Giáo dục tiểu học và trung học ở miền Nam Việt Nam (1954-1975)
Tóm tắt Giáo dục tiểu học và trung học ở miền Nam Việt Nam (1954-1975): ...66 4.839 1964 291.965 1967-1968 471.000 1968-1969 554.000 1969-1970 632.000 9.690 60 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014 Học sinh học xong lớp 9 (Đệ tứ), phải thi lấy bằng Trung học Đệ nhất cấp. Từ 1954 đến 1958, kỳ thi có hai phần vấn đáp và ... thống trường tư thục đã đáp ứng cho nhu cầu học tập của đa số học sinh vì những lý do khác nhau không vào được công lập như: thi trượt, quá độ tuổi quy định Các trường tư thục phải thu học phí để có ngân sách hoạt động, nhưng do sự cạnh tranh giữa các tr...n hợp lý trong việc tuyển sinh và nhu cầu giáo viên ở các trường học trong nhiều năm. Khi giáo sinh trung học sư phạm, sinh viên đại học sư phạm thi đỗ tốt nghiệp thì sẽ được mời dự buổi chọn nhiệm sở được công bố ngay tại nơi đào tạo. Có hai bảng danh...
nhận được giấy bổ nhiệm của cơ quan giáo dục để về nhận công tác ở trường tiểu, trung học mà mình đã chọn. (3) Người thầy phải là người giỏi Xã hội trọng vọng ngành giáo dục, đồng lương cho giáo viên đảm bảo được cuộc sống, ra trường không phải đi xin việc vất vả, vì vậy ngành sư phạm có sức hấp dẫn cao. Không ít học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường, mơ ước được làm thầy cô giáo. Hàng năm, số lượng thí sinh thi vào các trường sư phạm khá đông, nhưng số lượng tuyển chọn của nhà trường rất hạn chế, vì tính toán vừa đủ số giáo viên các bộ môn để cung cấp cho các trường học trong 2 hoặc 4 năm tới. Sự tuyển sinh thật sự khách quan, khoa học. Vì chọn lọc khắt khe nên thí sinh trúng tuyển đầu vào đều đảm bảo chất lượng. Ở bậc đại học sư phạm, thí sinh thi đỗ đều là những học sinh giỏi từ các trường trung học; ở bậc trung cấp sư phạm thí sinh thi đỗ là những học sinh có học lực khá ở nhà trường phổ thông. Những giáo sinh, sinh viên sư phạm được nhà nước cấp học bổng đủ để ăn học, những người ở tỉnh xa được bố trí nơi ở (ký túc xá) miễn phí trong suốt quá trình học ở trường. 69Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014 Ngược lại, việc học tập đòi hỏi rất khắt khe. Sinh viên hoặc giáo sinh phải nỗ lực học tập, nếu không sẽ bị đánh rớt, bị buộc thôi học, bồi hoàn chi phí Vì vậy, các thầy cô giáo tương lai phải cố công học tập vì không muốn để vuột mất tương lai ở trong tầm tay. Cũng do được xã hội trọng vọng, nên sinh viên, giáo sinh trường sư phạm thường rất ý thức về nhân cách, phẩm hạnh của mình. Bên cạnh việc nỗ lực học tập về kiến thức, họ phải thường xuyên rèn luyện tác phong, chuẩn mực đạo đức để xứng đáng vai trò một người thầy, một nhà giáo dục. Một giáo viên dạy môn Việt văn ở bậc Trung học Đệ nhị cấp, thông thường bao giờ cũng khá thạo ít nhất hai ngoại ngữ là Pháp văn và Hán văn, họ có thể viết sách hoặc dịch sách khá tốt; một giáo viên Toán có thể tham khảo được giáo trình viết bằng tiếng Anh, tiếng Pháp của tác giả nước ngoài Sau khi tốt nghiệp trường sư phạm và được bổ nhiệm đi dạy, đội ngũ giáo chức được ngành giáo dục tổ chức các lớp tu nghiệp để nhà giáo có điều kiện cập nhật kiến thức mới về chuyên môn và kinh nghiệm giảng dạy. Các lớp tu nghiệp tổ chức trong nước do Nha Sư phạm của Bộ Quốc gia Giáo dục đảm trách với địa điểm tổ chức là các trường sư phạm. Ngoài ra, bộ còn liên kết và nhờ sự hỗ trợ của các quốc gia tiên tiến như Hoa Kỳ, Anh, Pháp để gởi một số giáo chức ra nước ngoài tu nghiệp. 