Giáo trình Hiến pháp tư sản - Đinh Văn Liêm (Phần 2)

Tóm tắt Giáo trình Hiến pháp tư sản - Đinh Văn Liêm (Phần 2): ... của chính phủ mà không cân phải nhận được sự cho phép trước của Đại hội đại biểu thời hạn của tình trạng nguy hiểm kéo dài 15 hội đại biểu. Thời hạn của tình trạng nguy hiểm kéo dài 15 ngày (nếu không được đại hội đại biểu gia hạn); theo hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức 1949 trường hợp lãnh...ệm b.Hệ thống tòa án các bang gồm có: - Tòa án hòa giải, tòa án vi cảnh - Toà án sơ thẩm của các quận - Tòa phúc thẩm - Tòa tối cao Ngoài ra còn có các tòa án thiếu nhi và một số tòa án chuyên môn khác 1.Các tòa hòa giải, tòa vi cảnh có thẩm quyền xét xử các vụ án nhỏ: Về dân sự là ...viên chính phủ, các quan tòa), nhưng ở đây chủ yếu nói tới quy trình luận tội đối với nguyên thủ quốc gia. Hộp: Thẩm quyền của Tòa án hiến pháp Hàn Quốc Từ khi được thành lập năm 1988 đến 2009, Tòa án hiến pháp Hàn Quốc thụ lý gần 17500 vụ, trong đó khoảng 94% vụ liên quan đến khiếu kiện về ...

pdf48 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Hiến pháp tư sản - Đinh Văn Liêm (Phần 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà lập pháp không thể thay đổi cốt lõi của vị trí pháp lý của cơ quan bảo 
hiến bằng thủ tục thông thường. Tác giả Favoreu L. còn phát biểu một cách 
triệt để hơn: “Bất cứ một định chế nào mà sự tồn tại, hoạt động hay các thẩm 
quyền của nó có nguy cơ bị thay đổi bởi nhà lập pháp hay chính phủ đều không 
thể được xem xét như toà án hiến pháp, còn với bình diện rộng hơn như hoạt 
động bảo hiến”. 
Tuy nhiên, một số nước thuộc nhóm này không phải mọi lúc đều theo đuổi 
nguyên tắc nói trên một cách triệt để. Ví dụ, CH Pháp, nơi mà thẩm quyền của 
Hội đồng bảo hiến được mở rộng bằng các đạo luật, thậm chí bằng các sắc lệnh 
và bởi bản thân Hội đồng. 
ii) Ở một số nước, hiến pháp không liệt kê danh mục các thẩm quyền của cơ 
quan bảo hiến, chúng có thể được bổ sung hoặc thu hẹp bằng đạo luật (Tây Ban 
Nha, Séc, Đức). Ví dụ như ở Tây Ban Nha Toà án hiến pháp có thể đưa ra các 
phán quyết về những vấn đề không chỉ được quy định trong Hiến pháp, mà còn 
trong các đạo luật. Hay Đạo luật cơ bản của CHLB Đức quy định Toà án Hiến 
pháp hành động “trong những trường hợp do luật pháp liên bang chỉ ra” (Điều 
93, Phần 2). Ngược lại, ở CH Séc luật có thể quy định những trường hợp mà 
theo đó Toà án Hành chính tối cao có thể thay Toà án Hiến pháp giải quyết một 
số vấn đề thuộc hiến pháp. 
4.2.3. Mô hình hỗn hợp 
Mô hình hỗn hợp kết hợp cả hai phương thức xác định thẩm quyền của các cơ 
quan bảo hiến. Tại các toà án bình thường, hoạt động bảo hiến không tách rời 
khỏi hoạt động xét xử truyền thống, còn các cơ quan bảo hiến chuyên trách 
theo hình mẫu châu Âu có thẩm quyền xét xử về những vấn đề hiến pháp riêng 
biệt đã được quy định trong hiến pháp và các luật ( Bồ Đào Nha, Nam Phi, Hy 
Lạp). Một vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là phân định thẩm quyền giữa toà 
112 
hiến pháp và các toà bình thường về các vấn đề hiến pháp. Ví dụ điển hình là 
các quy định của Hiến pháp Nam Phi 1994 về thẩm quyền của Toà án hiến 
pháp, Toà án Tối cao và các bộ phận của Toà này ở các tỉnh, các toà cấp dưới 
khác. 
