Giáo án môn học Công nghệ dược phẩm - Trương Thị Minh Hạnh

Tóm tắt Giáo án môn học Công nghệ dược phẩm - Trương Thị Minh Hạnh: ... triển thuận lợi hơn ở dải nhiệt độ khoảng 300C. Tuy nhiên, ở ở dải nhiệt độ này tốc độ phân huỷ penicillin cũng xảy ra mạnh mẽ. Trong thực tế, ở giai đoạn nhân giống sản xuất người ta thường nhân ở dải nhiệt độ 300C; sang giai đoạn lên men thường áp dụng một trong hai chế độ nhiệt là : 2...cho sự sinh tồn của mọi sinh vật. 1.3.1. Miễn dịch tự nhiên 1.3.2. Miễn dịch tiếp thu ( Miễn dịch thu được) - Miễn dịch thu được chủ động - Miễn dịch thu được thụ động: . Miễn dịch thu được thụ động tự nhiên: là trạng thái MD thu được do kháng thể ghép hoặc truyền từ sữa mẹ. 41 . ...tiêm chủng là nơi tiêm có thể hơi đau, mẩn đỏ, hơi sưng hoặc nổi cục nhỏ. Những phản ứng này sẽ mất đi nhanh chóng sau một vài ngày, không cần phải can thiệp gì. Nếu tiêm chủng không đảm bảo vô trùng, thì nơi tiêm chủng có thể bị viêm nhiễm, làm mủ. Phản ứng toàn thân: Trong các phản ứng t...

pdf63 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 93 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo án môn học Công nghệ dược phẩm - Trương Thị Minh Hạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cách khác: sử dụng huyết thanh là tạo miễn dịch thụ động nhân tạo. 
Nguồn kháng thể: 
* Bào chế từ huyết thanh động vật: 
Trước hết phải gây miễn dịch cho động vật. Đầu tiên động vật thường được tiêm 
vacxin, sau đó chúng có thể được tiêm chính vi sinh vật gây bệnh để kích thích sản 
xuất kháng thể mạnh mẽ hơn. Khi hiệu giá kháng thể trong huyết thanh đạt mức cao 
nhất, thì lấy máu để lấy huyết thanh đem bào chế. Động vật thường được dùng trong 
sản xuất huyết thanh là ngựa. Ngày nay, việc sử dụng huyết thanh động vật giảm đi 
nhiều vì tỷ lệ gây ra phản ứng cao hơn hẳn so với kháng thể được sản xuất từ huyết 
thanh người. 
* Bào chế từ huyết thanh người: 
 Globulin miễn dịch bình thường: Globulin miễn dịch bình thường 
được bào chế từ huyết thanh người khoẻ mạnh hoặc từ máu rau thai. Trước đây 
 56 
globulin miễn dịch loại này còn được gọi là gamaglobulin. Ngày nay ở một số nước 
còn có tên là globulin huyết thanh miễn dịch (Immune Serum Globulin). 
Loại globulin miễn dịch này mỗi lần (mẻ) được bào chế từ hàng nghìn mẫu huyết 
thanh, do đó không có sự khác nhau đáng kể về hiệu giá kháng thể giữa các lần sản 
xuất. Kháng thể trong globulin miễn dịch bình thường chủ yếu thuộc lớp IgG. 
 Globulin miễn dịch đặc hiệu: Globulin miễn dịch đặc hiệu được 
bào chế từ máu của những người mắc bệnh nhiễm trùng nào đó đã khỏi bệnh và hồi 
phục sức khoẻ, hoặc từ máu của những người khoẻ mạnh mới được tiêm chủng tăng 
cường. Trong globulin miễn dịch đặc hiệu, nồng độ kháng thể chống lại vi sinh vật, là 
căn nguyên của bệnh nhiễm trùng mà người cho đã mắc hoặc đã được tiêm chủng, 
thường cao gấp hàng chục lần trong globulin miễn dịch bình thường. 
Nguyên tắc sử dụng: 
Các nguyên tắc cơ bản phải thực hiện khi sử dụng huyết thanh là: 
• Đúng đối tượng 
• Đúng liều lượng 
• Đúng đường 
• Đề phòng phản ứng 
• Phối hợp sử dụng vacxin 
Đối tượng: 
Huyết thanh được sử dụng nhiều nhất để chữa và dự phòng các bệnh nhiễm 
trùng. Ngoài ra nó còn được sử dụng cho một số mục đích khác như điều trị cho những 
bệnh nhân bị thiếu hụt miễn dịch, dị ứng và dự phòng bệnh tan máu sơ sinh. 
