Du lịch mùa nước nổi vùng Đồng Tháp Mười - Tiềm năng và thực trạng

Tóm tắt Du lịch mùa nước nổi vùng Đồng Tháp Mười - Tiềm năng và thực trạng: ... sau. - Giai đoạn giữa gọi là giai đoạn “lũ tràn”, lũ vẫn chảy theo các kênh chính nhưng bắt đầu có một lượng nước khác tràn qua bờ sông Tiền đổ vào ĐTM, tạo nên quá trình chảy tràn trên bề mặt. - Giai đoạn cuối là giai đoạn “lũ rút”, lũ qua các cửa sông trên quốc lộ 1A từ An Hữu đến...vùng ĐTM vẫn chưa được khai thác có hiệu quả. Cây sen ở ĐTM mọc một cách tự nhiên khắp mọi nơi cùng lau sậy, cỏ lác, cỏ năng. Đây là loại cây mà toàn bộ các bộ phận đều được sử dụng, như: lá sen để gói bánh, ngó sen dùng nấu canh hay xào, hoa sen dùng trang trí, Ngoài hiệu quả kinh...thiên nhiên dưới sự tác động của thời tiết, khí hậu. Từ đó các điểm, khu du lịch, khu bảo tồn và vườn quốc gia của vùng có điều kiện phát triển. Cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng sẽ được quan tâm và đầu tư phù hợp hơn với tình hình phát triển du lịch và kinh tế của vùng (chẳng h...

pdf9 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 339 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Du lịch mùa nước nổi vùng Đồng Tháp Mười - Tiềm năng và thực trạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 mùa 
nước nổi vùng ĐTM đã tạo nên một loại 
hình du lịch mới độc đáo, thể hiện sự 
gần gũi giữa thiên nhiên và con người. 
Bài viết này tập trung phân tích về các 
mặt tiềm năng phát triển du lịch mùa 
nước nổi, tác động từ du lịch mùa nước 
nổi đến quá trình khai thác phát triển du 
lịch và thực trạng phát triển du lịch mùa 
nước nổi ở vùng ĐTM dựa trên nguồn 
tài liệu về mùa nước nổi ở các tỉnh của 
vùng và từ khảo sát thực địa. 
2. Tiềm năng phát triển du lịch 
mùa nước nổi vùng ĐTM 
2.1. Sơ lược về vùng ĐTM 
ĐTM (xem hình 1) không phải là 
địa danh hành chính, mà là địa danh chỉ 
vùng, do người dân đặt ra khi đến đây 
khẩn hoang. Sau đó, người Pháp gọi 
theo nhận xét về mặt thảo mộc là Plaine 
Des Joncs (Cánh đồng lau sậy). Theo 
 168
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Đang Thanh 
__________________________________________________________________________________________________________ 
địa giới hành chính, vùng Đồng Tháp 
Mười được xác định thuộc địa phận của 
ba tỉnh: Long An, Đồng Tháp và Tiền 
Giang (số liệu được tổng hợp từ báo cáo 
của ba tỉnh trong niên giám thống kê 
năm 2009) với sự phân bố như sau: 
- Long An (299 452 ha, chiếm 47% 
vùng Đồng Tháp Mười) gồm các huyện: 
Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Mộc Hóa, Tân 
Thạnh, Thạnh Hóa, Đức Huệ, Thủ Thừa 
(4 xã phía Bắc), Bến Lức (3 xã phía 
Bắc). 
- Đồng Tháp (239 000 ha, chiếm 
38% vùng) gồm: thành phố Cao Lãnh 
và các huyện Tam Nông, Cao Lãnh, 
Tháp Mười, Tân Hồng, Hồng Ngự (trừ 
5 xã cù lao), Thanh Bình (trừ 5 xã cù 
lao). 
- Tiền Giang (92 500 ha, chiếm 
15% vùng) gồm các huyện: Cái Bè, Cai 
Lậy, Tân Phước và một phần huyện 
Châu Thành. 