5- GIÁM SÁT TÍNH HỢP HIẾN CỦA VĂN BẢN PHÁP LUẬT 
5.1- Đối tượng giám sát 
Đối tượng của giám sát bảo hiến là những văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền 
xem xét của cơ quan bảo hiến. Tùy thuộc vào phạm vi hiến định của cơ quan 
bảo hiến được xem xét những văn bản nào mà người ta phân biệt giám sát tổng 
thể và giám sát có giới hạn. Đối với loại thứ nhất không hề có sự giới hạn đối 
tượng, mọi dạng văn bản pháp luật đều thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan 
bảo hiến (luật, văn bản của nguyên thủ quốc gia, của nhánh hành pháp, của 
chính quyền địa phương). Đối với loại thứ hai luật pháp quy định cụ thể những 
dạng văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan bảo hiến. 
Thông thường người ta cho rằng giám sát tổng thể tiêu biểu cho mô hình Mỹ, 
còn giám sát có giới hạn – cho mô hình Châu Âu. Nhưng hiện nay sự phân biệt 
đó không còn rõ ràng như vậy nữa: ngày càng rõ nét xu hướng mở rộng đối 
tượng giám sát ở các nước theo mô hình Châu Âu, ngày càng có nhiều hơn các 
dạng văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền xem xét của cơ quan bảo hiến, trong 
đó đặc biệt có ý nghĩa là các văn bản trong lĩnh vực lập pháp uỷ quyền. Trên 
phương diện này, có thể nói đã có sự xích lại gần hơn giữa hai mô hình. 
5.2. Các dạng giám sát tính hợp hiến 
Để phân loại các dạng giám sát tính hợp hiến, có thể dựa trên nhiều tiêu chí 
khác nhau: thời điểm tiến hành giám sát, tính chất giám sát, giám sát hình thức 
hay nội dungTrong bài viết này xin tập trung vào hai dạng giám sát. 
5.2.1. Theo thời điểm tiến hành giám sát 
113 
Người ta phân biệt hai hình thức giám sát tính hợp hiến theo thời điểm giám 
sát: giám sát trước và giám sát sau. Hình thức thứ nhất là kiểm tra tính hợp 
hiến của văn bản pháp luật trước khi thông qua, công bố hoặc có hiệu lực, hình 
thức thứ hai – kiểm tra tính hợp hiến của những văn bản pháp luật đang có hiệu 
lực. 
Giám sát trước 
Trước hết, hình thức giám sát này hạn chế việc thông qua những văn bản 
không hợp hiến. Ngoài ra, bằng hình thức này có thể tránh được việc huỷ bỏ 
những văn bản liên quan đã được ban hành trên cơ sở văn bản không hợp hiến 
và như vậy bảo đảm sự ổn định của lập pháp, hạn chế lãng phí về thời gian, 
tiền của, công sức. 
Chố yếu lớn nhất của hình thức giám sát trước là nó tạo điều kiện cho cơ quan 
bảo hiến can thiệp vào công việc lập pháp của Nghị viện, mà điều này lại chứa 
nguy cơ tiềm ẩn chính trị hoá cơ quan bảo hiến. Ngoài ra, nếu ở một nước chỉ 
có giám sát trước, trong quá trình áp dụng pháp luật phát hiện thấy tính không 
hợp hiến thì văn bản đó vẫn không bị huỷ bỏ vì không có quy trình để huỷ bỏ 
và vẫn được coi là hợp hiến. 
Giám sát sau 
Nhược điểm của giám sát trước lại là ưu điểm của giám sát sau và ngược lại. 
Không can thiệp vào quá trình lập pháp, khả năng kiểm tra tính hợp hiến của 
văn bản pháp luật có tính đến thực tế áp dụng của toà án và các cơ quan hành 
chính (mà điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ các quyền và tự do 
hiến định) – những đặc điểm này tạo nên ưu thế chính của giám sát sau. 
