Đào tạo kiến trúc sư tại Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Tóm tắt Đào tạo kiến trúc sư tại Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế: ...trình. Nhận định này thể hiện rõ với sự xuất hiện ngày càng nhiều các dự án công trình thương mại, khách sạn, resort, văn phòng cao tầng, chung cư cao cấp tại các đô thị lớn như Hà Nội, Đà nẵng, thành phố Hồ Chí Minh với kiến trúc phong cách đa dạng và các yêu cầu cao đối với chất lượng thiết ...ư vấn kỹ thuật và thực hiện thi công. Với các trang thiết bị MEP hiện đại, mà đặc biệt là hệ thống điều hòa nhiệt độ và thông gió nhân tạo, sự lạm dụng vào khả năng trang thiết bị nhiều khi đã khiến người thiết kế không quan tâm đúng mức đến các yếu tố khí hậu Việt Nam. Trong nhiều trường hợ...g nghệ châu Á (AIT) - Thái Lan, ... đã được triển khai hoặc chuẩn bị triển khai. Tuy nhiên, phạm vi hợp tác vẫn còn giới hạn ở một số chuyên ngành nhất định như Thiết kế đô thị, Quy hoạch vùng và đô thị, Quản lý đô thị, Thiết kế Công nghiệp, Thiết kế Nội ngoại thất, Công nghệ kiến trúc và Qu...

pdf10 trang | Chia sẻ: Tài Phú | Ngày: 19/02/2024 | Lượt xem: 105 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đào tạo kiến trúc sư tại Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trình. 
Quá trình chuyển giao công nghệ, sự hỗ trợ về kỹ thuật và cạnh tranh về giá 
thành của các nhà cung cấp sản phẩm, vật liệu mới, đã góp phần cho việc ứng dụng đa 
dạng hơn các tiến bộ về khoa học kỹ thuật, công nghệ vật liệu xây dựng mới vào thiết 
kế và xây dựng công trình. Điển hình là trong nhiều năm gần đây, các loại hình nhà 
khung lắp ghép nhiều tầng, công nghệ betong nhẹ, sàn dự ứng lực, sàn rỗng 
BubbleDeck,... đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi. 
1.4. Công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông 
Các nguồn tài nguyên thông tin, cơ sở dữ liệu mở và khả năng truy cập thông 
tin mới về kiến trúc qua sử dụng internet và các phương tiện tuyền thông đã và đang 
giúp sinh viên kiến trúc, kiến trúc sư tiếp cận gần hơn và đầy đủ hơn với sự tiến bộ của 
thế giới. 
Sự phát triển của các phần mềm tin học hỗ trợ thiết kế và quản lý thông tin xây 
dựng liên tục cập nhật, cải tiến và sử dụng trong các văn phòng kiến trúc sư trên toàn 
thế giới. 
1.5. Các dự án đầu tư và các công ty tư vấn nước ngoài 
Trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa tại nước ta hiện nay, với môi trường đầu tư 
hấp dẫn, đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều các nhà đầu tư nước ngoài. Phần lớn 
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “ 
_________________________________________________________________________________________ 
70 
các chủ đầu tư nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh mẽ đều có khả năng đầu tư cao 
cho xây dựng công trình. Nhận định này thể hiện rõ với sự xuất hiện ngày càng nhiều 
các dự án công trình thương mại, khách sạn, resort, văn phòng cao tầng, chung cư cao 
cấp tại các đô thị lớn như Hà Nội, Đà nẵng, thành phố Hồ Chí Minh với kiến trúc 
phong cách đa dạng và các yêu cầu cao đối với chất lượng thiết kế. Đây là điều kiện 
thuận lợi để thúc đẩy phát triển, hòa nhịp kiến trúc thế giới nhưng đồng thời cũng là 
thách thức lớn cho kiến trúc Việt Nam. 
Ở góc độ khác, sự hiện diện của các công ty tư vấn nước ngoài đến từ các quốc 
gia phát triển như Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Mỹ... trong nhiều năm 
gần đây đang cho thấy sự cạnh tranh giữa lực lượng kiến trúc sư trong và ngoài nước. 
Với nhiều lợi thế về tài chính và năng lực hành nghề, nhiều công ty nước ngoài đã và 
đang khẳng định vị thế trong thị trường thiết kế. Ngoài ra, yêu cầu dự án phải "có yếu 
tố nước ngoài" của không ít chủ đầu tư sẽ khiến quá trình cạnh tranh này nhiều đòi hỏi 
phức tạp hơn với các kiến trúc sư Việt Nam trong thời gian tới. 
