Giáo trình Kỹ thuật khai thác thủy sản - Tập 1 - Hà Phước Hùng
Tóm tắt Giáo trình Kỹ thuật khai thác thủy sản - Tập 1 - Hà Phước Hùng: ...ng vàng lưới cụ thể. Thông thường phao lưới kéo được chọn là dạng phao cầu, đường kính từ 150-200 mm, nguyên liệu là nhựa hoặc thủy tinh tổng hợp. Số lượng phao thường từ 7-15 cái tuỳ theo qui mô lưới, bố trí dọc theo giềng phao. Chiều dài giềng phao thì bằng với chiều dài phía trên của miệng ...hường thấy ở biển (H 7.1). Giềng phao G ì iềng ch Tấm đăng làm bằng lưới Trụ dựng Đăng sậy Tấm đăng bằng tre, sậy H 7.1 - Các dạng tấm đăng 56 Yêu cầu của tấm đăng phải thỏa mãn các điều kiện sau: • Chiều dài tấm lưới đăng Chiều dài của tấm lưới đăng thì tùy thuộc vào độ rộng ch...i kéo là ở chổ lưới kéo thì có thêm phần cánh lưới, còn ở lưới đáy thì không nhất thiết phải có cánh lưới (H 9.1). - 54 Đụt lưới Thân lưới Cọc đáy Dây neo Dây thắt đụt Rượng H 9.1 - Cấu tạo của lưới đáy cọc - 55 • Chiều dài Chiều dài lưới đáy là chỉ tiêu quan trọng trong chế tạ...
iệm cho thấy sản lượng khai thác cao nhất là vào thời kỳ không trăng, giảm dần vào thời kỳ trăng thượng huyền và hạ huyền, và giảm nhiều nhất vào lúc trăng tròn. Nguyên nhân có thể giải thích như sau: Các tia sáng của ánh sáng trăng không chỉ tác dụng trên mặt nước mà chúng còn xuyên sâu vào trong lòng nước. Chính các tia ánh sáng trăng này đã làm giảm bán kính quyến rũ của nguồn sáng nhân tạo (bóng đèn). Nếu nguồn sáng càng đặt gần mặt nước thì ảnh hưởng của ánh sáng trăng càng lớn. Ngược lại, nếu đưa nguồn sáng vào càng sâu trong lòng nước thì ảnh hưởng của ánh sáng trăng sẽ giảm dần. Ta có thể thấy ảnh hưởng của ánh sáng trăng qua (Hình 10.1). H 10.1 - Bán kính quyến rũ của nguồn sáng khi có trăng - 65 Mặt khác, thí nghiệm của Niconorov (1951-1956) đối với đánh cá thu đao bằng lưới nâng hình chóp. Ông nhận thấy rằng sản lượng khai thác cao nhất nhận được là vào thời kỳ trăng non. Còn lúc trăng tròn thì sản lượng bị giảm đi 75%. Tuy nhiên, sự giảm sản lượng này còn tùy thuộc vào loại ngư cụ khai thác cá kết hợp ánh sáng. Ta có thể thấy sự giảm sản lượng qua (H 10.2). Tuy vậy, nếu đặt nguồn sáng càng xuống sâu trong lòng nước thì ảnh hưởng của ánh sáng trăng càng giảm đi. Thí nghiệm cho thấy, đối với ánh sáng trăng rằm, nếu ta cho lưới làm việc ở độ sâu hơn 45 mét thì ảnh hưởng của ánh sáng trăng xem như không đáng kể. Mặt khác, trong những đêm trăng, nếu có mây mù thì tác động của ánh sáng trăng đối với nguồn sáng cũng giảm đi, thuận lợi cho việc khai thác cá kết hợp ánh sáng. Ánh sáng ban ngày với cường độ bức xạ vô cùng lớn, tia sáng ban ngày có khả năng xuyên rất sâu vào trong lòng nước (đến 200 m), đã làm vô hiệu quá nguồn sáng nhân tạo nếu như chúng được thắp ban ngày. Do vậy việc khai thác kết hợp ánh sáng vào ban ngày là gần như không thể thực hiện được. Trăng non Trăng tròn 25 % 50 % 100 % Cá t í h Cá thu đ H 10.2 - Sản lượng giảm vào đêm trăng tròn • Ảnh hưởng do độ trong của nước đến tập tính cá trong vùng sáng Qua nghiên cứu, người ta nhận thấy độ trong của nước có ảnh hưởng lớn đến tập