Giai thoại Người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ

Tóm tắt Giai thoại Người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ: ...hiếc thuyền chở đầy rơm, người nộm bằng rơm, tiến về phía địch. Quân Trịnh bắn ra tới tấp. Đạn hết. Nguyễn Huệ mới bắt đầu mở cuộc tấn công thực sự. Ông toàn thắng. "Đường đến kinh đô đã mở..." Chúa Trịnh chạy lên Tây Sơn, giữa đường ông ta bị dân chúng vây bắt, và lúc sắp bị nộp cho quân...ể tiện đi lại, và chia quân ra đóng giữ các mặt. Ngày hôm sau, Sĩ Nghị làm lễ tuyên đọc tờ sắc của Vua nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương. Vua Chiêu Thống tuy được thụ phong nhưng các tờ văn thư đều phải để “niên hiệu Càn Long”. Mỗi khi buổi chầu xong lại đến dinh Sĩ Ngh...ả lên có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi, hoang mang, đều xin hàng. Bởi thế lấy được hết cả quân lương và khí giới. Sáng tinh sương ngày mồng Năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép...

pdf15 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 200 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giai thoại Người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Gianh làm giới tuyến: Họ Nguyễn hùng cứ phương Nam - gọi là 
Đàng trong (hay Nam Hà). Họ Trịnh tự xưng chúa phương Bắc - 
Đang ngoài (Bắc Hà). Trên tuy còn có Vua Lê, nhưng quyền hành 
thuộc cả vào tay hai chúa Trịnh - Nguyễn. Trong nước đã có Vua, lại 
có chúa, nên Vua chẳng phải là Vua, tôi không phải là tôi: Nước 
Nam đang ở vào thời nhiễu loạn, phân hoá trầm trọng. 
 Về sau, Đàng Trong có đại thần Trương Phúc Loan chuyên 
quyền, làm bậy Đàng Ngoài, có kiêu binh chúa Trịnh làm loạn, giết 
hại các quan đại thần trung tín với nhà lê. Vua phải hạ mình, nhún 
nhường chịu phục; còn đình thần phải khoanh tay im lặng: Nước 
Nam đang ở vào thời đại loạn. 
 Trước tình cảnh ấy, ba anh em Nguyễn Huệ quyết định khởi 
binh, phát xuất từ ấp Phú Lạc (Tây Sơn) vào năm 1771 - tiến đánh 
các huyện An Khê, An Nhơn, Tuy Viễn... Đoàn quân tấn công ở đâu, 
đều được dân chúng ủng hộ, giúp đỡ, xin gia nhập vào nghĩa binh 
ngày một đông. Đến năm 1773 - đội quân hùng mạnh của Nguyễn 
Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã chiếm được thành Qui Nhơn - 
làm căn cứ địa vững chắc cho cuộc khởi nghĩa... 
NGUYỄN HUỆ ĐÁNH NAM - DẸP BẮC 
 Sau một thời gian cũng cố thế lực, chuẩn bị quân lương - đội 
quân Tây Sơn đã tạo được nhiều thanh thế lừng lẫy qua các trận đánh 
đều thắng lợi, quần chúng tin theo rất đông. Nhận thấy ở Đàng Trong 
loạn thần Trương Phúc Loan chuyên quyền hà hiếp, cướp bóc, giết 
hại dân lành, chế độ nhà Nguyễn thối nát, dân tình rất cực khổ. 
Nguyễn Huệ đã cùng các anh là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ tiến quân 
vào Nam, Nguyễn Huệ đã dốc sức giúp anh chiến thắng vẻ vang, 
nhưng sau đó đều rút quân về Qui Nhơn, chỉ lưu lại một võ tướng và 
vài đạo binh để trấn giữ thành... Vì vậy, tàn quân của Chúa Nguyễn - 
các con cháu lưu lạc, có cơ hội tập hợp binh mã, nổi lên chống cứ lại 
quân Tây Sơn hòng chiếm lấy thành Gia Định, dựng lại nghiệp chúa 
như xưa. 