2. Các thuận lợi và thách thức 
2.1. Thuận lợi 
Quá trình hội nhập đòi hỏi những đối tượng đang tham gia vào quá trình đào tạo 
và hành nghề kiến trúc tại Việt Nam phải tự nhìn nhận sự lạc hậu trong tư duy kiến 
trúc cũng như những bất cập trong việc tiếp cận với các xu hướng kiến trúc mới, tự 
thay đổi, hoàn thiện mình để tự nâng tầm tư duy và triết lý trong công tác đào tạo và 
thiết kế, đáp ứng được yêu cầu hòa nhập toàn cầu cho đào tạo kiến trúc nói riêng và 
thiết kế kiến trúc Việt Nam nói chung. 
Quá trình hội nhập giúp kiến trúc sư, giảng viên và sinh viên kiến trúc nâng cao 
kiến thức, cập nhật nhanh chóng các nhân tố mới từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, 
phát huy ý tưởng sáng tạo, ứng dụng vật liệu và công nghệ tiên tiến trong thiết kế các 
dạng công trình mới, công trình cao tầng, công trình đòi hỏi kỹ thuật cao, và đặc biệt là 
tiếp cận được các xu hướng thiết kế tiên tiến của thế giới trong giai đoạn hiện nay. 
Quá trình hội nhập, thông qua giao lưu văn hóa, giúp kiến trúc sư và sinh viên 
kiến trúc định vị đúng mức hơn và khai thác được nhiều hơn các yếu tố văn hóa Việt 
Nam và phương Đông vào thiết kế kiến trúc. 
Quá trình hội nhập tạo điều kiện cho sự liên kết với các doanh nghiệp, nhà sản 
xuất, tăng cường yếu tố đào tạo theo hướng ứng dụng, thực hành, chủ động đưa được 
các công nghệ mới với những yếu tố công nghệ, kỹ thuật... thực tiễn nhất vào hoạt 
động đào tạo. 
Ở góc độ khác, các trường đào tạo kiến trúc sư được đòi hỏi phải thường xuyên 
thay đổi nội dung giáo trình và phương cách đào tạo, điều chỉnh và kiểm định chương 
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “ 
_________________________________________________________________________________________ 
71 
trình theo các chuẩn của khu vực và quốc tế để bằng cấp kiến trúc sư Việt Nam phải 
được thế giới công nhận. 
Quá trình hội nhập tạo điều kiện cho sinh viên, giảng viên tham gia các hoạt 
động giao lưu, hội thảo, workshop... với các chuyên gia, nhà khoa học, giảng viên, 
sinh viên của các trường đào tạo chuyên ngành kiến trúc trong và ngoài nước. 
2.2. Thách thức 
Về mặt chủ quan, trong quá trình hội nhập, việc tiếp nhận các phong cách kiến 
trúc mới đã diễn tiến phần lớn thông qua cảm tính, thiếu phân tích. Quá trình này dẫn 
đến hiện tượng tiếp nhận hình thức thuần tuý. Người tiếp nhận, đặc biệt là sinh viên, 
rất ít khi quan tâm toàn diện đến triết lý thiết kế mới mà chủ yếu là vay mượn các bộ 
vỏ hình thức. Thời gian gần đây qua đánh giá đồ án sinh viên, chúng tôi nhận thấy có 
hiện tượng nhiều sinh viên thoát ly công năng, không quan tâm đến nhiệm vụ thiết kế, 
mà chủ yếu chỉ phô diễn hình khối bên ngoài một cách lệch lạc. Nhiều trường hợp 
thậm chí sao chép hình thức, bất kể công năng, quy mô và vị trí công trình. Hiện tượng 
này cũng đã thấy xuất hiện ở một số công trình thực tế do kiến trúc sư Việt Nam thiết 
kế. 
Về mặt khách quan, việc phát huy cá tính thông qua con đường “Giải toả cấu 
trúc” thiếu kiểm soát vô hình chung đã đưa người thiết kế đi lạc rất xa khỏi những kiến 
thức căn bản của nghề nghiệp, giống như một người học vẽ tự ảo tưởng về giá trị của 
những ‘tác phẩm” trừu tượng của mình, trong khi họ chưa có được căn bản về nguyên 
tắc hiện thực. 