Việc áp dụng hai hình thức này ở các nước 
Tại những nước theo mô Mỹ cổ điển không có hình thức giám sát trước. Ở 
những nước theo mô hình Mỹ cải biên hình thức này được áp dụng có giới hạn 
và phần lớn mang tính chất tư vấn, theo yêu cầu của nguyên thủ quốc gia. 
114 
Các nước theo mô hình châu Âu chủ yếu dùng hình thức giám sát sau. Giám 
sát trước được áp dụng rất hạn chế, chỉ trong những trường hợp như: đối với 
những điều ước quốc tế chưa có hiệu lực nhằm tranh xung đột pháp luật giữa 
luật quốc tế và nội luật; khi có tranh chấp về thẩm quyền lập pháp mà đối 
tượng tranh chấp là các văn bản luật 
Tại Pháp và một số nước nói tiếng Pháp lại chỉ áp dụng hình thức giám sát 
trước và chủ yếu trước khi Tổng thống ký công bố. 
Bên cạnh đó có xu hướng áp dụng cả hai hình thức. Ví dụ ở Bồ Đào Nha các 
toà thẩm quyền chung thực hiện giám sát sau, còn Toà án Hiến pháp áp dụng 
cả hai hình thức. 
5.2.2. Giám sát trừu tượng và giám sát cụ thể 
Khái niệm chung 
Giám sát trừu tượng – cơ quan bảo hiến xem xét tính hợp hiến của văn bản 
pháp luật không liên quan đến vụ việc cụ thể hay quyền lợi cụ thể. Lý do để 
tiến hành sự kiểm tra như vậy là bất kỳ sự nghi ngờ nào về tính hợp hiến của 
văn bản pháp luật. Những chủ thể nào có quyền đề nghị giám sát trừu tượng ? 
Thông thường đó là các cơ quan nhà nước và các quan chức, nghị sỹ. Nhưng ở 
một số nước công dân và hiệp hội của họ cũng có quyền đề nghị cơ quan bảo 
hiến giám sát trừu tượng. Ở hầu hết các nước có hệ thống này, Hiến pháp quy 
định chỉ một số chủ thể như Tổng thống, Chủ tịch hai viện của nghị viện, hoặc 
một số lượng nghị sỹ nhất định mới có quyền đề nghị Tòa án hiến pháp xem 
xét tính hợp hiến của văn bản pháp luật (Ví dụ như Hiến pháp LB Nga, điều 
125(2). Nhưng cũng có số ít nước như Hungary, Hiến pháp trao cho cá nhân 
công dân quyền này (Hiến pháp Hungary, điều 32A(3). Nếu cho rằng luật, điều 
luật trái Hiến pháp, Tòa án hiến pháp sẽ tuyên hủy bỏ luật, điều luật đó; hoặc 
buộc nghị viện hoặc chính phủ chỉnh lý trong một thời gian nhất định. Như 
115 
vậy, các phán quyết của Tòa án hiến pháp hướng đến chính phủ, chứ không chỉ 
đơn thuần các bên kiện tụng. 
Giám sát cụ thể – cơ quan bảo hiến kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp 
luật liên quan đến một vụ việc cụ thể bảo vệ lợi ích cụ thể. Chủ thể có quyền đề 
nghị tiến hành giám sát bảo hiến ở đây chủ yếu là các pháp nhân và thể nhân. 
Áp dụng các dạng giám sát 
Việc áp dụng hai dạng giám sát này khác nhau ở các nước. Mô hình Mỹ cổ điển 
chỉ áp dụng giám sát cụ thể, do các toà có thẩm quyền chung thực hiện trong 
quá trình xét xử các vụ án hình sự và dân sự. Các nước mô hình Mỹ cải biên áp 
dụng có giới hạn giám sát trừu tượng (chủ yếu cùng với việc ra đời chế định 
thanh tra Quốc hội). 