Tính từ phía Bắc quốc lộ 1A thì 
diện tích tự nhiên của vùng ĐTM 
khoảng 630 952 ha, chiếm 17,72% tổng 
điện tích tự nhiên của đồng bằng sông 
Cửu Long. ĐTM là một vùng đất mới 
nhưng cũng trải qua bao thời kì lịch sử, 
cột mốc quan trọng nhất là vào năm 
1689 - khi chúa Nguyễn khai khẩn 
phương Nam - và mỗi giai đoạn là một 
sự phát triển gắn liền với lịch sử: 
Hình 1. Bản đồ hành chính Đồng Tháp Mười 
 169
Ý kiến trao đổi Số 32 năm 2011 
__________________________________________________________________________________________________________ 
- Giai đoạn 1754-1802: Đây là 
tuyến phòng thủ trong cuộc đánh dẹp 
người Chân Lạp, nơi diễn ra cuộc chiến 
tranh giữa quân Tây Sơn và triều 
Nguyễn. Cuộc sống người dân trong 
giai đoạn này chủ yếu tập trung ở phía 
sông Tiền, sông Vàm Cỏ Đông, sống 
dựa vào thiên nhiên như đánh bắt cá, 
lấy mật ong, đan lát lợp nhà, đan đệm, 
khai thác tràm lục và đập lúa ma (lúa 
trời). 
- Giai đoạn từ 1802 đến 30-04-
1975: Nguyễn Ánh thống nhất đất nước. 
Cuộc sống người dân vùng ĐTM mở ra 
bước ngoặt mới: kinh tế phát triển với 
giao thương buôn bán và trồng lúa; hệ 
thống kênh đào tháo phèn đưa về hai 
hướng: Tiền Giang và sông Vàm Cỏ; 
đường thủy mở rộng giao thương nội, 
ngoại vùng với các kênh lớn như Hồng 
Ngự, Cao Lãnh, Cái Bè, Thiên Hộ, Mỹ 
An, Long Định, Tháp Mười, kênh Trà 
Cú Thượng, kênh Lagrange, kênh Cổ Cò. 
- Giai đoạn từ sau 1975 đến nay: 
Được sự hỗ trợ của Nhà nước, ĐTM 
được đầu tư về kinh tế, văn hóa và xã 
hội, nhất là việc xây dựng các hệ thống 
kênh rạch từ vùng phèn do cố Thủ 
tướng Võ Văn Kiệt chỉ đạo, tạo sự 
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế 
nông nghiệp. 
2.2. Hiện tượng mùa nước nổi ở vùng 
ĐTM 
Nước nổi là hiện tượng nước sông 
dâng cao dần trong một khoảng thời 
gian nhất định, sau đó giảm dần. Khái 
niệm “mùa nước nổi” còn được thay thế 
bởi khái niệm “lũ” hoặc “lụt”. Cách gọi 
này cho thấy nhận thức của người dân 
về hiện tượng thiên nhiên này là hoàn 
toàn bình thường, như sự tuần hoàn của 
các mùa trong một năm theo quy luật tự 
nhiên. Hiện tượng này diễn ra do các 
nguyên nhân chủ yếu sau: 
Thứ nhất, địa hình vùng ĐTM có 
dạng lòng chảo, xung quanh cao, giữa 
thấp trũng, hơi lệch theo trục Tây Bắc - 
Đông Nam, có thể chia ĐTM làm ba địa 
hình đặc trưng là địa hình ven sông, các 
giồng cát ven biển cổ và địa hình đồng 
trũng trải dài từ tỉnh Kandal 
(Campuchia) đến đây. 
Thứ hai, hiện tượng lũ ở ĐTM 
được hình thành bởi nước mưa với khối 
lượng lớn trút xuống thượng nguồn 
sông Mê-kông, các phụ lưu ở trung du 
(ở phía Đông và Tây) do sự tác động 
của gió mùa Tây Nam và nhiều yếu tố 
thời tiết khác. Theo Nguyễn Quới, Phan 
Văn Dốp [7] thì diễn biến một trận lũ ở 
vùng ĐTM thường theo ba giai đoạn: 
- Giai đoạn đầu gọi là “lũ sông”, 
nước bắt đầu từ thượng nguồn sông Mê-
kông chảy vào ĐTM chứa nhiều phù sa 
và lượng phù sa này được chuyển vào 
đồng ruộng cũng đạt mức cao so với các 
giai đoạn sau. 
- Giai đoạn giữa gọi là giai đoạn “lũ 
tràn”, lũ vẫn chảy theo các kênh chính 
nhưng bắt đầu có một lượng nước khác 
tràn qua bờ sông Tiền đổ vào ĐTM, tạo 
nên quá trình chảy tràn trên bề mặt. 
