Đánh giá tiềm năng tuyến điểm du lịch sinh thái tỉnh Bạc Liêu
Tóm tắt Đánh giá tiềm năng tuyến điểm du lịch sinh thái tỉnh Bạc Liêu: ...ác nhóm khách du lịch, các cơ sở tư nhân chủ yếu kinh doanh dịch vụ lưu trú và ăn uống. Sự phối hợp giữa các ngành, các địa bàn đôi lúc chưa đồng bộ và thiếu chặt chẽ, nhất là đối với các tuyến điểm tham quan du lịch. Sự nhận thức và tham gia của nhân dân về kinh tế du lịch chưa cao. ... xảy ra tình trạng lốc xoáy, ăn xin, cướp giật. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh doanh du lịch. Qua ý kiến của các chuyên gia cho rằng cảnh quan sân chim Lập Điền khá hấp dẫn, môi trường trong lành, sự phong phú của các loài chim khá cao. Nơi đây có nhiều loài chim sinh sống...yến du lịch vườn nhãn là đẹp. Vì đây là vườn nhãn cổ, khu vườn này có trên 100 tuổi, cả một khu vườn rộng trên 300 ha, có khung cảnh thoáng mát làm cho du khách có cảm giác thật dễ chịu, có nhiều loại nhãn rất đặc trưng như: nhãn tu huýt, nhãn xua bíc, nhãn thơm, nhãn xuồng cơm vàng, nhã...
. Căn cứ vào số liệu trên ta có kết quả các chỉ tiêu khai thác, quản lý như sau: Nhìn vào kết quả các chỉ tiêu quản lý và khai thác khách du lịch tại sân chim Lập Điền ta có tổng cộng 18.66 điểm tương đương với loại B. Điểm này cần đầu tư nhiều trong quản lý, khai thác. 5.2.3 Biển - Nhà Mát Qua thời gian nghiên cứu thu thập thông tin từ khách du lịch, nhà quản lý, cộng đồng địa phương đã đánh giá tuyến du lịch sinh thái biển - Nhà Mát như sau: Bảng 7: Kết quả các chỉ tiêu thu hút khách tại biển - Nhà Mát Chỉ tiêu Hệ số Điểm đánh giá Trung bình Tần số Độ lệch chuẩn Tính hấp dẫn 3 3,04 3 0,348 Tính đa dạng sinh học 3 2,16 2 0,510 Tính tiện nghi 2 2,86 3 0,606 Tính an toàn 1 2,94 3 0,470 Kết quả Số điểm Loại B 24,26 Nguồn: Kết quả nghiên cứu luận văn cao học QTKD khóa XI - Đại học Cần Thơ của tác giả Nhìn vào kết quả trên cho thấy, tính hấp dẫn đạt 3,04 điểm, có thảm thực vật đặc hữu, có khung cảnh rừng biển còn hoang sơ bình dị, tạo nên điểm tham quan khá hấp dẫn; tính đa dạng sinh học đạt 2,16 điểm, thể hiện các loài sinh vật trong hệ sinh thái ở mức trung bình, cần tái tạo hoặc nhân rộng các loài có tính đa dạng sinh học cao; tính tiện nghi đạt 2,86 điểm, cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật tương đối tốt, nhưng một số đoạn đường còn xảy ra tình trạng ngập nước; tính an toàn đạt 2,94 điểm, thể hiện điểm tham quan này khá tốt, nơi đây đảm bảo an toàn về sinh thái, tình hình chính trị trật tự an toàn xã hội khá ổn định. Qua đánh giá của các chuyên gia về tính thu hút khách, hầu hết các chuyên gia đều đánh giá cao về sự đặc sắc sinh cảnh rừng ngập mặn với nhiều loài thực vật, động vật đặc trưng như chim thú, lưỡng thê, bò sát và các loài cá đặc sản rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch. Cho nên các chuyên gia nhận thấy tính đa dạng sinh học tại vùng biển – Nhà Mát khá cao, cho thang điểm 3 là phù hợp hơn so với thang điểm 2,16 mà thu được từ các mẫu phỏng vấn. Vì vậy, khi lập dự án quy hoạch cần khảo sát và đánh giá kỹ hơn về tính đa dạng sinh học tại điểm tham quan này. Để phát huy thế mạnh tiềm năng của điểm tham quan này cần nghiên cứu xây dựng các chòi thưởng ngoạn dọc theo bờ biển, bố trí một số nhà nghỉ hướng nhìn ra biển tạo cảm giác thiên nhiên hoang dã; đồng thời tổ chức cho khách câu cá ngay bờ hồ để có thêm dịch vụ giải trí thu hút khách đến tham quan. Nhìn vào kết quả các chỉ tiêu