Đối với các nước mô hình châu Âu và mô hình hỗn hợp (ngoài Pháp và một số 
nước châu Phi nói tiếng Pháp chỉ áp dụng giám sát trừu tượng), hai dạng giám 
sát nói trên được kết hợp với nhau. Trong đó giám sát cụ thể có hai trường hợp: 
i) Toà án thẩm quyền chung dừng xét xử vụ án khi cho rằng quy phạm cần áp 
dụng không hợp hiến và chuyển kiến nghị lên cơ quan bảo hiến về việc kiểm 
tra tính hợp hiến của quy phạm đó. Toà có thể chủ động làm điều này hoặc 
theo yêu cầu của một bên tranh chấp. Trường hợp này phổ biến hơn trường hợp 
thứ hai; 
ii) Cơ quan bảo hiến kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp luật trong quá 
trình xem xét đơn khiếu kiện về quyền con người. Một mặt, có thể coi đây 
không phải là giám sát cụ thể, bởi lẽ tính hợp hiến của văn bản pháp luật là 
vấn đề phát sinh ra khiếu kiện bảo hiến, chứ không phải phái sinh từ khiếu kiện 
bảo hiến. Nhưng mặt khác, ở đây nói đến việc bảo vệ những quyền lợi cụ thể – 
những quyền chủ quan của công dân. Và như vậy, trên bình diện này đó lại là 
giám sát cụ thể. 
116 
Lợi thế của việc kết hợp: Kết hợp cả hai dạng giám sát nói trên là giải pháp tối 
ưu, bởi lẽ cho phép cơ quan bảo hiến “dung hoà giữa bảo vệ các quyền của 
công dân và bảo vệ tính thống nhất của hệ thống pháp luật, trong đó có cả tính 
tối cao của Hiến pháp”. Như vậy nó nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan 
này trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chính của tư pháp bảo hiến. 
Thực tiễn hoạt động của toà án hiến pháp nhiều nước châu Âu cho thấy giám 
sát cụ thể chiếm khối lượng chính trong công việc của những toà này, đặc biệt 
ở Đức, Áo, Italia. Ví dụ như Toà án Hiến pháp Liên bang Đức từ năm 1953 
đến 1984 chỉ có 82 phán quyết theo trình tự giám sát trừu tượng, nhưng có tới 
2200 – theo trình tự giám sát cụ thể, còn Toà án Hiến pháp Italia từ 1948-1976 
là 406 và 5761. 
5.3. Hệ quả pháp lý của giám sát tính hợp hiến 
5.3.1. Tính chất bắt buộc của phán quyết 
Trừ một số trường hợp, phán quyết của cơ quan bảo hiến về tính hợp hiến của 
văn bản pháp luật có tính chất bắt buộc. Và ở đây có sự khác biệt giữa các mô 
hình: 
Theo mô hình Mỹ 
Phán quyết của toà có thẩm quyền chung chỉ bắt buộc đối với các bên tham gia 
một vụ việc cụ thể liên quan đến kiểm tra tính hợp hiến. Bên cạnh đó, ở các 
nước thông luật, phán quyết của toà án tối cao có tính bắt buộc đối với các toà 
cấp dưới (nhưng không nhất thiết bắt buộc đối với các phán quyết của chính 
toà án tối cao và toà có thể huỷ bỏ phán quyết trước đó của mình. “Toà án Tối 
cao – Hiến pháp Ấn Độ quy định trong Điều 137- có quyền xem xét lại bất kỳ 
phán quyết hoặc lệnh của Toà đưa ra trước đó”. Trong một phán quyết của 
mình, Toà án Tối cao Ấn Độ cũng bày tỏ quan điểm: “Hiến pháp Ấn Độ không 
cấm Toà huỷ bỏ phán quyết trước đó nếu Toà tin chắc rằng phán quyết sai trái 
và sẽ gây ra những hậu quả tai hại cho các quyền lợi xã hội”. 