Trong chữa và dự phòng bệnh nhiễm trùng, huyết thanh chỉ có hiệu lực với 
những bệnh mà cơ chế bảo vệ chủ yếu nhờ miễn dịch dịch thể. Kinh điển nhất là huyết 
thanh chống uốn ván (SAT) và huyết thanh chống bạch hầu (SAD). Huyết thanh chống 
ho gà, chống sởi được tiêm cho trẻ chưa được tiêm chủng khi có tiếp xúc với bệnh 
nhân. Huyết thanh chống dại được tiêm cho những người bị chó dại hoặc chó nghi dại 
cắn với vết thương nặng hoặc gần đầu. Ngoài ra còn có các huyết thanh chống virus 
viêm gan, virus quai bị, rubeon. Globulin miễn dịch còn được tiêm cho những bệnh 
nhân viêm đường hô hấp tái phát nhiều lần. 
Huyết thanh người bình thường được tiêm cho trẻ bị thiếu hụt miễn dịch bẩm 
sinh. Một số công trình nghiên cứu cho thấy rằng globulin miễn dịch có tác dụng điều 
trị dị ứng. 
Việc sử dụng globulin miễn dịch kháng D (Anti-D immune globulin) cho người mẹ có 
nhóm máu Rh(-) mới sinh con Rh(+) có tác dụng ngăn cản sự hình thành kháng thể 
kháng Rh và do đó tránh được nguy cơ tan máu sơ sinh cho đứa trẻ sinh lần sau. Cơ 
chế của hiện tượng này là globulin miễn dịch kháng D sẽ phá huỷ các hồng cầu Rh(+) 
của đứa trẻ xâm nhập vào dòng tuần hoàn của người mẹ khi sinh. Do cơ chế này, việc 
tiêm globulin kháng D chỉ có hiệu quả trong khoảng thời gian 72 giờ đầu sau khi sinh. 
Liều lượng: 
 57 
Liều lượng huyết thanh sử dụng tuỳ thuộc vào tuổi và cân nặng của bệnh nhân, 
trung bình từ 0,1 đến 1 ml cho 1kg cân nặng, tuỳ theo loại huyết thanh và mục đích sử 
dụng. Huyết thanh chống uốn ván được tính theo đơn vị, trung bình là 250 đơn vị cho 
một trường hợp. Nếu vết thương quá bẩn hoặc tiêm chậm sau 24 giờ thì liều lượng 
phải tăng gấp đôi. 
3.3. Đường đưa huyết thanh vào cơ thể: 
Huyết thanh thường được đưa vào cơ thể bằng đường tiêm bắp. Đối với những loại 
huyết thanh đã được tinh chế đạt tiêu chuẩn cao, có thể tiêm tĩnh mạch nhưng cũng rất 
nên hạn chế. Tuyệt đối không tiêm tĩnh mạch những huyết thanh có nguồn gốc từ động 
vật (dù đã được tinh chế!) hoặc huyết thanh người chưa đạt độ tinh chế cao. 
Đề phòng phản ứng: 
Cần phải thực hiện tốt các việc sau đây để ngăn ngừa phản ứng do huyết thanh gây ra: 
- Hỏi xem bệnh nhân đã được tiêm huyết thanh lần nào chưa. Rất thận trọng khi phải 
chỉ định tiêm huyết thanh lần thứ hai vì tỷ lệ phản ứng cao hơn nhiều so với lần thứ 
nhất. Việc quyết định có tiêm huyết thanh lần thứ hai hay không tuỳ thuộc vào sự cân 
nhắc giữa nguy cơ mắc bệnh, tính nguy hiểm của bệnh và tỷ lệ phản ứng của loại 
huyết thanh được sử dụng. 
- Làm phản ứng thoát mẫn (phản ứng Besredka ) trước khi tiêm: Pha loãng huyết thanh 
10 lần bằng dung dịch NaCl 0,85%. Tiêm 0,1 ml vào trong da. Sau 30 phút nếu nơi 
tiêm không mẩn đỏ thì có thể tiêm huyết thanh. Nếu nơi tiêm mẩn đỏ, nói chung không 
nên tiêm, trừ khi tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc của bệnh nhân đòi hỏi bắt buộc 
phải tiêm. Trong trường hợp đó cần chia nhỏ tổng liều để tiêm dần, cách nhau 20 đến 
30 phút. 