Nhiều người thiết kế bị lệ thuộc quá nhiều vào các phầm mềm CAD, xem CAD 
là mục tiêu, trong khi về bản chất đó chỉ là phương tiện hỗ trợ thiết kế. Xét dưới góc 
độ đào tạo, theo đánh giá của nhiều chuyên gia nước ngoài thì sinh viên kiến trúc Việt 
Nam hiện đang có thế mạnh về phác thảo trong quá trình tìm ý. Khả năng phác thảo là 
phương tiện quan trọng giúp sinh viên tôi luyện cách nhìn và xây dựng ý thức về tỷ lệ 
– những căn bản cần thiết của một người thiết kế. Nếu đánh mất các kỹ năng này, 
người kiến trúc sư tương lai phải bị lệ thuộc vào máy tính, và do đó sẽ chịu giới hạn về 
sáng tạo. 
Nhiều người thiết kế bị lệ thuộc vào nhà cung cấp sản phẩm, giao phó nhiệm vụ 
tổ hợp, tạo hình và cả thiết lập công năng của kiến trúc sư cho các nhà sản xuất. Cần 
lưu ý rằng, tại các văn phòng thiết kế toàn cầu như SOM, HOK, KPF, chính kiến trúc 
sư mới là người nghiên cứu đề xuất giải pháp vỏ bao che, còn nhà sản xuất chỉ là đơn 
vị tư vấn kỹ thuật và thực hiện thi công. 
Với các trang thiết bị MEP hiện đại, mà đặc biệt là hệ thống điều hòa nhiệt độ 
và thông gió nhân tạo, sự lạm dụng vào khả năng trang thiết bị nhiều khi đã khiến 
người thiết kế không quan tâm đúng mức đến các yếu tố khí hậu Việt Nam. Trong 
nhiều trường hợp, giải pháp thiết kế không phù hợp, không dự trù được khả năng 
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “ 
_________________________________________________________________________________________ 
72 
thông thoáng và chiếu sáng tự nhiên trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm tại 
nước ta. Trong một số trường hợp khác, việc sử dụng các trang thiết bị không được dự 
trù trước trong quá trình thiết kế, dẫn đến hậu quả là nhiều công trình bị cơi nới, chắp 
vá khi lắp đặt thiết bị phát sinh, gây phản cảm về thẩm mỹ và ảnh hưởng đến môi 
trường. 
Việc xuất hiện công trình cao tầng tại các đô thị lớn là một thách thức lớn cho 
nhu cầu lưu giữ ký ức đô thị và đặt ra các bài toán nan giải về giao thông và môi 
trường. 
Nhiều dự án đầu tư nước ngoài, và gần đây có cả các dự án Việt Nam với nguồn 
vốn tư nhân, có xu hướng sử dụng thiết kế nước ngoài, hạn chế khả năng tham gia của 
kiến trúc sư Việt Nam. Hiện tượng này đặt ra thách thức lớn mang tính cạnh tranh, đòi 
hỏi các cơ sở đào tạo và các đơn vị thiết kế trong nước phải có kế hoạch nâng cao chất 
lượng thiết kế và chiến lược phát triển phù hợp. 
B. QUAN ĐIỂM HỘI NHẬP VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG ĐÀO TẠO KTS TẠI 
TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC TP. HỒ CHÍ MINH 
1. Tổng quan về đào tạo kiến trúc sư tại trường Đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí 
Minh trong bối cảnh hội nhập 
Tiếp nối truyền thống đào tạo kiến trúc sư của trường Kiến trúc Sài Gòn (giai 
đoạn từ năm 1951 - 1975), trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh được thành lập 
theo quyết định số 426/TTg ngày 27/10/1976 theo quyết định của Thủ tướng Chính 
phủ, đến nay đã được 40 năm. 
Trong quá trình 65 năm đào tạo kiến trúc sư, trải qua nhiều thăng trầm và thay 
đổi, với vai trò là một trong các đơn vị chủ lực trong công tác đào tạo kiến trúc sư, 
trường đại học Kiến trúc TP.Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện 
nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực kiến trúc và quy hoạch cho 
khu vực phía Nam và các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên. Với gần 10.000 sinh viên 
chuyên ngành kiến trúc ra trường, đội ngũ kiến trúc sư này đã và đang góp phần tích 
cực trong việc phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. 