 Lần thứ tư, Nguyễn Huệ thống lãnh đại binh, thẳng đường vào 
Nam tiến đánh tàn quân nổi loạn của Chúa Nguyễn. Lần này, Chúa 
Nguyễn đã cầu xinh được viện binh của Xiêm La, gần hai vạn quân - 
gọi là đội quân "hùm beo" - rất hung dữ để chống lạ Tây Sơn. Với tài 
điều binh thần tốc, mưu trí hơn người, chỉ trong vong một ngày giáp 
chiến ác liệt, đội quân "hùm beo" của Xiêm La chỉ còn lại vài trăm 
tên, lủi thủi chạy về nước... 
 Nguyễn Nhạc phong cho em là Nguyễn Lữ làm Đông Định 
Vương ở lại cai quản đất Gia Định kéo dài ra đến Bình Thuận... 
 Mặt trận Đàng Trong đã tạm yên, Nguyễn Huệ tức tốc đem 
binh ra Bắc Hà "hỏi tội lộng quyền, bức hiếp đình thần, truất quyền 
của Vua Lê, lại xâm hại dân chúng" của chúa Trịnh. Với lá cờ thêu 
bốn chữ vàng "Phù Lê, diệt Trịnh"; Nguyễn Huệ đã được đông đảo 
quan quân, dân chúng nhiệt tình ủng hộ. 
 Chỉ trong một tháng, quân Tây Sơn đã đánh chiếm đến thành 
Phú Xuân - các đội quân thuỷ bộ thẳng đường tiến ra Bắc Hà. Quân 
của Chúa Trịnh chống cự lại quyết liệt. Nguyễn Huệ luôn đi đầu 
hàng quân, tiến đánh như vũ bảo; quân sĩ một lòng trung kiên dưới 
cờ "Phù Lê, diệt Trịnh" của Nguyễn Huệ; tấn công quân Trịnh, 
chiếm giữ nhiều cứ điểm quan trọng. 
 Quân Tây Sơn lần lượt tiến chiếm Thuận Hoá, đến tận sông 
Gianh, rồi chiếm Nghệ An, Thanh Hoá... khiến cho họ Trịnh hốt 
hoảng, cố ngăn giữ đoạn sông chảy qua Sơn Nam. Nguyễn Huệ đã 
dùng mưu, lợi dụng đêm tối, ông cho năm chiếc thuyền chở đầy rơm, 
người nộm bằng rơm, tiến về phía địch. Quân Trịnh bắn ra tới tấp. 
Đạn hết. Nguyễn Huệ mới bắt đầu mở cuộc tấn công thực sự. Ông 
toàn thắng. "Đường đến kinh đô đã mở..." 
 Chúa Trịnh chạy lên Tây Sơn, giữa đường ông ta bị dân chúng 
vây bắt, và lúc sắp bị nộp cho quân Tây Sơn thì ông tự tử chết. Chế 
độ Chúa Trịnh đã bị tiêu diệt, sau 240 năm trời tồn tại (1545 - 1786). 
Nguyễn Huệ tiến vào thành Thăng Long giữa tiếng reo hò, chúc 
mừng vang dậy. Tấm chiến bào ông đang mặc đã xám đen thuốc 
súng, đất bụi của cuộc chiến chinh. 
 Làm chủ được kinh thành, Nguyễn Huệ thực hiện một kỷ luật 
nghiêm minh trong quân và lập lại trật tự bằng một sự công bằng 
nhanh gọn. Đúng vào hôm sau kéo quân vào thành Thăng Long, 
Nguyễn Huệ đến yết kiến Vua Lê Hiển Tông - vị vua lên ngôi từ 
năm 1740 dưới lòng họ Trịnh, bây giờ đã gần 70 tuổi. Nhà Vua tiếp 
Nguyễn Huệ ở cung Vạn Thọ. Ông ta đã cho Nguyễn Huệ đến ngồi 
bên cạnh mình. Nguyễn Huệ biểu hiện lòng trung thực với nhà Vua: 
Ông đến đây nhằm bảo vệ triều đại nhà Lê, muốn nhìn thấy nhà Lê 
hưng thịnh mà thôi... 