3. Đời sống giáo chức Dưới thời VNCH, đồng lương của ngành giáo dục khá cao, bảo đảm được đời sống gia đình nhà giáo ở mức sống trung lưu. Nhà giáo ngoài lương, còn các khoản phụ cấp khác như: phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp gia đình, phụ cấp sư phạm, phụ cấp chức vụ. Giáo sinh tốt nghiệp trường trung cấp sư phạm, được bổ nhiệm dạy tiểu học, lương tháng khởi điểm là 24.000 đồng, tiền VNCH (vào đầu thập niên 1970, một lượng vàng giá khoảng 10.000 đồng). Sinh viên đại học sư phạm tốt nghiệp ra trường được bổ đi dạy ở các trường trung học, với mức lương khởi điểm của Đệ nhất cấp là 33.000 đồng, Đệ nhị cấp 36.000 đồng. Thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963), do xã hội còn tương đối yên ổn, kinh tế có bước phát triển, và vật giá tương đối ổn định, đời sống của giáo chức khá phong lưu. Một giáo viên phổ thông bằng đồng lương của mình có thể nuôi vợ, con một cuộc sống đầy đủ. Đa số nhà giáo nhờ không quá bận bịu chuyện cơm áo đời thường, nên có thể chú tâm vào công tác giảng dạy, thời gian còn lại dùng để đọc sách, nghiên cứu, đầu tư cho bài giảng tốt hơn. Nhiều giáo viên trung học đã dành công sức, thời gian biên soạn, xuất bản nhiều sách giáo khoa có giá trị, phục vụ cho việc học tập của học sinh. Hiện tượng dạy thêm, học thêm chưa bị phát triển tràn lan. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa (1967-1975), đặc biệt vào những năm đầu thập niên 1970, do hoàn cảnh chiến tranh ngày càng ác liệt, xã hội bất ổn định, vật 70 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014 giá leo thang, đời sống nhà giáo đã có phần chật vật hơn trước, nhất là đối với giáo chức tiểu học, nhiều người phải kiếm việc làm thêm để bù đắp trong thời buổi kinh tế khó khăn. Tuy vậy, nói chung với đồng lương nhà giáo họ vẫn có thể sống một cách tiết kiệm, dù không được thoải mái lắm, để vẫn đảm bảo đứng được trên bục giảng thực hiện thiên chức của nhà giáo dục. Có thể nói dưới thời VNCH, nhà giáo với trình độ học vấn, nhân cách và đời sống vật chất tương đối đầy đủ đã có sức hấp dẫn lớn đối với thế hệ trẻ và được xã hội tôn trọng.(7) E. Tổ chức quản trị Thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa, quản lý ngành giáo dục là Bộ Quốc gia Giáo dục. Trong Bộ Quốc gia Giáo dục có Tổng Nha Trung, Tiểu học và Bình dân giáo dục, phụ trách giáo dục bậc Trung và Tiểu học. Đứng đầu Tổng nha là một Tổng Giám đốc. Tổng nha gồm có các bộ phận: Nha Trung học, Nha Tiểu học, Nha Tư thục, Sở Khảo thí, Ban Thanh tra và Soạn đề thi. Ở mỗi tỉnh có một Ty Tiểu học để quản lý hệ thống trường tiểu học trong toàn tỉnh. Đứng đầu là Trưởng ty. Nha Trung học của Tổng nha trực tiếp quản lý hệ thống trường trung học trong toàn quốc. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, năm 1971, Bộ Quốc gia Giáo dục kiêm cả chức năng Văn hóa, Thanh niên nên được đổi tên thành Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, gồm có các nha, sở và trung tâm phụ trách như sau: I. Cơ quan phụ trách Trung, Tiểu học cấp trung ương 1. Nha Kế hoạch và Pháp chế học vụ. Do 1 Giám đốc điều khiển, 1 Phó Giám đốc phụ tá, gồm có hai sở: Sở Kế hoạch và Sở Pháp chế học vụ. Đứng đầu mỗi sở là một Chánh sự vụ, dưới là các phòng, ban. Nhiệm vụ của nha này là kiểm tra, thống kê về giáo chức, sinh viên, học sinh, kết quả các kỳ thi ở các bậc học; soạn thảo các văn kiện, xem xét thiết lập các ngành học 2. Nha Học bổng du học. Do 1 Giám đốc điều khiển với sự phụ tá của 1 Phó Giám đốc. Nhiệm vụ của nha là xem xét cấp các loại học bổng, giải quyết vấn đề du học của sinh viên, viên chức đi tu nghiệp, cá nhân đi ra nước ngoài học nghề Nha này gồm các phòng: Phòng Hành chính phụ trách, Phòng Học bổng quốc gia, Phòng Học bổng ngoại giao viện 1, Phòng Học bổng ngoại giao viện 2, Phòng Học bổng ngoại giao viện 3, Phòng Tự túc du học và chuyển ngân phụ trách. 71Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014 3. Nha Kỹ thuật và Chuyên nghiệp học vụ. Do một Giám đốc điều khiển và 1 Phó Giám đốc phụ tá. Gồm có 4 phòng, 1 ban ấn loát và 1 ban thanh tra. Nhiệm vụ: Phân phối, lưu trữ công văn; phổ biến sắc lệnh, nghị định, thông tư; lập dự án ngân sách cho các nha, trường; thanh tra các trường; in ấn các tài liệu học tập 4. Nha Tiểu học và Giáo dục Cộng đồng. Có 1 Giám đốc điều khiển, 1 Chánh sự vụ Hành chính phụ tá về công việc hành chính, nhân viên, kế toán và chuyên môn. Tổ chức này gồm có: Ban Thanh tra, Phòng Giáo dục Cộng đồng, Phòng Học vụ, Phòng Hành chính, Phòng Kế toán. Nhiệm vụ: Thanh tra chuyên môn, phụ trách Giáo dục Cộng đồng, phụ trách vấn đề học vụ các trường tiểu học, phụ trách ngân sách, vật liệu, lương bổng ngành tiểu học 5. Nha Tư thục. Do 1 Giám đốc điều khiển, với sự phụ tá của một số Thanh tra Trung học và Tiểu học. Gồm có hai phòng: Phòng Trung học Tư thục, Phòng Tiểu học Tư thục. Nhiệm vụ: Điều hành hoạt động của ngành tư thục phổ thông bậc Trung học và Tiểu học trên toàn quốc về cả hai phương diện hành chính và học vụ. Tại địa phương, việc kiểm soát các trường tư thục: Bậc Tiểu học do các sở, ty tiểu học phụ trách; bậc Trung học do các trường nam Trung học tại tỉnh lỵ, quận lỵ phụ trách. 6. Nha Khảo thí. Do một Giám đốc điều khiển, gồm có: Ban Thanh tra soạn đề thi và 2 phòng là Phòng 1 phụ trách các kỳ thi, Phòng 2 soạn thảo các nghị định liên quan đến việc tổ chức các kỳ thi. Nhiệm vụ: Sắp đặt các Hội đồng Khảo thí, điều hành Hội đồng Giám khảo Trung ương, lập hồ sơ thí vụ, kiểm soát và cấp chứng chỉ, văn bằng, thi hành các công tác thí vụ. 7. Nha Y tế và Xã hội học đường. Do 1 Giám đốc điều khiển, gồm có: Ban Thanh tra Y tế học đường, Sở Y tế học đường, Sở Xã hội học đường. Có nhiệm vụ phụ trách về hệ thống y tế trong ngành giáo dục. 8. Trung tâm Học liệu. Có 1 Giám