tính cá trong vùng sáng. Khi độ trong của nước kém thì sản lượng cá khai thác bị giảm rất nhiều, do bởi bán kính quyến rũ cá của nguồn sáng nhân tạo cũng bị giảm rất nhiều. Thí nghiệm của Niconorov đánh cá trích bằng bơm hút ở độ sâu 8,5m với độ trong từ (0,4 - 2,2) m, trong thời gian 2 giờ 20 phút, cho thấy sản lượng như sau (Bảng 10.1): Bảng 10.1 - Quan hệ giữa sản lượng theo độ trong của nước Độ trong (m) 0,4 - 0,6 1,1 - 1,9 ≥ 2,1 Sản lượng (Tạ) 0,35 1,6 14,7 Cũng qua thí nghiệm, người ta đã xây dựng được mối quan hệ giữa sản lượng đánh bắt và độ trong của nước theo công thức sau. 3 1 3 2 1 2 Z Z Q Q = - 66 Trong đó: Q 1 là sản lượng cá ứng với độ trong Z1. Q2 là sản lượng cá ứng với độ trong Z2. Thí dụ, nếu vùng A có Z1 = 2 m và vùng B có Z2 = 10 m, thì sản lượng 2 vùng chênh lệch nhau là: 125 2 10.. 3 3 13 1 3 2 12 === QZ ZQQ lần Q1. • Ảnh hưởng của nhiệt độ đến tập tính cá trong vùng sáng Nhiệt độ nước có ảnh hưởng đến tập tính cá trong vùng sáng. Người ta nhận thấy đa số cá nổi (sống tầng mặt) là loài thích nhiệt. Nhiệt độ thích hợp cho đa số loài là từ (6-28)oC, cụ thể là: Cá trích thường tập trung ở tầng nước có nhiệt độ từ (16,6 - 26)oC. Cá thu đao thường tập trung ở vùng nước có nhiệt độ từ (14 - 18)oC. Cá nục, cá cơm thường tập trung ở vùng nước có nhiệt độ từ (8 - 10)oC. Ngoài ra người ta còn thấy rằng, khi nhiệt độ thay đổi thì sự tập trung của cá quanh vùng sáng cũng biến động theo. Chẳng hạn, vào mùa hè và mùa thu cá thu đao thường thích sống ở tầng mặt, tập trung ở những nơi có bóng râm, nước mát. Nhưng vào mùa này thí cá trích lại thích tập trung ở độ sâu từ (20-45) m, nơi có nhiệt độ thích ứng là (8-12)oC. Đặc biệt, cá nục vào mùa đông lại thích tập trung thành đàn lớn ở độ sâu khoảng (30-40) m nước, nơi có nhiệt độ từ (8-10)oC. Cá cơm và một số loài cá khác, ở giai đoạn nhỏ thường có khả năng thích nghi với sự biến động của nhiệt độ hơn cá trưởng thành, chúng có thể sống cả tầng mặt và tầng đáy. Người ta nhận thấy ở những tầng nước nếu có sự biến động đột ngột về nhiệt độ thì cá trích không thích đến gần nguồn sáng, nhưng nếu nguồn sáng hạ thấp dần xuống sâu thì cá trích lại bơi theo nguồn sáng. Nhưng nếu tiếp tục hạ nguồn sáng xuống nữa đến nơi mà nhiệt độ không còn thích hợp chúng sẽ rời bỏ nguồn sáng. • Ảnh hưởng của dòng chảy và độ trôi dạt của tàu đến sự tập trung của cá quanh vùng sáng Tốc độ dòng chảy và sự trôi dạt của tàu có ảnh hưởng đến sự tập trung của cá quanh vùng sáng. Người ta nhận thấy rằng, cá thường tập trung ở những vùng nước tương đối yên tĩnh, dòng chảy yếu và có nhiều thức ăn. Người ta cũng nhận thấy, nếu ở khu vực chiếu sáng mà có tốc độ dòng chảy mạnh sẽ làm cho cá khó bám vào nguồn sáng. Người ta chứng minh được rằng, nếu tốc độ dòng chảy lớn hơn 0,35 m/s, thì hầu như ánh sáng không thể quyến rũ cá trích đến với nguồn sáng. - 67 Độ trôi dạt của tàu cũng ảnh hưởng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Khi tàu bị trôi dạt, nguồn sáng cũng bị trôi theo. Điều này sẽ gây khó khăn cho cá bám nguồn sáng, bởi nguồn sáng sẽ trôi