Tuy nhiên cần nhìn nhận rằng, lực lượng kiến trúc sư được đào tạo tại các 
trường đại học trong nước, trong đó có đại học Kiến trúc TP.Hồ Chí Minh, số lượng 
nhiều nhưng chất lượng không đồng đều. Một phần là do không có môi trường hành 
nghề phù hợp, các tổ chức tư vấn kiến trúc nhiều nhưng manh mún, nhỏ lẻ và hành 
nghề chủ yếu ở các đô thị lớn. Phần khác là do chất lượng đào tạo kiến trúc sư tại 
nhiều cơ sở đào tạo chưa theo kịp với xu thế hội nhập. Ở góc độ đào tạo kiến trúc sư 
tại trường đại học Kiến trúc TP.Hồ Chí Minh, có thể khái quát bởi một số nguyên nhân 
cơ bản sau: 
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “ 
_________________________________________________________________________________________ 
73 
Về chương trình đào tạo: dù đã có nhiều thay đổi với nhiều ưu điểm rõ nét về 
cấu trúc và nội dung so với chương trình trước đây, nhưng ở nhiều chuyên ngành vẫn 
còn thiếu những yêu cầu cần thiết về chuẩn đầu ra để đáp ứng mục tiêu và nhu cầu 
đào tạo chất lượng cao trong thời kỳ hội nhập khu vực và thế giới. 
Về đội ngũ giảng viên: được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau trong nước và 
nước ngoài như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, 
Singapore, Trung Quốc, v.v., kiến thức nhìn chung sâu và rộng ở nhiều lĩnh vực, tiếp 
cận được sự phát triển của thế giới. Tuy nhiên, sự trải nghiệm thực tế chưa nhiều, đây 
là hạn chế quan trọng đối với giảng viên giảng dạy các chuyên ngành đào tạo về thực 
hành. 
Về phương pháp đào tạo: đã có nhiều đổi mới, người học được chú trọng đào 
tạo và phát triển với nhiều kỹ năng toàn diện hơn. Tuy nhiên, các hoạt động trao đổi 
giảng viên, sinh viên, tạo điều kiện giao lưu, học hỏi lẫn nhau thông qua các hội thảo, 
chương trình workshops, nghiên cứu, tham quan thực hành, .v.v.. chưa thực sự có điều 
kiện để đẩy mạnh. Việc tăng cường các hoạt động học thuật thông qua việc tổ chức 
hoặc tham gia các cuộc thi có tính chất quốc tế như ArchiCad BIM Competition, 
World Architecture Festival, FuturArc, Asian Contest of Architectural Rookie's 
Award... do nhiều rào cản về ngoại ngữ và thời gian nên chưa được đông đảo sinh viên 
tham gia. 
Về vấn đề hội nhập quốc tế thông qua các chương trình hợp tác với các đối tác 
nước ngoài nhằm trao đổi về chương trình đào tạo, kinh nghiệm, công nghệ mới phục 
vụ mục tiêu phát triển khoa học công nghệ và đào tạo vẫn còn một số hạn chế nhất 
định. Trong những năm gần đây, một số chương trình tiên tiến được xây dựng theo 
chuẩn của khu vực và châu Âu, liên kết đào tạo với các trường đại học trên thế giới 
như Đại học Kỹ thuật Swinburne - Australia, Đại học Katholike Leuven – Vương 
Quốc Bỉ, Đại học Bắc Đan Mạch (UCN), Học viện Công nghệ châu Á (AIT) - Thái 
Lan, ... đã được triển khai hoặc chuẩn bị triển khai. Tuy nhiên, phạm vi hợp tác vẫn 
còn giới hạn ở một số chuyên ngành nhất định như Thiết kế đô thị, Quy hoạch vùng và 
đô thị, Quản lý đô thị, Thiết kế Công nghiệp, Thiết kế Nội ngoại thất, Công nghệ kiến 
trúc và Quản lý xây dựng v.v., chưa được mở rộng cho các chuyên ngành đào tạo kiến 
trúc sư khác của trường. 
Về cơ sở vật chất phục vụ đào tạo: tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng vẫn 
chưa thể đáp ứng được yêu cầu, nhất là những trang thiết bị phục vụ giảng dạy các 
môn học ứng dụng thực nghiệm, thực hành... 