 Ngày 7 tháng 7 âm lịch, ngày lành - giữa rừng cờ tung bay 
trước gió, và những tiếng trống cồng vang động, Nguyễn Huệ cùng 
một số tướng lĩnh đến điện Kinh Thiên, có đủ bá quan văn võ nhà Lê 
tham dự... Lạy xong năm lạy, Nguyễn Huệ dâng lên Vua Lê những 
sổ binh và sổ hộ, với ý nghĩa triều Lê đã nắm lại thực quyền. Hiển 
Tông phong cho ông chức tướng, tước Uy Quốc Công và gả công 
chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. 
 Nguyễn Huệ kéo quân về đóng ở Phú Xuân, chỉ giao cho 
Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại Bắc Hà, trợ giúp Vua Lê xây dựng lại triều 
chính, đất nước. Vua Lê Hiển Tông băng hà, cháu là Lê Chiêu Thống 
lên nối ngôi. Sự yếu đuối, bất tài của Lê Chiêu Thống không vực dậy 
được một triều đại đã tan rã, kiệt quệ... Ngay tháng sau đó, họ Trịnh 
đã quay trở lại dùng vũ lực thiết lập lại những đặc quyền, đặc lợi của 
mình. Sự lấn át quyền hành của họ Trịnh nặng nề đến mức nhà Vua 
phải mất công sai người đến cầu cứu với Nguyễn Hữu Chỉnh. 
 Gặp dịp thuận lợi cho ý đồ mưu phản, mong chiếm trọn Bắc 
Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh vội vã kéo một vạn quân về Thăng Long 
đánh bại quân của Trịnh Bồng, rồi nắm lấy mọi quyền hành, tự xem 
mình là chủ đất Bắc. 
 Theo lời khuyên đầy thâm ý của Chỉnh, Vua Chiêu Thống đã 
nhẹ dạ, khiếp nhược cử phái đoàn vào Nam xin lại đất Nghệ An; mà 
sẽ đem lại mối lợi lớn cho Chỉnh sau này. Nguyễn Huệ được tin 
Nguyễn Hữu Chỉnh tạo phản, đang nổ lực xây dựng thanh thế ở Bắc 
Hà, hòng tiến đánh Tây Sơn, chiếm ngôi nhà Lê; liền sai Võ Văn 
Nhậm ra Bắc trị tội Chỉnh... 
 Viên tướng Tây Sơn đã đánh tan quân Bắc Hà, tiến vào kinh 
thành và nhà Vua đã bỏ chạy... Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt, và bị hành 
hình; Lê Chiêu Thống phải phiêu bạt, lẫn trốn nhiều nơi. Về sau, 
Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu phải chạy sang Tàu, cầu cứu 
nhà Thanh... Trong lúc đó, Võ Văn Nhậm say men chiến thắng, lại 
được triều thần nhà Lê sũng ái, có nhiều quyền lực trong tay, nên bắt 
đầu chuyên quyền và lại muốn tạo phản. Lần này, chính Nguyễn 
Huệ cầm quân ra Bắc Hà dẹp loạn. Quân Võ Văn Nhậm thua trận.Võ 
Văn Nhậm bị bắt và hành hình vì tội phản nghịch. Nguyễn Huệ triệu 
tập các viên chức nhà Lê, cho phục hồi chức vị; ông không nỡ diệt 
nhà Lê, nên sau khi lập lại trật tự, ông giao việc cai quản Bắc Hà cho 
Ngô Văn Sở, rồi trở về Phú Xuân... Từ đất Quảng Ngãi trở ra đến 
Sông Gianh, thuộc quyền cai quản của Nguyễn Huệ - Nguyễn Nhạc 
đã phong cho ông là Bắc Bình Vương. Ông hùng cứ ở Phú Xuân, 
ngày đêm lo việc quân binh, chăm lo đời sống của dân chúng về mọi 
mặt... 