đốc phụ trách, và 1 Phó Giám đốc phụ tá. Trung tâm Học liệu gồm có: Văn phòng Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ chuyên môn; Phòng Hành chính và Kế toán; Phòng Tu thư, Dịch thuật và Ấn loát; Phòng Mậu dịch; Phòng Trợ huấn cụ; Phòng Phát thanh học đường; Phòng Vô tuyến truyền hình học đường; Nhà in. Nhiệm vụ: In ấn và xuất bản sách giáo khoa, sản xuất các trợ huấn cụ thính thị cùng phân phối kiểm soát các học liệu yểm trợ cho việc giáo dục. 9. Nha Sinh hoạt học đường. Do 1 Giám đốc điều khiển với 1 ban Thanh tra phụ tá, và gồm có 2 sở: Sở Điều nghiên tổng quát, Sở Sinh hoạt thanh niên học đường. 72 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014 Nhiệm vụ: Soạn chương trình sinh hoạt Hiệu đoàn cho học sinh Trung, Tiểu học phổ thông, Chuyên nghiệp Kỹ thuật và Nông Lâm Súc; đào tạo cán bộ sinh hoạt thanh niên và huấn luyện chuyên môn; xây dựng cơ sở sinh hoạt thanh niên, thể dục thể thao cho các trường học. 10. Nha Tu huấn Giáo chức. Do 1 Giám đốc điều khiển, có 1 Phó Giám đốc và 1 Phụ tá Học vụ được xếp ngang hàng Chánh sự vụ. Gồm 4 phòng: Phòng Hành chính, Phòng Kế toán, Phòng Nghiên cứu tài liệu, Phòng Chương trình và Học vụ. Nhiệm vụ: Huấn luyện giáo chức trung cấp không do các trường đại học sư phạm đào tạo; huấn luyện cán bộ để điều hành ngành giáo dục như: Khu trưởng, Ty trưởng, Thanh tra, Hiệu trưởng, Giám học; tu nghiệp giáo chức về phương pháp giáo dục, cải tiến để theo kịp đà tiến triển của nhân loại. Nha Tu huấn Giáo chức phụ trách điều khiển 5 Trung tâm Tu huấn Giáo chức ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ, Vũng Tàu. Mỗi Trung tâm Tu huấn ở các tỉnh do một Quản đốc điều khiển (cấp bậc ngang hàng Hiệu trưởng Trung học Đệ nhị cấp) và 1 Phụ tá Quản đốc; riêng Trung tâm Tu huấn ở Sài Gòn do Giám đốc Nha Tu huấn Giáo chức kiêm nhiệm. 11. Trung tâm Nghiên cứu sưu tầm và phổ biến tài liệu giáo dục. Trung tâm này chưa có nghị định tổ chức. II. Các cơ quan giáo dục địa phương 1. Các Khu Học chính. Có tất cả 5 Khu Học chính trong toàn quốc, mỗi khu gồm nhiều tỉnh và thị xã. - Khu Học chính Huế gồm: Quảng Trị, Thừa Thiên, thị xã Huế, thị xã Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi. - Khu Học chính Nha Trang gồm: Bình Định, thị xã Quy Nhơn, Phú Yên, Khánh Hòa, thành phố Nha Trang, Ninh Thuận, Bình Thuận, thị xã Cam Ranh, Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn, Đắc Lắc, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng, thị xã Đà Lạt. - Khu Học chính Biên Hòa: Gia Định, Biên Hòa, Bình Tuy, Phước Tuy, Bình Long, Bình Dương, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An. - Khu Học chính Cần Thơ: Định Tường, thị xã Mỹ Tho, Gò Công, Kiến Hòa, Kiến Tường, Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Bình, Ba Xuyên, Vĩnh Long, Phong Dinh, thị xã Cần Thơ, Chương Thiện, Châu Đốc, An Giang, Kiên Giang, thị xã Rạch Giá, Bạc Liêu, An Xuyên. - Đặc khu Sài Gòn. Mỗi khu đứng đầu là một Trưởng khu, có 1 phụ tá giúp việc. Một khu gồm có: Ban Thanh tra, Phòng Hành chính, Phòng Học vụ, Phòng Thí vụ. 73Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014 Nhiệm vụ: Cung cấp dữ liệu giúp bộ thiết lập kế hoạch; kiểm soát hoạt động các cơ sở giáo dục công lập và tư thục; tổ chức các kỳ thi tiểu học và trung học trong khu. 2. Các Ty Giáo dục. Ở mỗi tỉnh có một Ty Giáo dục phụ trách giáo dục. Đứng đầu là một Trưởng ty, có hai phụ tá giúp việc. Chức năng và nhiệm vụ của ty cũng giống như Khu Học chính nhưng ở quy mô nhỏ trong một tỉnh. 3. Sở Tiểu học Đô thành. Đứng đầu là một Giám đốc điều hành, có 1 phụ tá giúp việc, gồm 3 phòng: Phòng Quản trị phụ trách về các vấn đề hành chính và nhân viên tổng quát; Phòng Tư thục và Bình dân giáo dục phụ trách về các vấn đề giáo dục bậc Tiểu học và các tư thục; Phòng Thanh tra Học vụ phụ trách kiểm soát các trường sở và các vấn đề liên quan đến học vụ. 4. Các Trung tâm Giáo dục. Có 5 Trung tâm: Lê Quý Đôn, Hồng Bàng (Sài Gòn), Hùng Vương (Đà Lạt), Nguyễn Hiền (Đà Nẵng), Hàn Thuyên (Nha Trang). Đứng đầu một trung tâm là 1 Giám đốc và 1 phụ tá. Đầu những năm 1970, do số trường trung học trong toàn quốc tăng quá nhiều nên Nha Trung học không thể quản lý nổi; vì vậy Nha Trung Tiểu học và Bình dân giáo dục giải tán và giao cho Phụ tá đặc biệt của Tổng trưởng trực tiếp phụ trách Trung, Tiểu học và Bình dân giáo dục. C V T CHÚ THÍCH 1. Tập thể giáo sư, học giả tham gia biên soạn chương trình gồm các vị: Phạm Đình Ái (Lý- Hóa), Nguyễn Thúc Hào (Toán), Nguyễn Huy Bảo, Nguyễn Văn Hiền (Triết), Tạ Quang Bửu (Vật lý), Ưng Quả (Pháp văn), Hà Thúc Chính (Anh văn), Ngô Đình Nhu (Sử-Địa), Hoài Thanh, Đào Duy Anh (Việt văn), Lê Văn Căn, Nguyễn Hữu Quán (Vạn vật). 2. Hoàng Xuân Hãn (1908-1996), quê làng Yên Hồ, huyện La Sơn (nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh, là giáo sư toán học, kỹ sư, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục Việt Nam. Ông đỗ Thạc sĩ toán học tại Pháp. Năm 1945, ông giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục và Mỹ thuật trong chính phủ Trần Trọng Kim. Hoàng Xuân Hãn là người chủ trì soạn thảo và ban hành Chương trình Trung học Việt Nam đầu tiên. 3. Trần Hữu Thế (1922-1995), quê ở Mỹ Tho (Tiền Giang), là nhà khoa học, nhà giáo dục nổi tiếng của Việt Nam. Ông đỗ Tiến sĩ y khoa tại Pháp. Từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục của VNCH. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục VNCH. 4. Về triết lý giáo dục, có thể xem thêm chi tiết cùng trong số báo này, ở bài “Giáo dục miền Nam (1954-1975) trên con đường xây dựng và phát triển” của tác giả Trần Văn Chánh. 5. Dương Thiệu Tống (1925-2008), quê ở Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), là nhà giáo dục nổi tiếng của Việt Nam. Ông đỗ Tiến sĩ giáo dục học tại Hoa Kỳ. Ông là thành viên tham gia sáng lập và làm Hiệu trưởng Trường Trung học Kiểu mẫu ở quận Thủ Đức, Sài Gòn (nay là TPHCM). 