Giáo trình Cây chè và kỹ thuật chế biến - Trịnh Xuân Ngọ
Tóm tắt Giáo trình Cây chè và kỹ thuật chế biến - Trịnh Xuân Ngọ: ...o hương thơm tự nhiên và do quá trình chế biến tạo thành như sự lên men, ôxi hóa, tác dụng của độ nhiệt cao. Đối với cơ thể con người dầu thơm có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương làm cho tinh thần minh mẫn, thoải mái dễ chịu nâng cao hiệu suất làm việc của các cơ năng trong cơ ...ị các điều kiện hóa học và lý học cho các quá trình lên men tiếp theo. Hai điều kiện này liên quan mật thiết với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. 94 Nhưng phải lấy mục tiêu về thành phần hóa học của sản phẩm chè là trước nhất để có chế độ công nghệ hợp lý. -Các biện pháp làm héo gồm: +Làm ...từ thu sang đông cũng phải đốn cắt một lượng lớn chè già gồm lá và cành non, hiện nay loại nguyên liệu này mới được sử dụng một phần để chế biến chè già ướp hương. Do đó nếu tận dụng được khả năng nói trên thì hàng năm có thể bảo đảm sản xuất được một lượng chè tinh chất tương đối lớn, tuy n...
i nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ bảo quản đến chất lượng chè, Haraguchi, Yashiro, Sano, Hitoshi của trung tâm nghiên cứu và phát triển chè Nhật Bản cho thấy nếu bảo quản ở nhiệt độ thấp (-7 đến 4 0 C) chất lượng chè tốt trong 24 tuần. Hơn thế nữa, bảo quản ở nhiệt độ phịng cĩ điều hồ chất lượng chè cũng tốt trong 24 tuần nhưng khơng bằng bảo quản chè ở nhiệt độ thấp. Tuy nhiên, nếu bảo quản ở nhiệt độ cao (37 0 C) chất lượng chè chỉ khá trong 7-8 tuần. Ngồi một số cơng ty chuyên bao gĩi chè bảo quản ở Trung Quốc, Nhật Bản và Nga thì thường xuyên sử dụng màng chất dẻo cùng với thùng Cacton, hoặc bảo quản chè trong những thùng bằng sành sứ đặt nơi khơ ráo trong bĩng tối. Đến nay, bảo quản chè trong túi lá kim loại được hút chân khơng cũng đang được thử nghiệm 4.4.3Cơng nghệ bảo quản chè tại Việt Nam: Hiện nay một số cơng ty sản xuất chè trong nước đã điều chỉnh chè ở mức thủy phần 8% nhưng theo điều kiện bảo quản chất lượng chè nhanh xuống cấp. Nhiều khách hàng nước ngồi phàn nàn về việc xuống cấp nhanh của chè Việt Nam do điều kiện bảo quản chưa đạt yêu cầu, nên chất lượng của chè xuất 182 khẩu chưa được đảm bảo. Đĩ cũng là một phần nguyên nhân làm cho chè Việt Nam chưa cĩ chỗ đứng trên thịtrường thế giới Việt Nam đã cĩ TCVN 1457-83 chè đen, chè xanh. Bao gĩi, ghi nhãn, vận chuyển và bảo quản. Tiêu chuẩn này áp dụng cho chè xuất khẩu. Bao bì nhãn khác, thương hiệu trước đây cũng rất ít được quan tâm, nhưng trong hội nhập thương mại thế giới WTO vào những năm tới, đây là một vấn đề quan trọng cho sự thành đạt của sản xuất – kinh doanh, phải coi là khoản đầu tư khơng thể thiếu. Tĩm lại Với cơng nghệ kỹ thuật cịn non, yếu , ngành chè Việt Nam cịn phải phấn đấu liên tục để đáp ứng yêu cầu hội nhập . Mới đây, Hiệp hội Chè Việt Nam đã đưa ra cảnh báo khả năng ngành chè mất thị trường EU sau khi Anh và nhiều nước châu Âu đưa ra