- Trong quá trình tiêm truyền huyết thanh phải theo dõi liên tục để có thể xử trí kịp 
thời nếu có phản ứng xảy ra, đặc biệt là phải đầy đủ các điều kiện để xử trí sốc phản 
vệ. 
 Tiêm vacxin phối hợp: 
Kháng thể do tiêm huyết thanh sẽ phát huy hiệu lực ngay sau khi tiêm, nhưng 
chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Hiệu giá kháng thể này giảm nhanh trong mấy ngày 
đầu, sau đó giảm chậm hơn và sẽ bị loại trừ hết sau khoảng 10 đến 15 ngày. Hai lý do 
của sự giảm nhanh chóng này là: kháng thể được đưa vào cơ thể sẽ phản ứng với các 
kháng nguyên vi sinh vật và bị cơ thể chuyển hoá giống như số phận của các protein 
ngoại lai khác. Việc tiêm vacxin phối hợp nhằm kích thích cơ thể tạo ra miễn dịch chủ 
động thay thế cho miễn dịch thụ động do tiêm huyết thanh hết hiệu lực. 
1.7. Kháng thể đơn dòng: 
Mỗi quyết định kháng nguyên sẽ kích thích tạo thành môt kháng thể đặc hiệu. 
Khi một kháng nguyên có nhiều quyết định kháng nguyên (đa giá) sẽ cho một phức 
hợp kháng thể. Muốn nhận được một kháng thể trong phức hợp ấy thì phải tiến hành 
tách tinh khiết. Tuy nhiên ngày nay người ta có thể nhận được kháng thể tinh khiết 
 58 
bằng kỹ thuật kháng thể đơn dòng. Kháng thể đơn dòng là kháng thể do một dòng 
lympho bào sinh ra để chống lại một kháng nguyên nhất định. 
Sản xuất kháng thể đơn dòng: Năm 1975, Kohler và Milstein tiến hành lai tế 
bào u tuỷ ) myeloma) với tế bào T đã hoạt hóa ( bằng phương pháp dung hợp). ưu 
điểm của tế bào u tủy là có khả năng phân chia rất nhanh trong môi trường nhân tạo. 
Sau đó tách riêng từng tế bào lai nuôi trong môi trương nhân tạo để chúng phân chia 
tạo dòng tế bào sinh kháng thể. Kháng thể này gọi là kháng thể đơn dòng, có khả năng 
chống lại một quyết định kháng nguyên nhất định. 
Kháng thể đơn dòng được áp dụng rất rông rãi và thay thế một số phương pháp 
miễn dịch và huyết thanh học thông thường trong nhiều lãnh vực như: 
- Phát hiện một kháng nguyên chưa biết trên bề mặt tế bào. 
- Xác định một số protein có ý nghĩa trong chẩn đoán ung thư. 
- Xác định vi sinh vật. 
- Ức chế phản ứng thải loại khi ghép cơ quan. Xác định các loại thuốc cấm sử 
dụng có trong máu ví dụ doping.v..v.. 
2. CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT VĂC-XIN: 
2.1. Sản xuất vắc-xin theo phương pháp truyền thống (vắc-xin thế hệ thứ nhất): 
2.1.1. Nguyên tắc chung: 
- Tạo sinh khối: Đây là giai đoạn đầu tiên để sản xuất vắc-xin. Vi sing vật 
được nuôi cấy trong môi trường thích hợp để đạt được một số lượng lớn sinh khối 
hoặc sản phẩm của chúng (toxoid, antigen). Các chủng vi sinh vật trước khi nuôi cấy 
cần phải được kiểm tra về độ tinh khiết, không được lẫn vi sinh vật lạ. Quá trình nuôi 
cấy được thực hiện trong các nồi nuôi cấy đặc biệt, có các thiết bị kiẻm soát đến quá 
trình tăng trưởng của vi sinh vật. 
- Làm bất hoạt: Yêu cầu khi sản xuất văc-xin là phải an toàn cho người sử 
dụng. Do đó các vi khuẩn sử dụng để chế tạo văc-xin phải không còn khả năng gây 
bệnh nhưng vẫn giữ được tính kháng nguyên, nghĩa là có khả năng kích thích hệ thống 
miễn dịch của cơ thể. 