6. Như trường hợp ông Lê Hiếu Đằng (nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, đã quá cố đầu năm 2014) đang ở tù được gia đình xin phép cho ra 74 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014 ngoài thi Tú tài II, ở Huế, năm 1966; ông Lê Văn Nghĩa (hiện phụ trách báo Tuổi trẻ cười) thi Tú tài II năm 1972 ngay trong nhà tù Chí Hòa (Sài Gòn) bằng một hội đồng thi riêng dành cho người tù do GS sử học Phạm Cao Dương làm Chánh chủ khảo. Chuyện thi cử, ông Đằng có nhắc tới trong bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” đăng trên nhiều báo mạng; ông Nghĩa cũng xác nhận chuyện thi trong nhà tù của mình khi có người quen biết hỏi đến. 7. Về địa vị và đời sống giáo chức, có thể xem thêm bài “Học và dạy học thời Việt Nam Cộng hòa” của Dương Văn Ba trong cùng số báo chuyên đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thanh Liêm, Giáo dục ở Nam Việt Nam: Từ thập niên 1970 đến 1975, Wikipedia, 2006. 2. Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb TPHCM, 2005. 3. Vương Pển Liêm, Giáo dục cộng đồng, Nxb Lá bối, Sài Gòn, 1966. 4. Giáo dục nguyệt san, số 25 (tháng 12/1968) và số 49 (tháng 5/1971). 5. Nhiều tác giả, Quản trị và thanh tra học đường, Nxb Trẻ, Sài Gòn, 1972. 6. Nguyễn Thanh Nhân, Đóng góp một nền giáo dục dân chủ Việt Nam trong tương lai, Nxb Minh tâm, Sài Gòn, 1969. 7. Lê Thanh Hoàng Dân (Chủ biên), Các vấn đề giáo dục, Nxb Trẻ, Sài Gòn, 1971. 8. Nha Văn hóa, Bộ Văn hóa Giáo dục, Văn hóa nguyệt san, tập XIV, quyển 3&4, tháng 3-4, 1965. 9. Nguyễn Hổ Dư - Trần Doãn Đức, Vấn đề giáo dục, Văn khoa xuất bản, Sài Gòn, 1971. 10. Nguyễn Quỳnh Giao, Cải tổ giáo dục, Nxb Thăng tiến, Sài Gòn, 1970. 11. Nguyễn Khắc Hoạch, Xây dựng và phát triển văn hóa giáo dục, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn, 1970. TÓM TẮT Bài viết trình bày tổng quát tình hình giáo dục bậc Tiểu học và Trung học ở miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa (1954-1975), từ đường hướng giáo dục đến tình hình học tập và hệ thống trường lớp, việc tổ chức thi cử, công tác đào tạo giáo chức và đời sống giáo chức, tổ chức bộ máy và công tác quản trị của ngành giáo dục từ trung ương đến địa phương... Qua đó có thể nhận thấy, dù tình hình chính trị-xã hội bất ổn do ảnh hưởng chiến tranh, chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì được một nền giáo dục mang tính đại chúng, tạo điều kiện rộng rãi đồng đều cho tất cả mọi người dân đều có cơ hội học tập bình đẳng trong một môi trường giáo dục nề nếp, lành mạnh và có chất lượng. ABSTRACT PRIMARY AND SECONDARY EDUCATION IN SOUTH VIETNAM (1954-1975) The article presents the general situation of Primary and Secondary education in the Republic of Vietnam (1954-1975), including educational policy, learning situation, school system, examinations, teacher education and life of teachers, organizational structure and educational governance... From the information in the article, it can be seen that, despite socio-political unrest due to the impact of war, the government of Republic of Vietnam still maintained a mass education, creating wide and equal conditions for all citizens to study in an orderly, wholesome and good education.
File đính kèm:
- giao_duc_tieu_hoc_va_trung_hoc_o_mien_nam_viet_nam_1954_1975.pdf