thơng báo báo về việc dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm chè xuất khẩu của ta vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Một lần nữa, câu chuyện về chất lượng của các sản phẩm chè lại được nĩi đến như hệ quả của sự mất cân đối giữa sự phát triển ồ ạt của các cơ sở chế biến chè dẫn đến việc khai thác cạn 183 kiệt các vùng nguyên liệu. Tình trạng cũng sẽ đe dọa khơng nhỏ đến mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành chè đạt khoảng 18-20%, tương đương 140 triệu USD trong năm 2007. Chỉ tính riêng các doanh nghiệp chế biến chè chúng ta cĩ 650 cơ sở cơng nghiệp với tổng cơng suất trên 3.100 tấn búp tươi/ngày. Với sản lượng 546.000 tấn chè búp tươi năm 2005 chỉ đáp ứng được khoảng 88% nhu cầu nguyên liệu chè búp của các cơ sở chế biến này. Ngồi ra cịn cĩ hàng trăm cơ sở chế biến chè thủ cơng bán cơng nghiệp cùng tham gia thu mua nguyên liệu để sơ chế và nhiều cơ sở đấu trộn ướp hương đĩng gĩi chè. Do thiếu nguyên liệu nên nhiều cơ sở khơng quan tâm đến chất lượng nguyên liệu đầu vào, đặc biệt kiểm sốt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè, giá cả thu mua khơng hợp lý nên khơng khuyến khích người sản xuất coi trọng chất lượng nguyên liệu, thiếu chăm sĩc vườn chè đúng quy cách, dẫn đến năng suất chè bình quân của cả nước chỉ đạt 5,7 tấn/ha (mà nếu chăm sĩc tốt nhiều vườn chè cho năng suất 20-25 tấn/ha. Bên cạnh đĩ, trang thiết bị cơng nghệ chế biến lạc hậu nên hầu hết chè Việt Nam được xuất khẩu ở dạng nguyên liệu, chè thành 184 phẩm mới chỉ chiếm 7% tổng kim ngạch xuất khẩu, chè nguyên liệu chiếm xấp xỉ 80%. Một số lãnh đạo quản lý ngành chè lại cĩ quan điểm giá tăng như vậy thì nơng dân sẽ được lợi, nhưng về lâu dài, theo các chuyên gia trong ngành, khi giá đẩy lên thì chất lượng chè kém đi. Khi hái chè, thơng thường người trồng chè chỉ ngắt một búp, 2 lá, nhưng bây giờ họ dùng liềm cắt cành dài khiến cây chè bị tổn thương, khĩ cĩ thể khơi phục vườn chè nhanh được. Chất lượng chè kém đi thì xuất khẩu sẽ giảm sút. Với cơ cấu trên 2/3 sản lượng chè được sản xuất dành cho xuất khẩu, trong khi chỉ cĩ non 1/3 tiêu dùng trong nước. khi kim ngạch xuất khẩu giảm tất yếu sẽ dẫn đến chuyện đình đốn trong sản xuất. Chính vì thế chúng ta cần phải cĩ biện pháp giúp ngành chè Việt Nam thốt khỏi tình trạng hiện nay, đưa giá chè Việt Nam lên ngang hàng với các nước, muốn làm được điều này phải cĩ sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan lãnh đạo và bà con nơng dân nhằm cải tiến kỹ thuật trồng trọt và chế biến để chất lượng chè ngày một tăng . Đồng thời cần thực hiện mộ số giải pháp để phát triển nghành chè Việt nam như sau : 185 - Về quy hoạch vùng nguyên liệu: trên cơ sở địa hình, thỗ nhưỡng, khí hậu và quỹ đất hiện cĩ ở địa phương, quy hoạch vùng nguyên liệu chè theo hướng khai thác lợi thế của từng vùng, cĩ kế hoạch phục hồi thâm canh 70.000 ha chè hiện cĩ, đồng thời tập trung trồng mới chủ yếu ở các tỉnh