117 
Mô hình châu Âu và mô hình hỗn hợp 
Theo mô hình này, phán quyết của cơ quan bảo hiến về tính hợp hiến của văn 
bản pháp luật có tính chất bắt buộc chung đối với mọi đối tượng, có tính chung 
thẩm, không được khiếu kiện. Những văn bản được coi là không hợp hiến sẽ bị 
huỷ bỏ và điều này được quy định rõ ràng trong luật pháp. 
Tuy nhiên, trên thực tế, khác biệt nói trên giữa hai mô hình không đến nỗi lớn 
lắm, nhất là ở những nước có truyền thống lâu đời và vững chắc trong lĩnh vực 
này. Nếu toà án tối cao ở những nước như Mỹ, Canada, Na Uy cho rằng một 
đạo luật không hợp hiến, về hình thức đạo luật đó vẫn tiếp tục có hiệu lực, 
nhưng không một toà nào sẽ áp dụng nó nữa. Như vậy, đạo luật không còn 
được toà án bảo vệ, sẽ không còn hiệu lực pháp lý thực tế. Do đó, mặc dầu về 
lý thuyết phán quyết của toà án tối cao không bắt buộc chung cho mọi đối 
tượng, nhưng không một cơ quan hành chính nào sẽ áp dụng nó, bởi lẽ sẽ vô 
ích: quyết định hành chính có thể bị khiếu kiện lên toà, mà đối với toà, đạo luật 
mà cơ quan hành chính dựa vào đã không còn tồn tại. Và thông thường Nghị 
viện sẽ nhanh chóng huỷ bỏ đạo luật đó. 
6. LỰA CHỌN CHO VIỆT NAM 
Dường như ở Việt Nam không còn tranh luận về sự cần thiết thành lập cơ chế 
bảo hiến nữa, nhất là khi đã có những tuyên bố, quy định của Hiến pháp và 
pháp luật về nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của Hiến pháp v.vTừ cấp 
cao nhất là văn kiện của Đảng Cộng sản ViệtNamđã có chủ trương nghiên cứu 
thành lập cơ chế này. Ý nghĩa, tầm quan trọng của nó đã được thừa nhận. Như 
vậy, có thể nói, ViệtNamđã có sự lựa chọn giữa không và có trong việc thành 
lập cơ chế bảo hiến. 
Vấn đề cần phải bàn nhiều hiện nay là lựa chọn mô hình bảo hiến nào ở 
ViệtNam. Tác giả bài viết này chưa đề xuất một mô hình cụ thể đối với Việt 
Nam, vì không đủ tự tin, nhận thấy thiết lập cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện 
118 
nay quá khó. Trước khi lựa chọn mô hình thích hợp cho ViệtNam, cần phải giải 
đáp sáng rõ vài băn khoăn liên quan đến việc áp dụng cơ chế bảo hiến vào 
ViệtNam. 
Trước hết, cần làm rõ sự tương thích của cơ chế bảo hiến với nguyên tắc thống 
nhất quyền lực ở Việt Nam. Có tác giả đề xuất cần nhìn nhận vấn đề một cách 
linh hoạt hơn: khi Hiến pháp đã được đặt ở hệ cấp tối thượng thì tất cả các định 
chế quyền lực đều dưới Hiến pháp, kể cả Quốc hội. Vấn đề thống nhất quyền 
lực chỉ còn là vấn đề không tạo ra một cơ chế mâu thuẫn, đối trọng giữa Quốc 
hội và Chính phủ như: Chính phủ không được yêu cầu giải tán Quốc hội, và 
Quốc hội cũng không được lật đổ Chính phủ, Chính phủ không được từ chức 
tập thể. Trong bối cảnh nhận thức như vậy về thống nhất quyền lực, tài phán 
hiến pháp không mâu thuẫn với nguyên tắc căn bản này của việc tổ chức quyền 
lực nhà nước ở ViệtNam. Ngược lại, cũng không ít ý kiến cho rằng, cơ chế bảo 
hiến không phù hợp với nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước. 