VUA QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN THANH 
 Vua Lê Chiêu Thống đã mấy lần toan khôi phục lại nhà Lê 
nhưng không được, phải nương náu ở Lạng Giang. Bà Hoàng Thái 
Hậu thì đem Hoàng tử sang Long Châu kêu van với quan Tàu xin 
binh cứu viện. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quãng là Tôn Sĩ Nghị dâng 
biểu lên Vua Càn Long nhà Thanh rằng: "... Họ Lê là cống thần nước 
Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình 
cũng nên thương. Và nước Nam vốn là đất cũ của Tàu, nếu sau khi 
cứu được nhà Lê và lấy được đất An Nam, thật là lợi cả đôi đường”. 
Vua Càn Long nghe lời tấu ấy, sai Tôn Sĩ Nghị khởi binh bốn tỉnh 
Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu, Vân Nam đem sang đánh Tây 
Sơn... 
 Tướng Tây Sơn giữ Thăng Long là Ngô Văn Sở được tin quân 
Tàu đã sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thuỷ bộ về 
đóng giữ từ núi Tam Điệp ra đến bờ biển, rồi sai người về Phú Xuân 
cấp báo với Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị Kéo đại binh vừa đến Kinh 
Bắc (Bắc Ninh), vua Lê Chiêu Thống vội ra chào mừng rồi theo quân 
Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa bãi về mé nam sông 
Nhị Hà, cho bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia quân ra 
đóng giữ các mặt. Ngày hôm sau, Sĩ Nghị làm lễ tuyên đọc tờ sắc 
của Vua nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam Quốc 
Vương. Vua Chiêu Thống tuy được thụ phong nhưng các tờ văn thư 
đều phải để “niên hiệu Càn Long”. Mỗi khi buổi chầu xong lại đến 
dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật, quân quốc. Sĩ Nghị thì ngạo 
nghễ, tự đắc, xử với vua rất khinh bạc. Người bấy giờ bàn với nhau 
rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế Vương đến giờ, không thấy Vua 
nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm Vua, mà phải theo niên hiệu Vua 
Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc Sĩ Nghị, thế là có 
khác gì đã là nội thuộc, nô lệ rồi không?". Vua và triều thần bấy giờ 
việc gì cũng trông vào Tôn Sĩ Nghị, ngày đêm lo việc báo ân, báo 
oán, giết hại những người trước đã theo Tây Sơn. Sĩ Nghị thì ngày 
càng kêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả binh ra cướp 
phá dân làng, làm lắm sự nhũng nhiễu... 
 Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ được tin quân nhà Thanh đã 
sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem 
binh ra đánh; các tướng đều xin Nguyễn Huệ hãy chính ngôi tôn, để 
yên lòng người rồi sẽ khởi binh. Nguyễn Huệ bèn sai đắp đàn ở núi 
Bàn Sơn, phía nam thành Phú Xuân, ngày 25 tháng 1 năm Mậu Thân 
(1778), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là Quang Trung. Sắc 
phong cho Công chúa Ngọc Hân làm Hoàng Hậu; con trai là Nguyễn 
Quang Toản làm Thái tử. 
 Hoàng đế Quang Trung tự mình thống lĩnh thuỷ bộ đại binh 
lên đường tiến ra Bắc Hà. Đến Nghệ An, cho quân nghỉ dưỡng 10 
ngày, để chọn lấy thêm binh. Cả thảy được 10 vạn quân, và hơn 100 
con voi. 
 Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ thủ bảo mọi 
người phải cố gắn đánh giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Để 
cuộc hành quân được nhanh chóng, đúng như dự tính. Vua sai bảo 
đem theo võng: Hai người khiên một, sau đó lại đổi chỗ nghỉ cho 
nhau để bảo vệ sức khoẻ. Ngày 20 tháng chạp, Mậu Thân - 1788, 
đoàn quân đã đến núi Tam Điệp: Các tướng Ngô Văn Sở, Ngô Thì 
Nhậm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không 
nổi, cho nên phải lui về, giữ chỗ hiểm yếu chờ lệnh nhà Vua. 