Nhiều năm trước đây, việc đẩy mạnh liên kết với doanh nghiệp trong hoạt động 
đào tạo vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, 
tận dụng sự hỗ trợ từ phía doanh nghiệp về khai thác sử dụng cơ sở vật chất, phòng thí 
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “ 
_________________________________________________________________________________________ 
74 
nghiệm, nắm bắt các yêu cầu công việc thực tế sau khi ra trường,.. vẫn còn nhiều khó 
khăn và bất cập. 
Sự hạn chế về năng lực ngoại ngữ, đặc biệt là khả năng sử dụng tiếng Anh 
chuyên ngành đã dẫn đến hạn chế về khả năng hội nhập trong hoạt động nghề nghiệp 
và đào tạo. 
Nhìn nhận thực tế trong bối cảnh hội nhập, trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí 
Minh đã và đang có nhiều sự chuyển mình, thay đổi trong cách nhìn và quan điểm đào 
tạo, thay đổi trong các chính sách đầu tư về cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ giảng viên, 
mở rộng quan hệ hợp tác,... Và điểm nhấn nổi bật nhất chính là sự thay đổi về chương 
trình đào tạo với những mục tiêu phù hợp hơn, hướng tới đạt chuẩn khu vực theo 
chuẩn giáo dục ASEAN. Kết quả của những sự thay đổi này tuy chưa có những tổng 
kết rõ ràng nhưng đã phản ánh những nhận định và hướng đi tích cực trong công tác 
đào tạo kiến trúc sư giai đoạn hội nhập hiện nay. 
2. Quan điểm hội nhập 
Việt Nam đang ngày càng phát triển theo xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. 
Trong lĩnh vực thiết kế kiến trúc, xét trên cả hai phạm vi thực hành và đào tạo, thì việc 
tiếp thu vận dụng các yếu tố ngoại sinh để phát triển là xu thế tất yếu. Vấn đề đặt ra là, 
sự phát triển đó cần thiết phải dựa trên nền tảng các điều kiện đặc thù của Việt Nam, 
mà đặc biệt là yếu tố tự nhiên môi trường và các giá trị văn hóa. 
Xu thế phát triển không cho phép những đối tượng đang tham gia vào quá trình 
đào tạo và hành nghề kiến trúc tại Việt Nam (giảng viên đại học, kiến trúc sư, sinh 
viên kiến trúc) thu mình vào các lối mòn quen thuộc, cả về tư duy không gian, tư duy 
công nghệ, phương pháp giảng dạy lẫn cung cách quản lý. Nhưng sự phát triển bền 
vững cũng đồng thời không chấp nhận cách tiếp cận cái mới theo kiểu lai căng, bản 
năng và cảm tính. 
Vì vậy, tiếp thu và gạn lọc các tác nhân ảnh hưởng đến công tác đào tạo kiến 
trúc sư, chúng tôi nhìn nhận tổng thể và khách quan đến mọi nguồn lực, trong đó nhấn 
mạnh triết lý đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đạt tính cạnh tranh cao cho 
hiện tại và tương lai. 
3. Định hướng đào tạo kiến trúc sư tại trường ĐH Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh 
Nhận diện các thuận lợi và thách thức trong bối cảnh hội nhập và để có thể 
tham gia hội nhập một cách chủ động, trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh đang 
hướng tới mục tiêu xây dựng chương trình đào tạo đội ngũ kiến trúc sư mới, đáp ứng 
các nhu cầu của môi trường xây dựng hiện đại ở Việt Nam cũng như quốc tế, sự chuẩn 
bị cần thiết cho ngành xây dựng của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập. Cụ thể hóa 
mục tiêu nêu trên, trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh đang định hướng xây 
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “ 
_________________________________________________________________________________________ 
75 
dựng các chương trình đào tạo nguồn nhân lực Kiến trúc sư với các chuẩn đầu ra như 
sau: 
Về kiến thức 
Có kiến thức nền tảng về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn để 
tiếp thu vững vàng kiến thức giáo dục chuyên ngành và phát triển tư duy khoa học, 
phát triển các giá trị nhân văn trong thiết kế kiến trúc. 
Có kiến thức vững vàng về lý thuyết chuyên ngành, lịch sử kiến trúc, các 
nguyên lý cơ bản trong thiết kế kiến trúc, nắm vững các vấn đề kỹ thuật công trình, 
thiết kế bền vững... 
Có kiến thức mở rộng về quy hoạch, thiết kế đô thị, cảnh quan, nội thất, kết cấu, 
kỹ thuật công trình, môi trường, quản lý dự án,... các chuyên ngành có liên quan đến 
ngành kiến trúc. 