thu hút khách du lịch tại biển - Nhà Mát ta có tổng cộng là 24,26 điểm tương đương với loại B. Điểm này có khả năng thu hút khách du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Qua thu thập thông tin từ mẫu phỏng vấn, ta có bảng các chỉ tiêu quản lý và khai thác khách như sau: Bảng 8: Kết quả các chỉ tiêu quản lý và khai thác khách tại biển - Nhà Mát Chỉ tiêu Hệ số Điểm đánh giá Trung bình Tần số Độ lệch chuẩn Tính bền vững 3 2,86 3 0,572 Tính liên kết 3 2,78 3 0,648 Tính thời vụ 2 2,16 2 0,681 Tính sức chứa 1 3,86 4 0,535 Kết quả Số điểm Loại B 25,1 Nguồn: Kết quả nghiên cứu luận văn cao học QTKD khóa XI - Đại học Cần Thơ của tác giả Qua kết quả đánh giá trên, tính bền vững đạt 2,86 điểm, cho thấy khả năng bền vững của khu vực này khá vững chắc, rừng không bị phá hoại, các loài động, thực vật có khả năng tự cân bằng sinh thái phù hợp với môi trường tự nhiên; tính liên kết đạt 2,78 điểm, có nhiều tuyến điểm du lịch tự Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 30 (2014): 73-83 80 nhiên trong vùng liên kết chặt chẽ với nhau, tạo nên một chương trình du lịch hấp dẫn, thu hút được nhiều du khách tham quan; tính thời vụ đạt 2,16 điểm, cho thấy thời gian triển khai hoạt động du lịch chưa phát huy hết tài nguyên sẵn có, trong khi đó cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ; sức chứa đạt 3,86 điểm, điểm tham quan này phản ánh khả năng và triển khai hoạt động du lịch rất lớn. Điều này rất thuận lợi cho việc mở rộng nhiều loại hình dịch vụ du lịch sau này. Qua ý kiến của các chuyên gia về chỉ tiêu quản lý và khai thác khách, vùng biển – Nhà Mát có diện tích lớn, rất thuận lợi cho việc nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, tổ chức các trò chơi trên biển, khu rừng ngập mặn có tầm nhìn thoáng đãng đẹp mắt, rất thích hợp cho việc phát triển du lịch sinh thái, nhưng thời gian qua việc tổ chức các hoạt động du lịch tại tuyến du lịch này còn hạn chế, chưa khai thác hết tiềm năng du lịch. Do đó các nhà quản lý, các công ty du lịch cần tổ chức thêm nhiều loại hình du lịch có nét đặc trưng riêng, triển khai xây dựng một số khu vui chơi giải trí, nhằm thu hút khách tham quan các mùa trong năm. Căn cứ vào số liệu trên ta có kết quả các chỉ tiêu quản lý và khai thác như sau: Nhìn vào kết quả các chỉ tiêu quản lý và khai thác khách du lịch tại biển - Nhà Mát ta có tổng cộng 25,1 điểm tương đương với loại B. Điểm này cần đầu tư nhiều trong quản lý, khai thác. 5.2.4 Vườn nhãn Qua thời gian nghiên cứu thu thập thông tin từ khách du lịch, nhà quản lý, cộng đồng địa phương đã đánh giá tuyến du lịch sinh thái vườn nhãn như sau: Bảng 9: Kết quả các chỉ tiêu thu hút khách tại vườn nhãn Chỉ tiêu Hệ số Điểm đánh giá Trung bình Tần số Độ lệch chuẩn Tính hấp dẫn 3 3,00 3 0,286 Tính đa dạng sinh học 3 2,04 2 0,450 Tính tiện nghi 2 2,18 2 0,560 Tính an toàn 1 2,98 3 0,428 Kết quả Số điểm Loại B 22,46 Nguồn: Kết quả nghiên cứu luận văn cao học QTKD khóa XI - Đại học Cần Thơ của tác giả Qua kết quả đánh giá trên cho thấy tính hấp dẫn đạt 3 điểm, thể hiện vẻ đẹp của cảnh quan sinh thái miệt vườn, nhưng chưa đạt điểm tối đa, do đó cần có kiến trúc cảnh quan môi trường để tạo khung cảnh hấp dẫn hơn; tính đa dạng sinh học đạt 2,04 điểm, cho thấy tính đa dạng sinh học ở mức trung bình, cần tạo thêm nhiều giống nhãn và trồng thêm nhiều loại cây ăn trái để đáp ứng nhu cầu khách tham quan suốt năm; tính tiện nghi đạt 2,18 