miền Bắc, cụ thể là: Đối với vùng cao: trồng chè cổ thụ như chè Shan tuyết, chè đặc sản khoảng 10.000 ha ; Đối với vùng thấp: trồng chè đốn khoảng 20.000 ha; Hình thành một số vùng chè cao sản để sản xuất các loại chè cĩ chất lượng cao về chè hữu cơ để cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. - Về thị trường: Bộ Thương mại chủ trì phối hợp với bộ Nơng nghiệp và PTNN, các Bộ ngành cĩ liên quan giải quyết tốt thị trường, cụ thể là: Củng cố và mở rộng thị trường Trung Cận Đơng; Khơi phục thị trường các nước Đơng Âu và Cộng hịa Liên bang Nga;Tham gia thị trường Nhật Bản và Đài Loan bằng các hình thức liên doanh, liên kết, bao tiêu sản phẩm; Mở thêm thị trường mới ở Bắc Mỹ và các nước Châu Âu. 186 - Về chính sách đầu tư và tín dụng: trên cơ sở đầu tư hợp lý, tính đủ theo hướng thâm canh. Nhà nước cĩ hỗ trợ đầu tư và tín dụng phù hợp cụ thể là: Đối với chè trồng ở vùng cao coi như rừng phịng hộ (chè cổ thụ). Được áp dụng chính sách hỗ trợ như trồng rừng phịng hộ tại Quyết định số 01/1988/QĐ TTg ngày 29 tháng 07/1998 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai dự án trồng 5 triệu ha rừng, mức hỗ trợ là 2,5 triệu/ha, lấy từ nguồn vốn trong kế hoạch trồng rừng hàng năm, phần vốn cịn lại do người trồng chè tự đầu tư bằng vốn tự cĩ hoặc vốn vay; Đối với trồng chè cĩ đốn, huy động mọi nguồn vốn để phát triển vùng nguyên liệu chè như mục tiêu đã đề ra, bao gồm:Vốn ngân sách nhà nước đầu tư hỗ trợ, xây dựng các cơng trình thủy lợi đầu mối, nghiên cứu khoa học và cơng nghệ, khuyến nơng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới về cây chè;Vốn tín dụng ngân hàng: bảo đảm kịp thời vốn vay cho nhu cầu của người trồng chè;Vốn nước ngồi bằng các hình thức liên doanh, liên kết, vốn ODA. - Về giá cả: quy định giá mua chè tươi hợp lý, đảm bảo lợi ích của người trồng chè. Giao chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh cĩ trồng chè, sau khi tham khảo ý kiến của ban vật giá Chính 187 phủ, cơng bố giá mua chè tươi nguyên liệu tối thiểu ngay từ vụ đầu, để hướng dẫn các cơ sở mua chè nguyên liệu. Từng bước hình thành quỹ hỗ trợ cho sản xuất nguyên liệu. Bộ Nơng nghiệp và PTNN chủ trì phối hợp cùng các bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ban vật giá Chính phủ và các Bộ, ngành cĩ liên quan lập đề án, cơ chế sử dụng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. - Về khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế: Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nơng trường quốc doanh, thực hiện giao đất khốn vườn chè cho hộ gia đình, cơng nhân viên nơng trường và nhân dân trong vùng, nơng trường chuyển sang làm dịch vụ vật tư kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư trồng, chế biến chè, phát triển mơ hình kinh tế trang trại. -Về khoa học và cơng nghệ mơi trường: Tuyển chọn, lai tạo các giống chè mới cĩ năng suất, chất lượng cao và tổ chức chuyển giao nhanh đến hộ gia đình; Hình thành vùng