Đối với văc-xin vi khuẩn chết: có thể dùng các tác nhân diệt khuẩn như các 
hóa chất (formalin, alcool, aceton), tia cực tím, siêu âm 
 Đối với vacxin từ vi khuẩn sống giảm độc: có thể dùng phương pháp cấy 
chuyền vi khuẩn nhiều lần trong môi trường nuôi cấy. Ví dụ vacxin BCG (Bacille 
Calmette Guerin) là vacxin được chế tạo từ vi khuẩn lao bò được cấy chuyền trong 
thời gian dài trên môi trường nuôi cấy. 
- Sản xuất ra chế phẩm: 
Sau khi làm bất hoạt, tiếp tục tinh khết hóa và đông khô để tạo sản phẩm, cuối 
cùng đóng gói. Tuỳ theo từng loại chế phẩm có thể đóng gói dưới dạng thuốc 
lỏng để uống, dạng thuốc viên, dạng thuốc tiêm. 
 - Kiểm tra sản phẩm 
Cần phải kiểm tra: . Độ vô trùng: chế phẩm vacxin không được lẫn các vi sinh vật lạ 
 59 
. Đảm bảo đủ nồng độ. 
. Kiểm tra khả năng gây miễn dịch 
2.1.2. Các vacxin cổ điển đã được sản xuất: 
2.1.2.1. Vacxin vi khuẩn thương hàn: 
Nhân giống: Nuôi vi khuẩn thương hàn trên môi trường thạch trong 18 h 
sau đó dùng NaCl đẳng trương để lấy vi khuẩn và điều chỉnh để đạt độ đậm đặc 5.108 
vi khuẩn/1ml. Cấy vi khuẩn này vào môi trường mới sao cho thể tích ban đầu vi khuẩn 
chiếm 5% thể tích môi trường 
Nuôi cấy: Môi trường lỏng casein chưa 300-400 mg N toàn phần, 200- 
250mg% N amin, 0,1-0,6% pepton. Cấy chìm trong môi trường nuôi cấy liên tục có hệ 
thống khuấy vân tốc 180-300v/ phút để tăng oxy cho hề thống, hệ thống lọc khí vô 
trùng với lưu lượng 1lit/1phút. Nuôi trong 10-12 giờ để đạt được nồng độ khoảng 
6.1010 vi khuẩn 
. Để tăng khả năng sinh sản của vi khuẩn thêm dung dịch glucoza 40%, giữ 
pH= 7,6-7,8 trong suốt thời gian nuôi cấy . 
Làm bất hoạt: Vacxin được làm bất hoạt bằng cồn: Lấy sinh khối trộn thận 
trọng trong bình đặc biệt với cồn ethyl theo tỉ lệ lân1:1:4, lần 2 1:10 
Kiểm tra độ tinh khiết và đáp ứng miễn dịch rồi đưa dung dịch về điểm 
đẳng điện bằng NaCl có chứa 0,25% phenol sẽ tạo tủa. 1ml vacxin cồn chưa 5.109 vi 
khuẩn. Đổ vacxin vào ống và đông khô –400C- - 500C rồi đông gói thành phẩm. 
Vacxin này có thể nhập chung với VI antigen để tăng hiệu quả. 
4Vắc-xin tái tổ hợp: với công nghệ gen hiện đại, người ta cắt đoạn gen tổng hợp nên 
protein đặc trưng cho vi sinh vật gây bệnh, ghép gen này vào vi khuẩn hay tế bào nuôi 
cấy để tạo ra protein đặc hiệu cho mầm bệnh, dùng protein này đề tiêm chủng tạo miễn 
dịch đặc hiệu. Dạng văc-xin này an toàn, ít tác dụng phụ, khả năng miễn dịch cao. Một 
điển hình của vắc-xin dạng này là vắc-xin phòng viêm gan virus B thế hệ II và III. 
• Các "toxoid" là các hợp chất độc bị bất hoạt trích từ các vi sinh vật (trong 
trường hợp chính các độc chất này là phương tiện gây bệnh của vi sinh 
vật). Chúng được tiêm cho vật chủ khác (như ngựa) để tạo kháng thể, rồi 
chiết lấy kháng thể này để chữa bệnh. Thí dụ: các huyết thanh ngừa uốn 
ván và bạch hầu. 