điểm, khu vực này chưa có khách sạn, chỉ có một số nhà trọ, nên làm hạn chế việc nghỉ ngơi của du khách; tính an toàn đạt 2,98 điểm, khả năng an toàn tương đối cao, nhưng bên cạnh đó cần chú ý đến công tác vệ sinh môi trường và cống thoát nước. Các chuyên gia đều cho rằng cảnh quan sinh thái tuyến du lịch vườn nhãn là đẹp. Vì đây là vườn nhãn cổ, khu vườn này có trên 100 tuổi, cả một khu vườn rộng trên 300 ha, có khung cảnh thoáng mát làm cho du khách có cảm giác thật dễ chịu, có nhiều loại nhãn rất đặc trưng như: nhãn tu huýt, nhãn xua bíc, nhãn thơm, nhãn xuồng cơm vàng, nhãn huế, nhãn da bò, hương thơm vị ngọt đầy sức hấp dẫn. Nhưng tính đa dạng sinh học chưa phong phú, cần nghiên cứu trồng thêm một số loại cây ăn trái phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu tạo ra nhiều cây ăn trái đặc trưng. Cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đạt yêu cầu, cần đầu tư thêm một số quầy kiosque bán quà lưu niệm, thiết kế lại một số hàng quán trông có thẩm mỹ, đầu tư thêm một số nhà nghỉ có đầy đủ tiện nghi trong khu vực vườn nhãn để phục vụ du khách có nhu cầu nghỉ dưỡng hưởng không khí trong lành của vườn nhãn và gió biển. Căn cứ vào số liệu trên ta có kết quả các chỉ tiêu thu hút khách du lịch như sau: Nhìn vào kết quả các chỉ tiêu thu hút khách du lịch tại vườn nhãn ta có tổng cộng là 22,46 điểm tương đương với loại B. Điểm này có khả năng thu hút khách du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Qua thu thập thông tin từ mẫu phỏng vấn, ta có bảng các chỉ tiêu quản lý và khai thác khách như sau: Bảng 10: Kết quả các chỉ tiêu quản lý và khai thác khách tại vườn nhãn Chỉ tiêu Hệ số Điểm đánh giá Trung bình Tần số Độ lệch chuẩn Tính bền vững 3 2,78 3 0,737 Tính liên kết 3 2,86 3 0,606 Tính thời vụ 2 2,14 2 0,700 Tính sức chứa 1 2,74 3 0,694 Kết quả Số điểm Loại B 23,94 Nguồn: Kết quả nghiên cứu luận văn cao học QTKD khóa XI - Đại học Cần Thơ của tác giả Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 30 (2014): 73-83 81 Qua kết quả đánh giá trên, tính bền vững đạt 2,78 điểm, thể hiện tính bền vững khu vườn nhãn khá cao, tài nguyên du lịch tồn tại khá vững chắc, điều này rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch lâu dài; tính liên kết đạt 2,86 điểm, cho thấy khả năng liên kết với các điểm du lịch trong vùng khá tốt, do vườn nhãn nằm gần các điểm du lịch biển, rừng ngập mặn, sân chim, nên việc liên kết các tuyến du lịch trong vùng thành một chương trình du lịch liên hoàn thu hút khách tham quan nhiều hơn; tính thời vụ đạt 2,14 điểm, cho thấy thời gian triển khai hoạt động du lịch chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của vườn nhãn, do đó cần đầu tư các điểm vui chơi giải trí, khai thác tốt loại hình du lịch lễ hội để hoạt động du lịch diễn ra liên tục trong năm; sức chứa đạt 2,74 điểm, khả năng sức chứa tương đối lớn, nhưng cần phải tổ chức quy hoạch để thấy cảnh quan vườn nhãn có quy mô hơn. Nhìn chung các chuyên gia đồng ý với cách đánh giá trên, nhưng bên cạnh đó cần phải nghiên cứu xây dựng phòng trưng bày hình ảnh thể hiện cuộc sống sinh hoạt của 3 dân tộc Kinh, Hoa, Khmer tại vùng đất này. Đồng thời khảo sát chọn giống trồng thêm một số loại nhãn mới cho năng suất cao hơn, vì hiện nay vườn nhãn đã quá già, có nhiều cây bị nhiễm bệnh, cho năng suất thấp, làm giảm hiệu quả kinh tế, ảnh hưởng đến việc kinh doanh lâu dài của chủ vườn. Mặt khác, để vườn nhãn