Hơn nữa, nếu không mâu thuẫn với nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, 
vậy vị thế của cơ quan bảo hiến ở đâu? Chẳng hạn, đối với mô hình tòa án bảo 
hiến chuyên trách, một số nhà nghiên cứu giải thích tại sao mô hình này lan 
truyền rộng rãi như vậy trên thế giới, nhất là sau khi có thay đổi đột biến về 
chính trị-xã hội. Theo họ, bối cảnh lúc ra đời mô hình này thôi thúc các nước 
phải thành lập một thiết chế kiểm soát quyền lực đứng ngoài lập pháp, hành 
pháp và đặc biệt là đứng ngoài tư pháp. Thực tế này đặt ra một số câu hỏi đối 
với ViệtNam như: liệu bối cảnh hiện nay đã đến độ phải có một thiết chế kiểm 
soát quyền lực như vậy hay chưa? Nếu có, thiết chế đó đứng ngoài như thế nào 
để hoạt động được? v.v 
Băn khoăn thứ hai liên quan đến năng lực để thực hiện cơ chế bảo hiến. Như đã 
thấy, thẩm phán cơ quan bảo hiến ở các nước phải là những người có uy tín rất 
cao về chuyên môn luật và đạo đức; đó là những chuyên gia hàng đầu trong 
119 
giới luật. Không những thế, năng lực của cơ quan bảo hiến còn phải được bảo 
đảm bằng những yếu tố hỗ trợ như bộ máy, con người, thư ký, thông tin 
v.vỞ Việt Nam, dường như tiêu chí chuyên môn nhiều khi nhường chỗ cho 
yếu tố chính trị, có thể ảnh hưởng đến yếu tố chuyên môn của công tác bảo 
hiến. Mặc dù cơ chế bảo hiến ở các nước không phải không liên quan đến 
chính trị, nhưng cơ bản nó mang tính chuyên môn pháp lý rất cao. Hơn nữa, 
đây lại là cơ chế rất mới ở ViệtNam, vì vậy yếu tố năng lực càng cần được chú 
trọng. 
Băn khoăn thứ ba về tính độc lập của cơ chế bảo hiến, dù đó là Tòa án bảo 
hiến, Tòa án tối cao, hay là một mô hình khác. Qua các phần trình bày trên, có 
thể thấy cần có những yếu tố để bảo đảm sự độc lập này như: cách thức thành 
lập, bổ nhiệm thẩm phán, nhất là chánh án, nguồn lực v.vMột nghiên cứu về 
hai chánh án nổi tiếng của Tòa án hiến pháp LB Nga và Hungary đầu những 
năm 1990 cho thấy, hai chánh án này luôn giữ được sự độc lập trước các sức ép 
khác nhau trong bối cảnh chính trị phức tạp. Đó là nhờ các yếu tố nói trên, 
cộng với phẩm chất cá nhân của hai thẩm phán. Mà các phẩm chất đó là của 
những cá nhân được chọn lựa một cách đúng đắn nhờ một quy trình minh bạch. 
Bên cạnh đó, ở Việt Nam, liên quan đến tính độc lập, một trong những yếu tố 
hết sức quan trọng là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với các thiết chế nhà 
nước như cơ quan bảo hiến. Đã có khá nhiều ý kiến, trong đó có những ý kiến 
của các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản qua các thời kỳ về việc 
không nên để xảy ra tình trạng Đảng bao biện làm thay công việc của Quốc 
hội, của Chính phủ, không đặt Quốc hội trước sự đã rồi. Cũng như vậy, đối với 
hoạt động của cơ quan bảo hiến sau này, đây là yếu tố hàng đầu bảo đảm sự 
độc lập của cơ quan này. 
Băn khoăn thứ tư liên quan đến nhu cầu sử dụng cơ chế bảo hiến. Như đã nói, 
mặc dù trong những năm gần đây, sự cần thiết thành lập cơ chế bảo hiến không 
120 
còn là vấn đề tranh luận nhiều, nhưng khi đã thành lập, nhu cầu sử dụng cơ chế 
bảo hiến sẽ ở mức độ nào? Có cao không? Hay là thành lập ra nhưng chỉ xét xử 
mỗi năm vài vụ? Tâm lý chung của xã hội, người dân và các chủ thể công ở 
ViệtNamđều ngại ra tòa nói chung, chứ chưa nói đến một thiết chế hoàn toàn 
mới lạ như cơ quan bảo hiến. 