- Giai đoạn cuối là giai đoạn “lũ 
rút”, lũ qua các cửa sông trên quốc lộ 
1A từ An Hữu đến Trung Lương, chủ 
yếu chảy về sông Tiền. Ngoài ra, kênh 
Bo Bo và một số kênh khác còn là nơi 
thoát lũ ra hệ thống sông Vàm Cỏ, cuối 
cùng ra sông Soài Rạp. Hướng lũ đến và 
lũ rút thể hiện ở hình 2: 
 170
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Đang Thanh 
__________________________________________________________________________________________________________ 
Hình 2. Hướng lũ đến và lũ rút vùng ĐTM 
Thứ ba, “ngập lụt” ở ĐTM có diễn 
biến khác nhau trong từng năm, ngoài 
lượng lũ đổ vào còn tùy thuộc các yếu 
tố hạn chế quá trình thoát lũ, làm gia 
tăng tình trạng ngập lụt: mưa nội đồng, 
sự tác động của thủy triều từ biển Đông 
và các công trình cơ sở hạ tầng mới 
phát triển. 
Dù ở mức độ nào thì lũ, lụt vẫn là 
yếu tố chính chi phối các phương diện 
từ tự nhiên cho đến xã hội của vùng 
ĐTM. Đặc điểm của lũ, lụt nơi đây là từ 
từ đến và từ từ đi theo chu kì mỗi năm 
một lần. Lũ ở nơi đây được người dân 
gọi là “con lũ hiền” hay “mùa nước 
nổi”. Đây là điều kiện thuận lợi cho 
việc hình thành, phát triển loại hình du 
lịch mùa nước nổi ở ĐTM. 
2.3. Đời sống sinh hoạt của người 
dân
Mùa nước nổi tuy làm cho sinh 
hoạt, sản xuất của đại bộ phận dân cư 
trong vùng bị ảnh hưởng nhưng cũng 
mang đến nhiều nguồn lợi cho người 
dân. Không những thế, mùa nước nổi 
còn thể hiện đặc trưng văn hóa của địa 
phương qua các mặt sau đây: 
- Về nhà ở: Người dân vùng ĐTM 
có thói quen sống tập trung dọc bờ 
kênh, sông, rạch. Nhà có kiến trúc 
giống như những ngôi nhà ở Nam Bộ, 
riêng nền nhà thì tùy theo khu vực ngập 
nước nông hay cạn mà cao hay thấp, 
hoặc làm nhà “cao cẳng”. 
- Về phương tiện di chuyển: Phương 
tiện di chuyển vào mùa nước nổi của 
người dân là xuồng ba lá, ghe tam bản, 
tắc ráng, ghe chày lón, ghe cà vom 
Người dân vùng ĐTM sử dụng những vùng ĐTM trong mùa
 nước nổi phương tiện này làm “chân đi” như đi 
hái rau, đi thăm lưới, đi chợ, đi giăng 
 171
Ý kiến trao đổi Số 32 năm 2011 
__________________________________________________________________________________________________________ 
câu, đi thăm xóm làng, đi buôn bán. Đôi 
khi, những phương tiện đi lại này còn là 
mái ấm của những người mà cả cuộc 
đời gắn bó cùng ghe xuồng. 
- Về hoạt động kinh tế: Người dân 
vùng ĐTM có những hoạt động kinh tế 
phù hợp với điều kiện của vùng. Trước 
đây thì đánh bắt thủy sản và nhiều động 
vật hoang dã, khai thác tài nguyên rừng 
tràm lục, gặt lúa nước (lúa nổi), Ngày 
nay thì trồng lúa, đa dạng hóa cây trồng 
vật nuôi, bảo vệ và khai thác rừng tràm, 
nuôi cá bè trên sông. Người dân ý thức 
được rằng không chỉ biết khai thác mà 
còn phải biết cách tái tạo để khai thác 
lâu dài. Các hoạt động sản xuất ngày 
càng phát triển đa dạng và phù hợp với 
mùa nước nổi. Từ đó hoạt động vui chơi 
giải trí, khám phá cảnh quan môi trường 
sông nước dần dần được hình thành. 