thêm phần sinh động hơn, tạo vẽ mỹ quan cho khu vực vườn nhãn, cần trồng thêm một số cây kiểng có giá trị, làm nơi sinh hoạt và tổ chức các hội thi cho những người yêu thích chim cảnh, cá cảnh. Để thu hút du khách nhiều hơn, nên tổ chức ăn, nghỉ tại trong vườn, đưa loại hình đàn ca tài tử vào chương trình tham quan. Có như thế mới có khai thác hết tiềm năng du lịch tại đây. Căn cứ vào số liệu trên ta có kết quả các chỉ tiêu khai thác, quản lý như sau: Nhìn vào kết quả các chỉ tiêu quản lý và khai thác khách du lịch tại vườn nhãn ta có tổng cộng 23,94 điểm tương đương với loại B. Điểm này cần đầu tư nhiều trong quản lý, khai thác. * Đánh giá chung về tài nguyên du lịch sinh thái tỉnh Bạc Liêu Tổng kết chung trong tỉnh Bạc Liêu có 4 điểm tài nguyên du lịch sinh thái được xếp loại như sau: Bảng 11: Đánh giá các điểm tài nguyên du lịch sinh thái tỉnh Bạc Liêu STT Tên tuyến điểm TNDLST Loại TNDLST Đánh giá khả năng thu hút khách Đánh giá quản lý và khai thác Đánh giá tổng hợp 1 Sân chim Bạc Liêu (thị xã Bạc Liêu) HST Sân chim A A A 2 Sân chim Lập Điền (huyện Đông Hải) HST Sân chim B B B 3 Biển - Nhà Mát (thị xã Bạc Liêu) HST rừng ngập mặn, cảnh quan bãi biển B B B 4 Vườn Nhãn (xã Hiệp Thành) Cảnh quan miệt vườn B B B Nguồn: Kết quả nghiên cứu luận văn cao học QTKD khóa XI - Đại học Cần Thơ của tác giả Đánh giá khả năng thu hút khách; đánh giá quản lý và khai thác khách A,B,C: Dựa vào Bảng 3 đến Bảng 10 kết quả các chỉ tiêu thu hút khách và kết quả các chỉ tiêu quản lý và khai thác khách. Ngoài các tài nguyên du lịch sinh thái nêu trên, các di tích lịch sử văn hóa, các công trình kiến trúc nghệ thuật là một trong những nơi thu hút nhiều khách du lịch. Để góp phần làm chương trình du lịch thêm đa dạng phong phú, khai thác triệt để tiềm năng du lịch sẵn có, thì cần phải kết hợp nhiều loại hình du lịch trong cùng một chuyến đi. Trong đó, nguồn du lịch tài nguyên nhân văn không thể không khai thác, điều này có ý nghĩa quan trọng, làm tăng sức lôi cuốn du khách, tạo ra hình ảnh du lịch Bạc Liêu mang một nét đặc thù riêng nhằm làm thỏa mãn nhu cầu tham quan du lịch. 6 ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP Với hệ sinh thái đất ngập nước, rừng ngập mặn khu bảo tồn thiên nhiên sân chim, vườn nhãn, tính độc đáo hoạt động du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng, để thúc đẩy mạnh mẽ việc thu hút khách nội địa và quốc tế đến Bạc Liêu theo tôi cần có một số kiến nghị: Nhà nước cần ban hành các quy định, chính sách, xây dựng cơ chế thông thoáng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân tham gia đầu tư và kinh doanh du Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 30 (2014): 73-83 82 lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh. Cần có các chương trình hoạt động xuyên suốt, kéo dài trong nhiều năm bằng các cơ chế thích hợp nhằm thúc đẩy thực hiện các hoạt động du lịch phát triển nhanh và bền vững. Cộng đồng địa phương là thành phần trực tiếp và gián tiếp tham gia vào lực lượng lao động và cung ứng các dịch vụ du lịch sinh thái. Vì vậy cần có chính sách phù hợp nhằm đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng dân cư vào các hoạt động như kinh doanh các loại hình dịch vụ ăn uống, nhà nghỉ, giải trí, vận chuyển hoặc sử dụng nhà dân làm dịch vụ lưu trú, tạo điều kiện cho du khách thâm nhập đời sống thực tế của cư dân nơi đây. Đồng thời cũng cần thúc đẩy sự tham gia và tăng cường vai trò chủ thể của cộng đồng địa phương trong các chương trình đào tạo, đầu tư phát triển du lịch sinh thái, nhằm phát huy và khai thác tối đa tiềm năng du lịch sinh thái của địa phương. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào du lịch bằng cách giảm giá thuê đất, ưu đãi tín dụng (đơn giản các thủ tục thế chấp, tăng tỷ lệ vốn vay trên trị giá tài sản thế chấp, kéo dài thời hạn được vay vốn...) hoàn thiện môi trường đầu tư theo chiều hướng hấp dẫn, thống nhất và ổn định, thủ tục hành chính gọn nhẹ. Tổ chức lập quy hoạch phát triển du lịch sinh thái văn hóa tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở tiềm năng du lịch sẵn có. Từ đó ban hành các chính sách ưu tiên cần thiết nhằm hỗ trợ cho các dự án phát triển du lịch kịp thời. Phải tập trung xúc tiến quy hoạch chi tiết phát triển các khu du lịch sinh thái để làm cơ sở cho các dự án đầu tư. Trong quá trình quy hoạch phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chuyên gia quy hoạch du lịch với các ban ngành liên quan, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư, để đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể của tỉnh, khu vực và quốc gia. Nhà nước cần tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng tại các địa bàn trọng điểm có tiềm năng phát triển du lịch như nâng cấp toàn bộ tuyến đường từ kinh tư đến sân chim Lập Điền, xây dựng tuyến giao thông từ khu Nhà Mát đến huyện Đông Hải; phát triển hệ thống điện lưới hạ thế đến các tuyến điểm du lịch; mở rộng và nâng cấp dịch vụ bưu chính viễn thông phủ khắp địa bàn; phát triển các dịch vụ truyền thông đa phương tiện; hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng tại các khu vực giải trí, nghỉ dưỡng, hệ thống đường bộ trong các khu vực tham quanđể tạo điều kiện cho du khách đi lại dễ dàng và đủ tiện nghi sinh hoạt. Địa phương có tài nguyên du lịch nên chủ động huy động các nguồn vốn từ dân cư địa phương để nâng cấp cơ sở hạ tầng nhằm phục vụ du lịch. Khi du lịch phát triển dân địa phương thuộc nhóm người sẽ hưởng lợi đầu tiên. 7 KẾT LUẬN Bạc Liêu là một nằm trong tiểu vùng du lịch Tây Nam Bộ, thuộc vùng du lịch Đồng bằng sông Cửu Long, Bạc Liêu có vai trò quan trọng trong phát triển du lịch của vùng nói riêng và của cả nước nói chung. Tỉnh Bạc Liêu nằm trên trục quốc lộ 1A, giao thông đi lại thuận tiện cả đường bộ và đường thủy. Nét đặc thù của tỉnh là có nhiều hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, các cửa sông ven biển - Nhà Mát, với khu bảo tồn thiên nhiên nổi tiếng cả nước như sân chim Bạc Liêu, vườn nhãn, đồng thời tỉnh cũng có những tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị nhất định trong phát triển du lịch. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tỉnh Bạc Liêu là rất lớn, do tỉnh có nhiều cảnh quan thiên nhiên, tính đa dạng sinh học như sân chim, vườn nhãn, bãi biển, rừng ngập mặn và tài nguyên nhân văn. Việc phát triển du lịch sinh thái là tạo ra nhiều việc làm có thu nhập cho người dân địa phương, nhằm tôn tạo và phát huy các cảnh quan thiên nhiên và môi trường trong sự phát triển bền vững. Chính du lịch sinh thái là cách tốt nhất trong khai thác tiềm năng sẵn có, nhưng cần phải quy hoạch và có phương châm đúng đắn, không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. Ngân sách thu được sẽ giúp cho các tuyến du lịch có kinh phí làm tốt công tác bảo tồn và phát triển, đồng thời đóng góp cho