chuyên canh tập trung sản xuất chè sạch, khơng dùng hĩa chất độc hại, tăng sức sử dụng phân hữu cơ, phân bĩn vi sinh, phịng trừ sâu bệnh 188 189 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Nguyễn Văn Bình và cộng sự:- Giáo trình cây cơng nghiệp NXB Nơng Nghiệp 19985/ 2/ Viện nghiên cứu chè - Những nghiên cứu kỹ thuật và ứng dụng trong ngành chè,1991 3/ Viện nghiên cứu chè - Tổng quan chiến lược phát triển chè 1997-2000, Bộ NN và PTNT 4/ Ngơ Hữu Hợp: - Bảo quản chè – Trường ĐHBK Hà Nội,2001 5/ Tống Văn Hằng – cơ sở sinh hĩa và kỹ thuật chế biến trà,NXB TPHCM,1985 6/ Đặng Hạnh Khơi: - Chè và cơng dụng NXB KHKT, Hà Nội,1983 7/ Đỗ Ngọc Quỹ - Nguyễn Kim Phong – Cây chè Việt Nam NXB KHKT 1998 190 8/ Đỗ Ngọc Quỹ - Cây chè* Sản xuất * Chế biến * Tiêu thụ, NXB nghệ An, 2003 9/ Vietnamnet: Thị trường – bài tốn khĩ của chè Việt Nam (20/06/2003) 10/ www.vitas.org.vn 11/ www.stashtea.com 12/ www.greentealovers.com 13 / www.teasa.com 14/ Một số hình ảnh về cây chè: quá trình sản xuất,chế biến và sản phẩm( theo nguồn của Stash Tea companies ) 191 Tản mạn về Trà & Trà Đạo. Lý Lạc Long Hầu như mọi dân tộc, mọi xứ sở trên trái đất đều biết uống trà. Theo ước tính, đây là loại nước uống phổ biến nhất sau "nước" và mỗi ngày thế giới tiêu thụ chắc khơng dưới một tỉ tách trà đủ các loại. Theo sách vở ghi lại thì tục uống trà của nhân loại bắt nguồn từ Trung Quốc. Theo cuốn Trà kinh, của Lục Vũ viết năm 780 (Lục Vũ là một cuồng sĩ đất Hồng Tiệm đời Ðường, thường lang thang ngâm thơ rồi khĩc. Ơng để lại cho đời sách Trà Kinh gồm ba quyển bàn về trà, gốm trà, cách pha và uống trà, được người đời sau gọi là ơng tiên trà, thờ làm ơng tổ của trà đạo Trung Quốc) thì uống trà bắt đầu từ thời Thần Nơng, truyền sang Chu Cơng nước Lỗ. 192 Như vậy lồi người biết uống trà vào khoảng năm 3300 - 3100 trước Cơng nguyên. Qua các thời đại Trung Quốc, tục uống trà và tác dụng của cây trà ngày được nâng cao và khai thác triệt để. Cách uống trà cũng theo những con đường buơn bán tơ lụa, đồ gốm và qua sự giao lưu của các thương gia tỏa ra khắp thế giới. Cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, cùng với thiền, trà ở Trung Hoa tràn sang Nhật. Người Nhật tiếp thu cả hai thứ văn hố vật chất và tơn giáo này, đem nĩ hồ quyện với văn hố bản địa và nâng lên thành triết lý riêng của dân tộc Nhật gọi là Trà đạo. Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian này, cĩ một vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, sư Eisai mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Phẩm Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống 193 trà. Những cơng dụng của trà về mặt y khoa và hương vị hấp dẫn đặc biệt của trà đã thu hút nhiều người dân Nhật đến với cái thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tính Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo. Trà đạo phát triển dựa trên triết lý xem uống trà như là một thú tiêu khiển thanh tao và nghi lễ của