 Vua Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này 
làm vua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này, đích thân coi việc quân 
đánh giữ, đã định sách lược mưu kế rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 
10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước 
ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu 
báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta 
sao nỡ thế! Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhậm dùng lời 
nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mười năm nữa, nước 
ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng 
nữa!" 
 Hoàng Đế Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn Tết Nguyên 
Đán trước, để đến hôm trừ tịch (tối 30 tháng chạp) thì hành quân đi. 
Nhà Vua quyết định ngày Mồng Bảy Tết sẽ vào Thăng Long mở tiệc 
ăn mừng. Vua Quang Trung tuyên bố trước tướng sĩ: "Trước hết, ta 
hãy ăn tết cho thoả thuê, rồi ta sẽ ra Thăng Long vào ngày Mồng Bảy 
- tiếp tục vui xuân. Các khanh hãy nhớ lấy lời ta!". Nói rồi vua 
Quang Trung truyền lệnh: "Đại tư mã Sở, Nội hầu Lân đem tiền quân 
đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem quân đi đốc chiến. Đại đô đốc 
Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thuỷ quân vượt qua bể vào 
sông Lục Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng 
đường mé sông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phương Nhỡn, 
Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về. Đại đô đốc Bảo, Đô đốc 
Mưu đem tả quân cùng quân tướng mã đi đường núi ra đánh phía tây. 
Mưu thì xuyên qua huyện Chương Đức (nay là Chương mỹ) tiện 
đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì; đánh quân 
Điều Châu; Bảo thì thống xuất quân thượng mã theo đường huyện 
Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt 
tả...". 
 Năm cánh quân được lệnh truyền của Hoàng Đế, đều thu xếp, 
chuẩn bị thật chu đáo, chờ đến hôm 30 tháng chạp đều xuất phát lên 
đường... Sáng sớm ngày 30, các đoàn quân đều khua trống chiêng 
vang động, náo nức tiến ra Bắc. Năm đoàn quân cờ xí rợp trời, mỗi 
đoàn một hướng, rầm rộ hành quân theo lệnh đã truyền như một ngày 
Hội lớn... Khi đoàn quân tiến sang sông Giảng Thuỷ (giáp giới tỉnh 
Ninh Bình và Hà Nam), cánh quân của nhà Lê tan vỡ, bỏ chạy cả. 
Vua Quang Trung đích thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú 
Xuyên, bắt sống được hết toán quân Tàu đóng ở đấy, không một 
người nào chạy thoát được. Vì thế nên không có tin báo về, đám 
quân Tàu đóng ở làng Hà Nội và làng Ngọc Hồi không biết được tin 
tức gì cả. 
 Nửa đêm mồng 3 Tết năm Kỷ Dậu (1789) quân Vua Quang 
Trung đến làng Hà Nội vây kín đồn giặc, rồi bắt loa lên gọi, các cánh 
quân dạ rầm cả lên có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới 
biết, sợ hãi, hoang mang, đều xin hàng. Bởi thế lấy được hết cả quân 
lương và khí giới. Sáng tinh sương ngày mồng Năm, quân Tây Sơn 
tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua 
Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm 
một, lấy rơm cỏ thấm nước quấn ở ngoài, rồi truyền sai quân kiêu 
dũng, cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt theo một con 
dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới đi theo sau. Vua Quang 
Trung cỡi voi đi đầu đốc chiến, quân ta vào đến gần nửa đồng, bỏ 
ván xuống đất rút dao ra, xông vào chém. Quân đi sau cũng kéo ùa 
cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn 
nhau mà chạy. Quân Tây Sơn thừa thế đánh tràn đi như vũ bão, lấy 
được hết các đồn bót, giết quân nhà Thanh thây nằm ngổn ngang 
khắp đồng, máu chảy như tháo nước. 