Có năng lực tư duy nghiên cứu khoa học vững vàng. 
Về kỹ năng 
Kỹ năng cứng 
Có khả năng vững vàng để sáng tác, lập hồ sơ và quản lý thiết kế các công trình 
kiến trúc dân dụng và công nghiệp trong nước và quốc tế (thông qua thực tập chuyên 
ngành ở các tổ chức tư vấn thiết kế, giám sát, thi công kiến trúc - xây dựng.) 
Có khả năng dẫn dắt (leadership) và làm việc nhóm, điều phối, phối hợp các bộ 
môn kỹ thuật trong quá trình thiết kế. 
Có khả năng tham gia tư vấn, lập, thẩm định và giám sát thực hiện dự án xây 
dựng các công trình dân dụng và công nghiệp. 
Có khả năng thể hiện tốt đồ án thiết kế kiến trúc bằng bản vẽ và mô hình, sử 
dụng tốt các phần mềm hỗ trợ thiết kế kiến trúc. 
Có khả năng vững vàng để tham gia nghiên cứu khoa học. 
Kỹ năng mềm 
Có khả năng độc lập nghiên cứu, sáng tạo và làm việc nhóm. 
Có khả năng tìm kiếm và biết xử lý, ứng dụng các kiến thức khoa học công 
nghệ tiên tiến vào quá trình thiết kế kiến trúc. 
Có năng lực trình bày các vấn đề chuyên môn một cách khoa học bằng hai ngôn 
ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Năng lực ngoại ngữ: Tiếng Anh đạt mức 600 điểm 
TOEIC hoặc các chứng chỉ khác tương đương. Sử dụng thành thạo tiếng Việt trong các 
vấn đề chuyên môn và xã hội. 
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “ 
_________________________________________________________________________________________ 
76 
Về thái độ 
Thượng tôn pháp luật. Có đạo đức nghề nghiệp vững vàng. 
Có trách nhiệm cao với cộng đồng và môi trường. 
Có tinh thần học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ sau đại học. 
Về khả năng thích nghi với môi trường lảm việc 
Xây dựng tác phong làm việc khoa học, tinh thần kỷ luật, hòa nhập nhanh 
chóng vào các môi trường làm việc khác nhau. 
Có năng lực tự học để hoàn thiện, bổ sung, nâng cao trình độ chuyên môn 
nghiệp vụ. 
Có năng lực tự hoàn thiện các kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng mềm, nâng cao 
năng lực cạnh tranh trong quá trình hành nghề trong nước và quốc tế. 
Với những định hướng và mục tiêu nêu trên, những sự chuẩn bị về nội dung 
chương trình đào tạo, so sánh với các chương trình đào tạo kiến trúc sư ở các nước tiên 
tiến, đối chiếu với các chuẩn đào tạo của khu vực, tiếp nhận các ý kiến phản biện của 
các chuyên gia và xã hội, đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, những đầu tư 
về cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ đào tạo,... đã và đang là những nhiệm vụ trọng 
tâm của trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 
Thuận lợi và thách thức trong bối cảnh hội nhập hoàn toàn không phải là rào 
cản cho sự phát triển, mà chính là động lực thúc đẩy những đối tượng đang tham gia 
vào quá trình đào tạo và hành nghề kiến trúc tại Việt Nam tự tìm hiểu, khám phá và 
sáng tạo, là cơ hội cho kiến trúc Việt Nam vươn ra tầm quốc tế. Tuy nhiên, để hiện 
thực hóa những mục tiêu được đề ra trong quá trình hội nhập, chúng tôi rất cần nhận 
được sự quan tâm hỗ trợ từ các cấp lãnh đạo, Hội ngành nghề, sự hợp tác từ các 
trường đại học, các chuyên gia đầu ngành và sự liên kết hỗ trợ từ các doanh nghiệp... 
trong và ngoài nước..., chúng tôi xác định, đó là yếu tố quan trọng giúp Đại học Kiến 
trúc TP. Hồ Chí Minh cũng như các đơn vị đào tạo kiến trúc sư tại Việt Nam có đủ sức 
hòa nhập và cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập hiện nay. 

File đính kèm:

  • pdfdao_tao_kien_truc_su_tai_truong_dai_hoc_kien_truc_thanh_pho.pdf