việc uống trà do các sư Thiền tơng đặt ra để giữ cho họ thức tỉnh. Đến đời thiền sư Senno Rikyu (1521-1591) thì trà đạo ở Nhật thực sự trở thành một nghệ thuật gắn liền với đời sống thiền thơng qua việc định nghĩa các yêu cầu của trà đạo như là sự hài hịa, tĩnh lặng, thanh khiết và trang trọng. Như Kakuzo Okakura đã viết trong cuốn "Quyển sách về Trà" xuất bản vào năm 1906: "Trà đạo là một giáo phái được sáng lập dựa trên lịng tơn thờ cái đẹp, cái đẹp giữa những thực tế nhớp nhúa trần ai. Trà đạo bao gồm những nghi lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm linh tơn giáo, biến việc uống trà trở thành một cuộc lễ. Bất cứ 194 một thiền thất nào của mơn phái Trà đạo đều cĩ những trà thất. Tuy được xây dựng hết sức giản dị, tự nhiên nhưng được coi là nơi thiêng liêng nhất. Đĩ là những gian nhỏ được ghép bằng tre, gỗ, lợp tranh rất nguyên sơ. Trong nhà bài trí một vài bức thư pháp cổ, hoặc tranh thuỷ mạc. Một bếp đun nước, một lị hương thơm, một lọ hoa cắm chỉ một bơng như mọc lên từ kẽ đá. Ngồi trong căn phịng lặng im nghe tiếng nước sơi nhè nhẹ như tiếng giĩ. Người ta cảm thấy như ngồi giữa một thảo am nơi sơn dã, chỉ cĩ mây trắng và tiếng nhạc thiên nhiên làm bạn, lịng cảm thấy thanh thốt. Con người như vượt lên trên những giới hạn tương đối và một thống nhìn vào vĩnh cửu. Ấm trà được sắp lên toả hương thơm thanh cao, tinh khiết. Uống chén thứ nhất thấy lịng tĩnh lặng, tâm khơng cịn dao động, tự soi được vào cõi tâm mình. Thiền nhân gọi đĩ là trạng thái vấn tuệ. Uống xong chén thứ hai thấy nơi ấn đường ấm nĩng, tư duy thiền sắp được khai thơng. Uống xong chén thứ ba cả hai trạng thái trên 195 đều biến mất. Thân xác như hồ vào trời đất. Người ta nĩi đĩ là đạt tới thiền và là Trà đạo." Theo hai cuốn sách “The Empire of Tea: The Remarkable History of the Plant That Took Over the World” ( Đế Quốc Trà ) của Alan Macfarlane and Iris Macfarlane và “Tea: Addiction, Exploitation, and Empire” (Trà: Nghiện, Bĩc Lột, và Đế quốc) của Roy Moxham mới xuất bản gần đây thì các tác giả người Anh này thuật lại thì các nhà buơn bán Tây phương để ý đến trà vào khoảng thế kỷ 17. Cuốn “Đế quốc trà” mở đầu với một hồi ký ngắn và cảm động của Iris về nhận thức văn hĩa mà bà mang theo cùng chồng đến nơng trại trồng trà Assam. Bà viết: "Tơi lớn lên với tất cả những mưu mẹo, những lời nĩi hoa mỹ : rằng ‘Bên ấy ở Ấn Độ’ cĩ những người da ngăm thấp kém khơng thể cứu chữa, những người rất may mắn được chúng ta cai trị". Sau đĩ thì tác giả kể lại những tình trạng đối xử tàn bạo đối với những cơng nhân làm việc trong các nơng trại trồng 196 trà, những hồi tưởng buồn bã. Cuốn "Đế quốc trà" phân tích một cách dí dỏm sắc nước của trà và qua đĩ suy luận về vai trị của trà trong việc duy trì một hệ thống trật tự xã hội theo đẳng cấp ở Anh. Tác giả cịn tìm cách trả lời một câu hỏi : Cĩ phải quả thật trà đã thuần hĩa người Anh? Cĩ phải trà làm cho những người da trắng, thích ăn thịt đỏ và