Một số loại vắc-xin mới đang nghiên cứu 
Các vắc-xin này còn được xem là vắc-xin của tương lai, có 6 hướng phát triển chính 
hiện nay: 
 60 
• Sử dụng các phụ gia (adjuvant) mới, nhằm gây ra loại đáp ứng miễn dịch 
mong muốn. Thí dụ, chất nhôm phosphate và các oligonucleotide chứa 
CpG demethyl hóa đưa vào vắc-xin khiến đáp ứng miễn dịch phát triển 
theo hướng dịch thể (tạo kháng thể) thay vì tế bào. 
• Vắc-xin khảm: sử dụng một sinh thể quen biết để hạn chế hiện tượng 
"phản tác dụng", thí dụ dùng virus vaccinia mang một số yếu tố của virus 
viêm gan B hay virus dại. 
• Vắc-xin polypeptidique: tăng cường tính sinh miễn dịch nhờ liên kết tốt 
hơn với các phân tử MHC: peptide nhân tạo 1/2 giống virus, 1/2 kia gắn 
MHC; đoạn peptide mô phỏng 1 quyết định kháng nguyên (epitope). 
• Anti-idiotype: idiotype là cấu trúc không gian của kháng thể tại vị trí gắn 
kháng nguyên, đặc hiệu với kháng nguyên tương ứng. Anti-idiotype là các 
kháng thể đặc hiệu đối với idiotype, do đó anti-idiotype xét về mặt đặc hiệu 
lại tương tự với kháng nguyên. Vậy, thay vì dùng kháng nguyên X làm vắc-
xin, người ta dùng idiotype anti-anti-X. 
• Vắc-xin DNA: DNA của tác nhân gây bệnh sẽ được biểu hiện bởi tế bào 
người được chủng ngừa. Lợi thế của DNA là rẻ, bền, dễ sản xuất ra số 
lượng lớn nên thích hợp cho những chương trình tiêm chủng rộng rãi. 
Ngoài ra, vắc-xin DNA còn giúp định hướng đáp ứng miễn dịch: tác nhân 
gây bệnh ngoại bào được trình diện qua MHC loại II, dẫn đến đáp ứng 
CD4 (đáp ứng miễn dịch dịch thể). Khi kháng nguyên của tác nhân đó 
được chính cơ thể người biểu hiện, nó sẽ được trình diện qua MHC loại I, 
lúc này đáp ứng miễn dịch tế bào qua CD8 được kích thích. Tuy nhiên 
phương pháp này là con dao hai lưỡi bởi lẽ tế bào mang DNA lạ có nguy cơ 
bị nhận diện là "không ta", sinh ra bệnh tự miễn. 
• Sử dụng véc-tơ tái tổ hợp – dùng các vi khuẩn thuần tính hoặc các tế bào 
trình diện kháng nguyên như tế bào tua được chuyển gen để biểu hiện 
kháng nguyên mong muốn. 
Vắc-xin dùng để điều trị 
Một trong những hướng nghiên cứu mới là miễn dịch liệu pháp, bao gồm miễn dịch 
liệu pháp thụ động và chủ động (tức vắc-xin liệu pháp). Người ta hy vọng là phương 
pháp này sẽ chữa được những bệnh như ung thư, AIDS và bệnh Alzheimer. 
Hạn chế của vắc-xin 
Những hạn chế của vắc-xin tập trung thành hai nhóm chính: hiệu quả kém và các tai 
biến đi kèm. 
Hạn chế về hiệu quả 
 61 
Một số vắc-xin rất có hiệu quả, không kể vắc-xin đậu mùa nổi tiếng, thí dụ vắc-xin 
ngừa bệnh uốn ván, sởi v.v. Một số vắc-xin khác có hiệu quả vừa phải (hiệu quả của 
BCG chỉ vào khoảng 50%). Ngược lại, có những bệnh đến đầu thế kỷ 21 vẫn chưa có 
vắc-xin thích hợp (AIDS, sốt rét v.v.). Do vậy, vắc-xin chưa phải là vũ khí vạn năng 
để đối phó với bệnh tật. 