- Về đời sống tâm linh: Ngoài việc 
thờ ông bà tổ tiên, người dân còn thờ ở 
đình làng những người có công với 
vùng. Sống trong vùng nước mênh 
mông gió to sóng lớn, người dân luôn 
cảm thấy thân phận mình nhỏ bé trước 
thiên nhiên nên nương tựa tinh thần vào 
đấng “bề trên”. Vì vậy ghe nào cũng thờ 
Phật Bà Quan Âm, cũng có chỗ cắm 
nhang cúng Bà Thủy, chư vị Đại Thần. 
Đây là biểu hiện của tâm linh và cũng 
có thể xem như là sản phẩm du lịch phi 
vật thể. 
2.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng vào 
mùa nước nổi vùng ĐTM 
2.4.1. Mùa nước nổi còn là điều kiện 
thuận lợi để các loài thủy sản, thực vật 
sinh sôi, tạo nên sản phẩm du lịch đặc 
trưng, như: 
Cây tràm là loài cây đặc trưng của 
vùng ĐTM do đặc tính thích nghi với 
vùng đất phèn trũng, rất có ích trong 
việc bảo vệ môi trường sinh thái, chắn 
sóng, lũ, giữ nước. Ngoài rừng tràm 
tự nhiên, người dân vùng ĐTM còn 
trồng thêm tràm trong quá trình khai 
hoang, góp phần đưa diện tích rừng 
tràm gia tăng đáng kể. Hiện nay, ở vùng 
ĐTM có một số điểm du lịch sinh thái 
ngập nước kết hợp cùng cây tràm như 
Tràm Chim, Láng Sen đang hoạt 
động khai thác du lịch. Nhưng trên thực 
tế, tiềm năng về cây tràm của vùng 
ĐTM vẫn chưa được khai thác có hiệu 
quả. 
Cây sen ở ĐTM mọc một cách tự 
nhiên khắp mọi nơi cùng lau sậy, cỏ lác, 
cỏ năng. Đây là loại cây mà toàn bộ các 
bộ phận đều được sử dụng, như: lá sen 
để gói bánh, ngó sen dùng nấu canh hay 
xào, hoa sen dùng trang trí, Ngoài 
hiệu quả kinh tế cao, hoa sen còn làm 
cho cảnh quan Đồng Tháp trở nên đẹp 
hơn giữa thiên nhiên mùa nước nổi. 
Bông điên điển chỉ xuất hiện vào 
mùa nước nổi. Đây là loài cây thân 
thảo, mọc hoang ở ven các bờ ruộng, bờ 
kênh. Bông điên điển được dùng kèm 
với nhiều món ăn như: cháo, bún nước 
lèo, bún mắm, canh chua nấu với cá 
linh; đặc biệt còn dùng làm nhân bánh 
xèo, dưa chua hoặc ăn sống. 
Bông súng mọc đầy dưới ruộng, 
đìa, ao, được người dân dùng với mắm 
kho, nấu canh chua. 
Rau choại là loại dây leo thuộc họ 
dương xỉ, thân bò đến đâu thì rễ bám 
đến đó, sống được trong vùng bưng 
 172
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Đang Thanh 
__________________________________________________________________________________________________________ 
trũng nhờ bộ rễ có sức hút nước mạnh, 
đặc biệt rất thích nghi với vùng đất 
nhiễm phèn. Tùy vào môi trường sống, 
rau choại có nhiều loại khác nhau như 
choại đá, choại vườn, choại rừng, chột 
lụi, rau ván. Rau choại có thể dùng để 
luộc và ăn kèm với các món khác. 
Hẹ nước là loài thủy sinh sống 
quanh năm nhưng sinh trưởng mạnh 
vào mùa nước nổi. Hẹ nước có thể sống 
ở vùng phèn nên trở thành đặc sản của 
vùng ĐTM và không thể thiếu trong 
bữa cơm của người dân ở đây. 
Cá linh, vào đầu mùa nước nổi 
cũng chính là lúc những con cá linh 
theo dòng phù sa trôi về sông rạch. 
Trong suốt mùa nước nổi, cá trốn vào 
ruộng đồng để tránh sóng gió mưa bão. 
Ngày nay, cá linh không còn nhiều như 
trước đây nhưng sức hấp dẫn của những 
món ăn chế biến từ cá linh thì không dễ 
quên đối với người dân vùng ĐTM. 