uống bia trở thành những người hiền lành hơn và dễ mến hơn? Khơng! Đĩ là câu trả lời. Những người Anh, chủ đồn điền trà, khinh miệt cơng nhân người bản xứ, họ cho đĩ là những cu-li (coolies). Họ đối xử tàn bạo đối với những phu người địa phương và gây cho cái chết cho hàng trăm ngàn người. Theo thống kê của Moxham, cho đến năm 1900, hơn 200 ngàn mẫu trà được khai khẩn và trồng trong rừng Assam, và nĩ làm mất đi sinh mạng của hàng trăm ngàn người phu Ấn Độ nhưng chỉ vài mạng người Anh. Đĩ chỉ là một thảm nạn trồng trà ở vùng Assam; nhiều thảm nạn cịn xảy ra ở Darjeeling, Tích Lan (Ceylon), và nhiều nơi khác. Quy trình sản xuất trà 197 ở Ấn Độ được mơ phỏng theo cách tổ chức sau cuộc Cách mạng kỹ nghệ: giờ làm việc dài, điều kiện làm việc cực xấu, và thiếu an tồn. Macfarlane viết: “Cơng nhân trở thành một phần của bộ máy sản xuất khổng lồ. Trong bộ máy đĩ họ là những con người làm việc khơng hồn. Cái giá nhân sinh mà con người phải trả cho những cơng việc nhàm chán và khơng cần đến trí ĩc, đĩ là chưa kể đến tình trạng cơng nhân phải đứng hết giờ này sang giờ khác để hái trà. Thật khĩ tưởng tượng nổi!” Trà, ngồi là thức uống và những cơng dụng tốt cho sức khỏe , cái ''lá cây thơm ngát" này đã là đề tài làm say mê nghệ nhân để sáng tạo ra những bình sứ thời xưa ở Việt Nam, Nhật Bản và Trung Hoa. Trà đã là chất xúc-tác khuyến khích các tay thực dân Âu châu ; là chất châm ngịi cuộc chiến tranh Nha phiến; là cảm hứng cho cho những nhà thiết kế thuyền bè vào thế kỷ 19th; và là một trong những 198 nguồn cung cấp sinh lực cho cuộc Cách mạng kỹ nghệ . Gần đây ở Việt Nam cĩ nhiều "trà quán" mở cửa theo nhu cầu của thị trường, tơi tình cờ đọc một số bài viết so sánh và tỏ ý ngưỡng mộ nghệ thuật uống trà của Nhật và Trung Hoa. Phải cơng nhận là các nước khác thành cơng hơn Việt Nam trong việc quảng bá truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ. Trà đạo của Nhật nổi tiếng đã lâu, và Trung Hoa thì cũng vậy. Mặc dù theo truyền thuyết thì Việt Nam đã biết đến trà từ thời Ðơng Hán và trà đạo Việt thành hình khoảng vào đời nhà Ðường. Sách Trà Kinh của Lục Vũ nhập đề rằng "trà là lồi cây lớn ở phương nam". Chứng tích trà đạo Việt cịn lưu lại trên những bình bát trà gốm Việt Dao từ thời Bắc thuộc, lên đến tột đỉnh thời Lý, Trần, thời Phật giáo thịnh nhất trong lịch sử VN. Trà đạo Việt là đạo mà khơng đạo, đạo vơ mơn quan: khơng cửa vào, khơng lối ra. Cũng như Việt Nam, lúc bấy giờ Phật 199 giáo ở Nhật bén rễ vào giới thế quyền. Tăng sư là khách quý của các sứ quân và các phú hào. Họ học Phật rồi tiêm nhiễm luơn đạo thưởng trà. Uống trà nhằm luyện con người khu trừ những chướng ngại phiền não, để đạt chỗ rốt ráo của an bần lạc đạo, hịa đồng với Tự Nhiên, tức là Chân Như. Và uống trà, hành trà đạo phải cĩ các trà khí mà ngành gốm Nhật bấy giờ rất phơi thai. Nên trà gốm từ Cao Ly, Trung Hoa, Ðại Việt đưa sang giá đắt, chỉ được xử dụng giới hạn trong hàng sứ quân và đại phú. Thay