Băn khoăn thứ năm liên quan đến sự phân định giữa cơ quan bảo hiến và 
những thiết chế hiện có ở Việt Namđể thực hiện kiểm soát tính hợp hiến của 
các văn bản quy phạm pháp luật như thẩm định, thẩm tra. Khi tìm hiểu các sự 
lựa chọn đối với các nước về mô hình bảo hiện, một số nhà nghiên cứu cũng đã 
đề cập đến những thiết chế có tính chất tư vấn như các cơ quan quốc gia phụ 
trách quyền con người, Thanh tra nghị viện, các Ủy ban thông tin, Ủy ban bầu 
cử, Ủy ban về hiến pháp của nghị viện v.v Đây là thông tin đáng chú ý đối 
với Việt Nam, khi mà những băn khoăn như đã nói vẫn còn nhiều. 
Cuối cùng, dù theo mô hình nào thì mục đích cuối cùng của những cơ quan này 
là bảo vệ hiến pháp – đạo luật tối cao của đất nước; bảo đảm nhà nước pháp 
quyền. Tính tối thượng của hiến pháp không chỉ bao hàm sự tuân thủ của 
những nguồn luật pháp khác, mà còn của tất cả các nhánh khác của quyền lực 
nhà nước, trong đó có quyền lập pháp. Hoạt động bảo hiến dù với hình thức 
hiến định nào chăng nữa đều thực hiện những nhiệm vụ chung về bảo vệ hiến 
pháp: bảo đảm sự ổn định và tối cao của hiến pháp, sự tuân thủ những mối 
quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, bảo vệ những quyền và 
tự do hiến định của con người. 
121 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình Luật Hiến pháp nước ngoài, 
Công an nhân dân, Hà Nội; 
2. Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật Hiến pháp 
các nước tư bản, ĐHQG Hà Nội; 
3. Nguyễn Đăng Dung (2001), Luật Hiến pháp đối chiếu, Tổng hợp Tp. HCM. 
4. Lưu Đức Quang (2009), Chương trình và tài liệu môn học Luật Hiến pháp 
nước ngoài, Tài liệu lưu hành nội bộ, Tp. HCM; 
5. Vũ Hồng Anh (1997), Tổ chức và hoạt động của Chính phủ một số nước 
trên thế giới, Chính trị quốc gia (CTQG), Hà Nội; 
6. Vũ Hồng Anh (1997), Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới, CTQG, 
Hà Nội; 
7. Vũ Hồng Anh (2001), Tổ chức và hoạt động của Quốc hội một số nước trên 
thế giới, CTQG, Hà Nội; 
8. Nguyễn Đăng Dung (2004), Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của 
các cơ quan nhà nước, Tư pháp, Hà Nội; 
9. Michel Fromont (2006), Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Tư 
pháp, Hà Nội; 
10. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc 
tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Tư pháp, Hà Nội; 
11. Khoa luật Hành chính – Trường Đại học Luật Tp. HCM (1999), Báo cáo 
khoa học Đề tài cấp Bộ “Thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước các 
nước ASEAN”, Tp. HCM; 
12. Thang Văn Phúc – Nguyễn Đăng Thành (chủ biên) (2005), Một số lý thuyết 
và kinh nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới, CTQG, Hà Nội; 
122 
13. Đào Trí Úc – Nguyễn Như Phát (chủ biên) (2007), Tài phán Hiến pháp và 
vấn đề xây dựng mô hình tài phán Hiến pháp ở Việt Nam (Sách chuyên khảo), 
Công an nhân dân, Hà Nội; 
14. Văn phòng Quốc hội – Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (2005), 
Thiết chế Nghị viện: Những khái niệm cơ bản, Hà Nội; 
15. Viện Khoa học Chính trị (2000), Tập bài giảng Chính trị học, CTQG, Hà 
Nội. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_hien_phap_tu_san_dinh_van_liem_phan_2.pdf