Hiệu quả của vắc-xin cũng khó đánh giá chính xác. Kết quả nghiên cứu trên động vật 
không thể áp dụng 100% cho loài người, vì những đặc điểm riêng của từng loài. Trên 
lý thuyết, phương pháp duy nhất để chứng minh hiệu quả là lấy 2 nhóm người, một 
nhóm được tiêm chủng, một nhóm không rồi truyền mầm bệnh cho cả hai nhóm để 
xem kết quả. Dĩ nhiên phương pháp này không thể sử dụng được vì trái đạo đức. Do 
đó, người ta biến hóa đi một chút, cũng chia ra 2 nhóm được chủng và không được 
chủng như trên nhưng không truyền bệnh mà chỉ quan sát sự nhiễm bệnh qua các ngã 
thông thường. Hạn chế của phương pháp này là nếu một vắc-xin tỏ ra có hiệu quả, 
người ta không thể triển khai nghiên cứu trên quy mô rộng để tính chính xác hiệu quả 
vì như thế một số lớn quần chúng sẽ bị thiệt thòi do không được bảo vệ. 
Bởi vậy, khi một vắc-xin được xem là có hiệu quả, người ta đem tiêm chủng cho mọi 
người và quan sát sự giảm số người mắc bệnh. Tuy nhiên, ngay cả khi một bệnh có 
chiều hướng giảm xuống, người ta cũng không biết vai trò thật sự của vắc-xin, thí dụ 
tần suất bệnh lao đã giảm rất nhiều, nhưng vai trò của các biện pháp vệ sinh, cách ly 
nguồn lây cũng rất đáng kểTính kém hiệu quả của vắc-xin có thể biểu hiện về mặt chất 
(đáp ứng miễn dịch không thích hợp) hoặc về mặt lượngj (không có đáp ứng miễn 
dịch). 
Nguyên nhân gây kém hiệu quả về lượng: 
• Các "lỗ hổng" trong kho tàng miễn dịch: trên lý thuyết, các tế bào lympho 
B có thể tạo ra hơn 1012 loại kháng thể đặc hiệu [1], còn lympho T có thể 
nhận diện trên 1015 kháng nguyên khác nhau [], những con số này tuy rất 
lớn nhưng không phải là vô hạn, hệ miễn dịch không thể chống lại mọi thứ. 
• Hiệu quả của vắc-xin còn tùy thuộc vào thời gian bảo vệ: trí nhớ miễn dịch 
có thể tồn tại suốt đời nhưng sự sản xuất kháng thể thì không nếu không 
được tái kích thích. 
• Đột biến của tác nhân gây bệnh: đây là cơ chế sinh tồn của các tác nhân gây 
bệnh. Đột biến đẩy hệ miễn dịch vào một cuộc rượt đuổi trường kỳ. Tiêu 
biểu cho cơ chế này là HIV, virus sốt xuất huyết, virus cúm với nguy cơ đại 
dịch cúm gia cầm hiện nay. 
Nguyên nhân gây kém hiệu quả về chất: 
 62 
• Vai trò của phụ gia: để giảm tác dụng không mong muốn của vắc-xin, 
người ta thường tinh lọc các chế phẩm, nhưng có những vắc-xin quá tinh 
khiết lại trở nên kém hiệu quả. Đó là do hệ miễn dịch muốn được kích 
hoạt, phải nhận được một tín hiệu báo nguy, tín hiệu này thường không 
phải là kháng nguyên dùng làm vắc-xin. Để khắc phục, người ta dùng một 
số loại phụ gia trong chế phẩm vắc-xin. Thí dụ phụ gia Freund, nhôm 
hyđrôxít, nhôm phosphate hoặc trộn lẫn các văc-xin với nhau. 
• Loại phản ứng miễn dịch và hiện tượng chuyển hướng miễn dịch: đối với 
các tác nhân gây bệnh ngoại bào, đáp ứng miễn dịch dịch thể là thích hợp 
(loại đáp ứng này được sự hỗ trợ của các tế bào lympho Th1). Ngược lại, 
đáp ứng miễn dịch tế bào (cần sự hỗ trợ của lympho Th2) lại hữu hiệu cho 
các tác nhân gây bệnh nội bào. Do đó, nếu vắc-xin gây được đáp ứng miễn 
dịch nhưng không đúng loại đáp ứng nên có, hiệu quả cũng không được 
bảo đảm. Th1 và Th2 có xu hướng khắc chế lẫn nhau. Vắc-xin kinh điển có 
xu hướng tạo đáp ứng Th1. Do đó đối với những bệnh do tác nhân nội bào 
như nhiễm leishmania, miễn dịch đặc hiệu sau lành bệnh lại tốt hơn vắc-
xin, vì vắc-xin lại gây hiệu quả ngược, kiềm hãm phản ứng bảo vệ. 