vì hấp thu nếp thanh bần, họ bèn mượn trà đạo làm trị trà dư tiêu khiển, đặt ra các quy tắc kiểu cách (Cha No Yu), muốn vào phải qua cổng Hữu Mơn Quan. Trà đã đưa thiền vị đạm bạc vào trú ngụ chỗ đền các xa hoa. Trong khuơn viên cung đình nguy nga, các lãnh chúa sai dựng nên trà thất bắt chước lều cỏ bần hàn của ẩn sĩ để hành trà đạo. Cịn bên nước Việt, đạo đã từ cung cấm ra đi, bỏ phú quý phù vân để phiêu bồng nơi cảnh thật của "rừng trúc lắm chim" (Trúc lâm đa túc điểu) như thơ ngài 200 Huyền Quang. Các vua Lý, Trần bỏ kinh về núi, thực hiện hạnh tầm đạo, dẫm theo bước chân của đức Phật. Đây là chỗ khác biệt trong lịch sử thiền đạo Việt - Nhật . Thời đại chúng ta đang sống, kỹ thuật hiện đại cho phép mọi người tiếp xúc với mơi trường bên ngồi, với các nền văn hố khác nhau trên thế giới, tạo điều kiện cho việc học hỏi các điều mới lạ và bổ ích để mở mang kiến thức , để áp dụng cho lợi ích của bản thân và đất nước . Nhưng chúng ta phải biết gạn lọc và đừng quên gốc rễ của mình. Ngưỡng mộ , thích và trân trọng Trà đạo của Nhật Bản hay Trung Hoa thì cũng tốt, nhưng so sánh và chê bai nghệ thuật và phong cách uống trà hay trà Việt Nam là một điều khơng đúng và nhất là khi dựa vào chỉ mấy "trà quán" phục vụ nhu cầu nhất thời của thị trường. Cái áo Kimono của Nhật, áo sường - sám của Trung Hoa, cái áo dài của Việt Nam.... mỗi cái cĩ những nét đẹp riêng. Ở đời khơng cĩ gì là tuyệt 201 đối hồn hảo. Và người ta thường nĩi " cĩ nằm trong chăn mới biết chăn cĩ rận", và khơng cĩ một quốc gia nào hồn hảo hơn một quốc gia nào. Tách trà thơm ở Việt Nam đã từ lâu là quà đĩn khách, là tâm tình của chủ nhà với khách viếng thăm. Khơng thể nĩi là vì người VN khơng pha chế trà cầu kỳ như người Nhật hay người Trung hoa và vì vậy mà thịnh tình của chủ với khách suy giảm. Phần tơi thì với nghệ thuật uống trà theo Trà đạo của Nhật bản hay Trung hoa thì cũng rất ngưỡng mộ, và áo Kimono hay sường sám, cũng rất đẹp mắt... Nĩi cách khác là tơi chỉ "cỡi ngựa xem hoa" . Nhưng tách trà Việt nam tơi sẽ pha đãi khách và chiếc áo dài VN vẫn là đẹp nhất , gần gũi thân thương nhất. Lý do rất đơn giản : Vì tơi là người Việt Nam . Riêng về phong cách uống trà hay thiền đạo thì vơ mơn quan (Việt Nam) hay hữu mơn quan (Nhật Bản) ... "tốt" hơn ? Tơi xin phép gởi đến các bạn câu truyện "Trà Đạo" dưới đây : 202 "Khách đến viếng một trà thất, chủ nhân tiếp đĩn theo nghi phong trà đạo Nhật Bản, khách thì lại cứ rĩt uống tự nhiên khơng theo luật lệ nào cả. Chủ nhân liền thuyết trình về trà đạo, về cách pha trà và phong thái uống trà v.v. Nghe xong khách nĩi: - À, thì ra trà đạo là vậy. Tơi lại tưởng đạo trà là khát thì uống thơi chứ. Rồi khách xuất khẩu ngâm: Xưa nay trà là đạo. Khát cứ việc uống thơi. Nghĩ thêm trà với đạo. Ðầu thượng trước đầu rồi!" Mời các bạn tách trà thơm (pha kiểu Việt Nam) và chúc tất cả một cuối tuần như ý .
File đính kèm:
- giao_trinh_cay_che_va_ky_thuat_che_bien_trinh_xuan_ngo.pdf