Cá bống trứng thường theo các dề 
lục bình trôi theo dòng nước, có thể 
dùng chế biến nhiều món ăn bằng cách 
chiên hay kho. 
Ngoài ra, còn có các loại cá đồng, 
lươn, tôm, cua, ốc 
Hoạt động du lịch không tách rời 
với ẩm thực. ĐTM là nơi có một nền ẩm 
thực hoang dã, hào phóng, cộng đồng. 
Những món ăn ở đây được chế biến 
theo điều kiện tự nhiên, sản vật tự 
nhiên, không gian tự nhiên, cách thưởng 
thức cũng tự nhiên không cầu kì. Ví dụ 
như món nướng, cái gì cũng có thể 
nướng được, không chỉ tôm, cua, cá, 
heo, gà, vịt, mà còn có các loại rau củ 
như khoai, cà tím, đậu bắp,; và có 
nhiều cách nướng như: nướng trực tiếp 
trên lửa, trên khói, nướng trui, bọc đất 
nướng, bọc lá vùi vào lửa 
2.4.2. Bên cạnh đó, các làng nghề cũng 
là sản phẩm du lịch của ĐTM. Làng 
nghề của người dân vùng ĐTM luôn 
gắn liền với điều kiện tự nhiên nơi đây 
như nghề đan lát, nghề đan đệm, nghề 
làm các công cụ dùng đánh bắt cá tôm, 
nghề làm mắm, nghề làm khô, nghề 
chằm lá. Trong những năm gần đây, 
ĐTM còn phát triển nghề đan lục bình 
thành túi xách xuất khẩu. 
ĐTM là vùng đất có nhiều tiềm 
năng cho việc phát triển các loại hình 
du lịch như: du lịch sinh thái, du lịch 
sông nước miệt vườn, du lịch nghỉ 
dưỡng, du lịch chiến trường xưa, du lịch 
tìm hiểu thời khẩn hoang Nam Bộ. Sự 
hiếu khách, thân thiện cùng với cuộc 
sống sinh hoạt của người dân vùng 
nước nổi tạo nên đặc trưng văn hóa, là 
thế mạnh trong việc khai thác du lịch tại 
địa phương. 
3. Tác động từ du lịch mùa nước 
nổi đến quá trình khai thác phát triển 
du lịch ở vùng ĐTM 
Du lịch mùa nước nổi phát triển 
dẫn đến hàng loạt vấn đề như tự nhiên, 
văn hóa, đời sống cũng thay đổi theo. 
Cảnh quan vùng ĐTM sẽ thay đổi theo 
chiều hướng tích cực nếu có sự quản lí 
và đầu tư phù hợp. 
Khi hoạt động du lịch diễn ra 
trong mùa nước nổi, tài nguyên tự nhiên 
của vùng sẽ được sử dụng tối đa. Người 
dân không chỉ làm công việc đánh bắt, 
nuôi trồng mà còn tham gia phục vụ du 
lịch, tạo cơ hội giải quyết việc làm 
 173
Ý kiến trao đổi Số 32 năm 2011 
__________________________________________________________________________________________________________ 
trong mùa nước nổi, tăng nguồn thu 
nhập. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch 
còn giúp họ trao đổi kinh nghiệm, hiểu 
biết thêm về đời sống, văn hóa, nâng 
cao chất lượng cuộc sống. 
Du lịch mùa nước nổi của vùng 
ĐTM khẳng định giá trị của việc bảo 
tồn diện tích tự nhiên, cảnh quan thiên 
nhiên dưới sự tác động của thời tiết, khí 
hậu. Từ đó các điểm, khu du lịch, khu 
bảo tồn và vườn quốc gia của vùng có 
điều kiện phát triển. 
Cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ 
tầng sẽ được quan tâm và đầu tư phù 
hợp hơn với tình hình phát triển du lịch 
và kinh tế của vùng (chẳng hạn như hệ 
thống đường giao thông, hệ thống xử lí 
chất thải, phương tiện di chuyển, bến 
bãi.) 
