng), thức (ý 
thức). Nh− vậy, theo cả hai cách phân chia 
thì con ng−ời là sự kết hợp động của nhiều 
yếu tố động. Cái tôi của con ng−ời cũng do 
Danh và Sắc tạo nên. Nh−ng các yếu tố 
này chỉ hội tụ tạm thời trong một khoảng 
thời gian nào đó rồi tan đi, do đó không có 
cái gì là th−ờng định, là thực, và cũng 
không thể có cái tôi cố định, bất biến. 
Một điểm t−ơng đồng khác nữa giữa 
Sartre và Đức Phật là đều đề cao tinh 
thần dám chịu trách nhiệm của con 
ng−ời. Con ng−ời phải hoàn toàn chịu 
trách nhiệm về t− duy và hành động của 
chính mình. Tuy nhiên, cách giải thích của 
Sartre và Đức Phật về vấn đề này thì lại 
7. Pr Jay E. Green, 100 Great Thinkers, Washington 
Square Press, 1967, p. 586. 
8. J. P. Sartre, Chủ nghĩa hiện sinh - Đó là chủ nghĩa 
nhân đạo, M, 2004, tr. 20. 
Hà Thị Thùy D−ơng. Con ng−ời trong quan niệm 19 
 19
khác nhau. Sartre cho rằng: “Nếu con 
ng−ời đ−ợc tự do trở thành những gì mà 
chính mình làm ra, thì con ng−ời nhất 
thiết phải chịu trách nhiệm về các hành 
động của mình. Thiện hay ác, chính con 
ng−ời phải trả lời cho những hậu quả 
trong hành động của mình đối với chính 
mình và những kẻ khác”(9). Bởi vì mỗi cá 
nhân bị kết án phải tự do, đ−ợc tự do đ−a 
ra sự lựa chọn của mình nên kết quả sự lựa 
chọn đó nh− thế nào thì bản thân cá nhân 
phải tự chịu trách nhiệm về quyết định của 
mình, chứ không thể đổ lỗi cho bất cứ ai, 
đổ lỗi cho hoàn cảnh. Nh− vậy, nếu tự do là 
tuyệt đối thì trách nhiệm cũng tuyệt đối 
nh− tự do. Trách nhiệm và tự do luôn luôn 
đi liền với nhau và là những ph−ơng diện 
hiện sinh quan trọng của con ng−ời. 
Nh−ng trách nhiệm ở đây là trách nhiệm 
hiện sinh (trách nhiệm tr−ớc bản thân 
mình), chứ hoàn toàn không phải là trách 
nhiệm tr−ớc một ng−ời nào đó, tr−ớc một 
cái gì đó (pháp luật, chuẩn mực xã hội, 
chuẩn mực đạo đức). Còn Đức Phật lại 
nêu ra luật Nhân quả, Nghiệp báo để nói 
lên tinh thần trách nhiệm của cá nhân và 
cộng đồng. Đức Phật dạy rằng: “Chính ta là 
kẻ thừa kế của hành động của ta, là ng−ời 
mang theo với mình hành động của mình” 
(Tạp A Hàm, 135). Nghĩa là con ng−ời phải 
hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành 
vi và suy nghĩ của mình. Hiện nay, chúng 
ta sinh ra trong hoàn cảnh tốt hay xấu đều 
do hành động tốt xấu của chúng ta từ kiếp 
tr−ớc chuyển đến mà thôi. Nếu đời tr−ớc 
hành động ác thì đời này sinh ra trong 
hoàn cảnh xấu, không vừa ý. Nếu đời tr−ớc 
hành động thiện thì đời này ta sinh ta gặp 
hoàn cảnh tốt, mọi việc đều nh− ý. Do đó, 
dù gặp hoàn cảnh nào, chúng ta cũng can 
đảm nhận chịu, không than thở oán trách 
ai. Nh− vậy, nếu triết học hiện sinh của 
Sartre nhấn mạnh đến tinh thần tự chịu 
trách nhiệm của con ng−ời trong đời này, 
trong hiện tại thì Phật giáo có xu h−ớng 
thiên về đời sau, trong t−ơng lai. 
Mặc dù có những cách lí giải, quan 
niệm khác nhau nh−ng khi đặt con ng−ời 
vào trọng tâm nghiên cứu của mình, cả 
Sartre và Đức Phật đều có sự gặp gỡ khi 
nhìn nhận về thân phận của con ng−ời 
cũng nh− trong khi đánh giá cao vai trò 
của con ng−ời, con ng−ời có khả năng 
quyết định bản chất cũng nh− vận mệnh 
của mình, con ng−ời là cứu cánh của chính 
mình, có thể tự giải thoát cho mình khỏi 
mọi ràng buộc của hoàn cảnh Điều đó 
chứng tỏ rằng cả triết học hiện sinh của 
Sartre và Phật giáo đều là những học 
thuyết nhân bản, đề cao con ng−ời, vì con 
ng−ời, có mục đích đem lại một cuộc sống 
tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn cho con ng−ời. 
Đây cũng là những học thuyết triết học 
“nhập thế”, tích cực và năng động vì nó tin 
t−ởng vào hoạt động của con ng−ời, chứ 
hoàn toàn không phải bi quan, chán nản 
nh− nhiều ng−ời đã từng nhầm lẫn. 
Sự t−ơng đồng trong quan niệm của 
Sartre và Đức Phật về con ng−ời đã nói lên 
một vấn đề rất có ý nghĩa rằng: Bất chấp 
sự khác biệt về thời đại, về hoàn cảnh lịch 
sử xã hội, những t− t−ởng lớn vẫn luôn 
tìm thấy mối t−ơng giao, sự gặp gỡ nhất 
định trong khi giải quyết những vấn đề 
lớn, có tính muôn thủa của mọi thời đại - 
vấn đề con ng−ời./. 
9. Pr Jay E. Green, 100 Great Thinkers, Washington 
Square Press, 1967, p. 586. 

File đính kèm:

  • pdfcon_nguoi_trong_quan_niem_cua_phat_giao_va_triet_hoc_hien_si.pdf