ngân sách địa phương. Một vấn đề cấp thiết cần phải thực hiện song song với phát triển du lịch sinh thái đó là vấn đề bảo vệ môi trường. Vì vậy, các cơ quan quản lý địa phương và các cấp lãnh đạo của tỉnh thường xuyên tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp dân cư để nâng cao nhận thức của người dân, giúp cho công tác bảo vệ môi trường đạt hiệu quả. Thêm vào đó, việc phát triển du lịch sinh thái tỉnh Bạc Liêu, cần duy trì những nét sinh hoạt tự nhiên đẹp vốn có của người dân nơi đây, các lễ hội dân gian, các làng nghề truyền thống, các chương trình ca múa nhạc dân tộc mang tính nghệ thuật cao. Đồng thời có kế hoạch phát triển các loại hình dịch vụ du lịch như các trò chơi giải trí, trung tâm mua sắm, cửa hàng bán đồ lưu niệm, đầu tư hệ thống nhà nghỉ, nhà hàng khách sạn đầy đủ tiện nghi. Có như vậy mới tạo được nét đặc thù và sức hút riêng cho mình. Từ những tiềm năng sẵn có, cùng với sự quan tâm và đầu tư đúng hướng của Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 30 (2014): 73-83 83 các cấp chính quyền, chắc chắn du lịch sinh thái Bạc Liêu sẽ trở thành một trong những điểm du lịch sinh thái hấp dẫn nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Watkin, J. (2003) The evolution of ecotourism in EastAfrica: from an idea to an industry. IIED Wildlife and Development Series No.15, International Institute for Environment and Development, London, UK. 2. Nyaupane, G.P. & Thapa, B. (2004). Evaluation of ecotourism: a comparative assessment in the Annapurna conservation area project, Nepal. Journal of Ecotourism 3(1): 20–45. 3. Fennell, D. (2002b) Ecotourism: where we’ve been; where we’re going. Journal of Ecotourism 1(1): 1–6. 4. Lim, C., & McAleer, M. (2005). Ecologically sustainable tourism management. Environmental Modeling & Software, 20(11), 1431–1438. 5. Boo, E. (1991). Making ecotourism sustainable: Recommendations for planning, development, and management. In T. Whelan (Ed.), Nature tourism: Managing for the environment (pp. 187–199). Washington: Island Press. 6. Ceballos-Lascura´in, H. (1996). Tourism, ecotourism and protected areas: The state of nature-based tourism around the world and guidelines for its development. Gland, Switzerland, and Cambridge, UK: IUCN. 7. Ross, S., & Wall, G. (1999). Ecotourism: Towards congruence between theory and practice. Tourism Management, 20(1), 123–132. 8. Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 9. Lưu Thanh Đức Hải (2005), nghiên cứu marketing, Trường Đại học Cần Thơ. 10. Trần Văn Thành (2005), định hướng quy hoạch du lịch sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 11. Phan Huy Xu và Trần Văn Thành (1998), Đánh giá tài nguyên du lịch tự nhiên và định hướng khai thác du lịch sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo khoa học đề tài cấp trường, Trường Đại học Dân lập Văn Lang TP. Hồ Chí Minh. 12. Lê Huy Bá (2005), du lịch sinh thái, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 13. Phạm Trung Lương (2002), du lịch sinh thái, những vấn đề về lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục. 14. Vũ Nguyên Tự (2000), thảm thực vật sân chim Bạc Liêu, Viện sinh học nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh. 15. Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Bạc Liêu (2012), Những thông tin về du lịch Bạc Liêu.
File đính kèm:
- danh_gia_tiem_nang_tuyen_diem_du_lich_sinh_thai_tinh_bac_lie.pdf