Về nguồn tài nguyên tự nhiên, bên 
cạnh những mặt tích cực có những vấn 
đề tiêu cực cần được quan tâm, như: do 
phụ thuộc vào mùa, khí hậu, thời tiết, 
tài nguyên trong mùa nước nổi được 
khai thác nhiều không kịp tái tạo; động 
thực vật tự nhiên được sử dụng làm 
thực phẩm bị tiêu thụ nhiều trong khi 
quá trình tái tạo cần có thời gian. Vì 
vậy, nếu khai thác không hợp lí sẽ dẫn 
đến nguồn tài nguyên khó tái tạo và có 
thể mất đi. 
Cuộc sống người dân vùng ĐTM 
gắn liền sông nước, các sông rạch vốn 
chịu tác động nhiều từ sinh hoạt của 
người dân như: giặt giũ, tắm rửa, phóng 
uế, xả rác thải, nuôi gia cầm, gia súc, 
nên khi du lịch phát triển sẽ phải gánh 
thêm một lượng rác thải nữa từ du 
khách. Rác thải là bài toán khó mà các 
cấp lãnh đạo cần phải tìm cho ra lời 
giải. 
Vấn đề tiếng ồn từ phương tiện 
giao thông (xe, ghe, tàu thuyền) của 
du khách đến vùng cũng sẽ ảnh hưởng 
trực tiếp đến đời sống của người dân địa 
phương, đến các động vật hoang dã cần 
bảo tồn. 
4. Thực trạng phát triển du lịch 
mùa nước nổi vùng ĐTM 
4.1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ 
thuật phục vụ du lịch 
Về cơ sở hạ tầng, ĐTM có hệ 
thống giao thông đường thủy và đường 
bộ chi phối toàn bộ hoạt động của vùng. 
Hệ thống giao thông đường bộ gồm có 
ba quốc lộ là 30, 62, 1A đang trong tình 
trạng được nâng cấp, nhựa hóa, làm mới 
các cầu và cống trên đường. Hệ thống 
giao thông đường thủy phân bố không 
đều, tập trung nhiều ở những nơi khai 
thác thuận lợi và thưa thớt ở những nơi 
khai thác khó khăn, hệ thống kênh, 
mương nhân tạo chiếm đa số. Giao 
thông thủy bộ của vùng chi phối rất lớn 
đến sự phát triển của hoạt động du lịch, 
không chỉ mùa nước nổi mà cả những 
mùa khác. 
Cơ sở vật chất kĩ thuật của vùng, 
đặc biệt là cơ sở lưu trú, trên thực tế 
đang trong tình trạng xuống cấp, chất 
lượng thấp kém không đủ tiêu chuẩn để 
phục vụ khách quốc tế. Vì vậy, du 
khách đến tham quan xong vẫn phải trở 
về trung tâm để lưu trú. 
Về kinh doanh ẩm thực, các cơ sở 
ăn uống rất đa dạng về hình thức, mang 
đậm chất Nam Bộ nhưng tiêu chí về vệ 
sinh an toàn thực phẩm còn là một dấu 
 174
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Đang Thanh 
__________________________________________________________________________________________________________ 
hỏi lớn. Dịch vụ vui chơi giải trí phát 
triển đơn điệu kém sức thu hút. Khách 
dễ có cảm giác nhàm chán khi đến tham 
quan tại các tỉnh của vùng, nhất là về 
đêm, những khu vui chơi giải trí còn 
quá ít hoặc hầu như không có. 
4.2. Lao động trong ngành du lịch 
Số người lao động trong lĩnh vực 
du lịch của các tỉnh vùng ĐTM thể hiện 
qua bảng sau: 
Bảng thống kê số liệu lao động trong ngành du lịch của các tỉnh 
vùng ĐTM giai đoạn 2004-2008 
Đơn vị: Người 
Năm Long An Đồng Tháp Tiền Giang Tổng số 
2004 276 278 592 1.146 
2005 300 271 610 1.181 
2006 350 318 648 1.316 
2007 360 308 709 1.377 
2008 375 344 720 1.439 
 Nguồn: Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch của 3 tỉnh 
 Long An - Đồng Tháp - Tiền Giang năm 2009 
Bảng số liệu trên cho thấy lao 
động trong ngành du lịch vẫn còn là vấn 
đề nan giải của các tỉnh vùng ĐTM. 