Tai biến khi dùng vắc-xin 
Có hai loại tai biến: nhiễm bệnh và các bệnh miễn dịch.Nhiễm bệnh 
• Vắc-xin sống, giảm độc lực có thể gây bệnh cho người bị suy giảm miễn 
dịch. 
• Nguy cơ hồi phục của tác nhân vi sinh: một tác nhân bị làm giảm độc lực 
tìm lại được độc tính của mình. Nguy cơ này ở vắc-xin ngừa bại liệt là 10-7, 
nghĩa là cứ 10 triệu trẻ em uống vắc-xin Sabin thì có 1 em bị tai nạn loại 
này. Điều không may này không ngăn cản được việc sử dụng vắc-xin này 
bởi lẽ tỷ lệ đó được xem là chấp nhận được. 
• Nguy cơ nhiễm các tác nhân gây bệnh khác vào trong chế phẩm vắc-xin. 
Điều này có thể hạn chế bằng các quy trình sản xuất, bảo quản và sử dụng 
chặt chẽ. 
Bệnh miễn dịch 
• Thử nghiệm vắc-xin phòng bệnh dại trên cừu cho thấy có xác suất gây 
EAE, một bệnh tự miễn trên hệ thần kinh khoảng 1/3000-1/1000.Lý do có 
thể là vắc-xin chiết xuất từ não chó đã mang theo cả những mẩu protein 
của tế bào thần kinh, khi tạo miễn dịch, cơ thể (được tiêm)đã tạo ra cả 
kháng thể chống lại cấu trúc thần kinh của mình. 
 63 
• Vắc-xin ngừa ho gà có thể gây sốc kèm di chứng thần kinh với xác suất 10-
4
-10-6. Việc tinh lọc vắc-xin này làm tăng mức an toàn nhưng một lần nữa, 
giảm hiệu quả. 
Chủng ngừa 
Chủng ngừa là cho vắc-xin tiếp xúc với hệ miễn dịch. Tùy bản chất ký sinh, bệnh sinh 
của tác nhân gây bệnh cũng như của chế phẩm vắc-xin mà người ta dùng các phương 
pháp khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 
• Chủng là cách tạo một vết rạch trên da (cho rớm máu) rồi cho tiếp xúc với 
vắc-xin. Phương pháp này trước đây được dùng cho vắc-xin đậu mùa và 
lao. 
• Tiêm dưới da, trong da v.v. là phương pháp phổ thông nhất hiện nay, kể cả 
vắc-xin BCG phòng lao. Không được tiêm vào mạch máu. 
• Uống vắc-xin là phương pháp dùng cho vắc-xin Sabin ngừa bệnh bại liệt. 
Đánh giá hiệu quả và theo dõi 
Trong một số trường hợp, thí dụ sau khi tiêm vắc-xin ngừa viêm gan siêu vi B, người 
ta còn làm xét nghiệm huyết thanh tìm hiệu giá kháng thể qua đó đánh giá hiệu quả 
của vắc-xin trên cơ thể người được tiêm (có tạo được đáp ứng miễn dịch hữu hiệu 
không). 
Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) đã hỗ trợ nhiều chương trình tiêm chủng mở rộng 
trên phạm vi toàn cầu trong kế hoạch chăm sóc sức khỏe ban đầu. 
Đẩy mạnh nghiên cứu nhằm tìm ra các vắc-xin mới, hiệu quả với giá thành phù hợp 
cho mục tiêu phổ cập cho mọi người, nhất là đối với những bệnh gây chết người nhiều 
như sốt rét hay những bệnh nan y như ung thư, AIDS cũng là mục tiêu của y sinh học 
hiện nay. 
Phản đối 
Tuy góp phần quan trọng đẩy lui nhiều bệnh dịch, chủng ngừa vẫn bị nhiều ý kiến 
phản đối, kể từ những chiến dịch tiêm chủng đầu tiên trong lịch sử: [2]. Các ý kiến đó 
chủ yếu dựa trên các tác dụng không mong muốn của vắc-xin. Trong phần Liên kết 
ngoài có một số địa chỉ thuộc nhóm này. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_an_mon_hoc_cong_nghe_duoc_pham_truong_thi_minh_hanh.pdf
Ebook liên quan