 Các đạo quân khác cũng báo tin về được toàn thắng: Quan nhà 
Thanh là Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Sĩ Long, Tả 
dực Thượng Duy Thăng đều bị tử trận cả; quan phủ Điền Châu là 
Sầm Nghi Đống ở Đống Đa (ở cạnh Thái Hà ấp, gần Hà Nội) bị quân 
Tây Sơn vây đánh, cũng thắc cổ tự vẫn... Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nửa 
đêm được tin báo, hốt hoảng không kịp thắng yên ngựa và mặc áo 
giáp, đem mấy tên kỵ mã chạy qua sông sang Bắc, trốn về nước. 
Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau 
sang cầu, một lát sau cầu gãy đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông 
Nhị Hà đầy những thây người chết... 
 Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với 
bà Hoàng Thái Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu. Đạo quân 
Vân Nam và Quý Chân đang ở miền Sơn Tây (trước đất Phú Thọ, 
Vĩnh Yên thuộc địa hạt tỉnh Sơn Tây) nghe tin quân Sĩ Nghị đã thua 
to, cũng rút quân trốn chạy về nước... 
 Ngày hôm ấy, Vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, xông 
pha trận mạc, áo ngự bào bị thuốc súng bắng vào đen như mực. Đến 
trưa, thì vào thành Thăng Long, sai tướng đem binh đuổi đánh quân 
nhà Thanh đến cửa ải Nam Quan mới dừng lại. Hoàng Đế Quang 
Trung vào thành Thăng Long hạ lệnh chiêu an, vãn hồi trật tự; những 
người lính Tàu thú tội đều được cấp cho quần áo và lương ăn. Vua 
Quang Trung còn bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong 
các giấy tờ thu được có cả tờ mật dụ của Vua Càn Long gửi cho Sĩ 
Nghị. Vua Quang Trung xem trong tờ mật dụ bảo với Ngô Thì 
Nhiệm: "Ta xem tờ chiếu của Vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn 
mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận 
dữ dội, tất là lấy làm xấu hổ, chắc không chịu để yên. Hai nước mà 
đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho 
khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà ngươi chủ trương thực hiện cho 
mới được". 
 Công cuộc đánh dẹp, bình định ở Bắc Hà xong; Vua Quang 
Trung đem quân về Nam; lưu lại Ngô Văn Sở và Phan Văn Long 
trông coi các việc quốc quân. Còn những việc từ lệnh giao thiệp với 
nước Tàu thì uỷ thác cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích cho được 
tự do sử lý, thực hiện. Nếu không có việc hệ trọng, thì cũng không 
cần tâu báo lại làm gì. 
 Đời sống, sinh hoạt của người dân ở Bắc Hà đã trở lại an bình, 
hưng phấn. Nhất là dân chúng ở kinh thành Thăng Long thì rất đỗi 
vui mừng, vì từ nay sẽ không còn bị lệ thuộc, áp bức, lầm than. Nước 
nhà đã thống nhất, đã được độc lập; sống thời thái bình, hạnh phúc... 
ANH HÙNG ÁO VẢI HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG NHỮNG 
NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI 
 Hoàng đế Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là một ông Vua 
anh dũng, lấy võ lược xây dựng cơ đồ. Quang Trung dùng trái tim độ 
lượng xứ thế, am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài. 
 Lúc trấn nhậm đất Phú Xuân, tuy việc binh, việc nước bề bộn, 
nhưng Quang Trung luôn có mặt đều ở các hội tao đàn, xiển dương 
thơ văn lễ nhạc. Khi ra lấy Bắc Hà, những bậc hiền tài như Ngô Thì 
Nhiệm, Phan Huy Ích đều được Quang Trung trọng dụng. Với 
Nguyễn Thiệp (còn gọi là Lạc Niên Tiên Sinh, hay La Sơn Phu Tử), 
tuy không ra trực tiếp giúp nhà Tây Sơn, nhưng Quang Trung vẫn 
kính trọng và xem như bậc thầy, thường lui tới vấn an, lễ vật và xin 
được chỉ bày việc nước... 