Nguyên nhân của tình trạng trên là do 
thu nhập không đảm bảo được đời sống 
của người làm du lịch; chính sách ưu 
đãi để thu hút nguồn lao động còn nhiều 
yếu kém; cơ cấu tổ chức chưa tạo điều 
kiện cho người dân cùng tham gia du 
lịch. Tuy nhiên, người dân ở đây có thế 
mạnh để thu hút du lịch, đó là những ưu 
điểm cơ bản như tinh thần hiếu khách, 
nhiệt tình, vui vẻ và thật thà. 
4.3. Các điểm và tuyến du lịch hiện 
đang khai thác tại vùng ĐTM 
Các điểm du lịch đang được khai 
thác ở ĐTM là: Vườn quốc gia Tràm 
Chim ở Tam Nông – Đồng Tháp, Khu 
bảo tồn Láng Sen, Khu di tích Xẻo 
Quýt, Trung tâm bảo tồn dược liệu 
ĐTM, sân chim Gáo Giồng, sông Vàm 
Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây, làng nổi 
Tân Lập, cụm di tích Gò Tháp, chùa tổ 
Bửu Lâm, lăng Tiền quân Nguyễn 
Huỳnh Đức, dinh Ông Đốc Vàng, Văn 
thánh miếu Cao Lãnh. 
Tuyến du lịch gồm có: tuyến 
Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) – 
ĐTM, TPHCM – Tân An – Mộc Hóa, 
TPHCM – Tràm Chim, TPHCM – TP 
Cao Lãnh – Tam Nông Đồng Tháp, 
TPHCM – Đồng Tháp, Tân An – Cần 
Đước – Cần Giuộc. Các tuyến du lịch 
trên hiện khai thác chủ yếu trong 
khoảng thời gian ngắn, thường là 5-6 
giờ hoặc chỉ trong ngày, còn những 
tuyến 3-4 ngày được khai thác rất ít và 
không thường xuyên; điều này dẫn đến 
một số hệ quả như sau: 
- Thời gian lưu trú qua đêm của 
khách không lâu dù lượng khách đến 
hàng năm tăng. 
- Chưa giúp du khách hiểu được hết 
những điều thú vị mà mùa nước nổi 
 175
Ý kiến trao đổi Số 32 năm 2011 
__________________________________________________________________________________________________________ 
mang đến, chưa tạo được mối giao lưu 
giữa người dân trong vùng và du khách, 
nhiều du khách dễ có cảm giác nhàm 
chán, không muốn quay trở lại. 
5. Kết luận 
Du lịch mùa nước nổi ở vùng 
ĐTM nếu được tổ chức hợp lí, đầu tư 
đúng mức từ các cấp thì sẽ là một loại 
hình du lịch độc đáo cho vùng. Đây là 
loại hình du lịch đặc trưng theo mùa 
nước nổi, chủ yếu tận dụng nguồn tài 
nguyên thiên nhiên, cảnh quan sinh thái, 
sản vật địa phương kết hợp với hoạt 
động đời sống, sinh hoạt của người dân 
trong vùng. Du lịch mùa nước nổi ĐTM 
góp phần nâng cao chất lượng cuộc 
sống của người dân trong vùng, giúp 
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên 
một cách có hiệu quả hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Hữu Hiếu (đồng tác giả) (2004), Đồng Tháp 300 năm, Nxb Trẻ, TPHCM. 
2. Nguyễn Hữu Hiếu (2007), Văn hóa dân gian vùng Đồng Tháp Mười, Nxb Văn 
nghệ, TPHCM. 
3. Xuân Huy (2004), Văn hóa ẩm thực và các món ăn Việt Nam, Nxb Trẻ, TPHCM. 
4. Lê Phú Khải (1989), Đồng Tháp Mười hôm nay, Nxb TP Hồ Chí Minh, TPHCM. 
5. Nguyễn Hiến Lê (1989), Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Nxb Long An, Long 
An. 
6. Võ Trần Nhã (chủ biên) (1993), Lịch sử Đồng Tháp Mười, Nxb TP Hồ Chí Minh, 
TPHCM. 
7. Nguyễn Quới và Phan Văn Dốp (1999), Đồng Tháp Mười: nghiên cứu phát triển, 
Nxb Khoa học xã hội. 
8.  
(Ngày Tòa soạn nhận được bài:13-7-2011; ngày chấp nhận đăng: 02-11-2011) 
 176

File đính kèm:

  • pdfdu_lich_mua_nuoc_noi_vung_dong_thap_muoi_tiem_nang_va_thuc_t.pdf