 Vua Quang Trung đã được Vua Càn Long nhà Thanh sắc 
phong là An Nam Quốc Vương; được Vua Càn Long mời sang yết 
kiến, lại tặng nhiều lễ vật, được hoạ sĩ Tàu vẽ chân dung; tiếp đón 
trọng thể với nhiều nghi lễ đặc biệt. Thật ra, để đề phòng thâm ý của 
nhà Thanh, Vua đã cử cháu mình là Phạm Công Trị, giả làm "Vua 
Quang Trung" trong chiến đi lịch sử này. Tuy là đã thụ phong nhà 
Thanh, Vua Quang Trung vẫn tự sử theo cách Hoàng Đế, lập bà 
Ngọc Hân con Vua Hiển Tông làm Bắc Cung Hoàng hậu, lập con là 
Quang Toản làm Thái tử... cho xây Phượng Hoàng Trung đô tại 
Nghệ An. 
 Hoàng Đế Quang Trung thực hiện ngay công việc cải cách, 
xây dựng đất nước, từ việc chính trị, quan chế, đinh điền, giáo dục, 
văn hoá, tôn giáo, cho đến công cuộc chuẩn bị để đánh Tàu. Mọi việc 
đã tiến hành tốt đẹp, theo như hoạch định đã soạn sẵn từ trước. Đến 
năm Nhâm Tý (1792) Vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn 
và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc ấy tuy không 
phải là thực ý của Vua, nhưng muốn mượn chuyện để thử ý Vua nhà 
Thanh? 
 Dự định chưa thành, thì Vua Quang Trung lâm trọng bệnh. 
Không bao lâu sau, Hoàng Đế băng hà (ngày 16 tháng 9 năm 1792), 
lúc mới 39 tuổi, tại vị Hoàng đế được 4 năm. Miếu hiệu là Thái Tổ 
Võ Hoàng Đế. Thái tử Quang Toản lúc bấy giờ chỉ lên 10 tuổi, được 
triều đình tôn lên làm Vua, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. 
 Đau thương trước sự ra đi quá đột ngột của Hoàng Đế Quang 
Trung, lúc tuổi xuân đang phơi phới, sự nghiệp đang phát triển rực 
rỡ, đất nước đang hồi hưng thịnh, thái bình, và tình yêu đang nồng 
thắm. Hoàng Hậu Ngọc Hân đã viết nên bài "Ai Tư Vãn" để khóc 
thương chồng. Bài thơ là áng văn tuyệt tác trong dùng văn học chữ 
Nôm thời Tây Sơn. Bài thơ dài đến 164 câu; xin trích một đoạn để 
cùng chia xẻ tâm tình khổ đau của bà trước sự mất mát vô vùng: 
..."Những ao ước chập chùng tuổi học, 
Nguyền trăm năm ngỡ được vầy vui... 
Nào hay sông cạn, bể vùi, 
Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly! 
Từ rằng hạ mưa thu trái tiết, 
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên... 
Xiết bao kinh sợ lo phiền, 
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cần! 
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước, 
Phương pháp nào đổi được cùng chăng? 
Ngàn thay, máy tạo bất bằng, 
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan! 
Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bầy, 
Kể sum vầy đã mấy năm nay... 
Lênh đênh chút phận bèo mây, 
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu? 
Trằn trọc luồng đêm thân, ngày tối, 
Biết cậy ai dập nỗi bi thương? 
Trông mong luống những mơ màng... 
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say! 
Khi trận gió hoa bay thấp thoáng, 
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi... 
Vội vàng dạo bước tới nơi, 
Thương ôi vắng vẻ, giữa trời tuyết sa! 
Tưởng phong thể xót xa tòi toạn, 
Mặt rồng sao cách gián lâu nay? 
Có ai chốn ấy về đây... 
Nguồn cơn xin ngỏ cho huy được đành? 
Nẻo u minh khéo chịu đôi ngả... 
Nghĩ đòi phen nồng nỏ - đỏi phen, 
Kiếp này chưa trọn chữ "duyên"; 
Ước xin kiếp khác ven tuyền lửa hương! 
(...)" 
(Trích thơ Ngọc Hân công chúa) 

File đính kèm:

  • pdfgiai_thoai_nguoi_anh_hung_ao_vai_quang_trung_nguyen_hue.pdf