dần ra khỏi khu vực sống thích hợp cho nó, cá không thể bám mãi theo nguồn sáng được. Thí nghiệm cho thấy, nếu độ trôi dạt là 0,07 m/s thì sản lượng khai thác sẽ giảm 23%. • Sự ảnh hưởng của sóng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng Sóng to, gió lớn sẽ làm cho tàu bị lắc lư (lắc ngang, lắc dọc), làm mất tính ổn định phương chiếu sáng của hệ thống đèn, phương chiếu sáng không đều, cá phải di chuyển liên tục theo nguồn sáng, khó tạo nên trạng thái say đèn đối với cá, cá có thể rời bỏ nguồn sáng. Mặt khác càng làm khó khăn thêm trong thao tác ngư cụ. Do vậy sản lượng khai thác bị giảm rất nhiều trong những lúc trời giông, biển động. Thí nghiệm đối với lưới nâng hình chóp cho thấy rằng, giả sử nếu sóng cấp 2, 3 có sản lượng khai thác là 100%, thì khi sóng lên cấp 4,5 sản lượng khai thác chỉ còn khoảng 55%. • Ảnh hưởng do sự xuất hiện của cá dữ trong vùng chiếu sáng Thực tế đánh bắt cho thấy nếu có sự xuất hiện của cá dữ trong vùng chiếu sáng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Cá cãm thấy sợ hải khi cá dữ đến gần, chúng chạy phân tán ra khỏi nguồn sáng. Nhưng nếu cá dữ bỏ đi, chúng sẽ tập trung trở lại nguồn sáng. 10.1.2 Mối quan hệ giữa đặc tính sinh học cá đến sự tập trung của cá trong vùng sáng Người ta nhận thấy các yếu tố sinh học của cá có sự ảnh hưởng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Cùng một loài cá, nhưng nếu ở các lứa tuổi khác nhau sẽ có phản ứng thích ứng khác nhau đối với nguồn sáng. Thí nghiệm cho thấy, đa số các loài cá đều thích đến nguồn sáng là những cá đang ở giai đoạn I và II trong chu kỳ phát dục của chúng, nhưng vào giai đoạn chuẩn bị đẻ thì chúng không thích nguồn sáng, sau khi cá đẽ xong thì phản ứng thích nguồn sáng trở lại bình thường. Độ no, đói của cá không có sự ảnh hưởng rõ ràng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Có quan điểm cho rằng cá đến nguồn sáng có thể là do bị đói, chúng muốn tìm thức ăn, nhưng thực tế khảo sát cho thấy, có rất nhiều loài cá khi đến nguồn sáng còn đang ở trạng thái còn rất no. Từ nghiên cứu các ảnh hưởng nói trên cho chúng ta nhận định rằng, để đảm bảo khả năng khai thác đạt được sản lượng cao, ta nên chú ý đến tất cả các yếu tố môi trường và sinh học của cá khi đánh bắt cá kết hợp ánh sáng. - 68 10.2 Một số ngư cụ khai thác cá kết hợp ánh sáng 10.2.1 Nghề lưới đăng kết hợp ánh sáng Ta có sơ đồ khai thác lưới đăng kết hợp ánh sáng sau (H 10.3). Xuồng đèn H 10.3 - Hệ thống bố trí đèn trong lưới đăng Tuyến sáng • Lắp đặt chuồng và thiết bị phục vụ cho khai thác lưới đăng kết hợp ánh sáng Trước hết ta phải lắp đặt chuồng lưới đăng. Gần tương tự khai thác lưới đăng thông thường, chuồng lưới đăng kết hợp ánh sáng phải được đặt ở những nơi có nhiều cá qua lại (hoặc theo mùa vụ). Vị trí chuồng phải thuận lợi cho việc khai thác, bố trí các trang thiết bị và không gây cản trở cho các phương tiện khác đi lại. Ngưới ta sử dụng 8-10 xuồng đèn. trên mỗi xuồng có lắp đặt các đèn khí (đèn măng sông) hoặc đèn điện 1 chiều và phải có tàu làm phương tiện vận chuyển cá và là nơi ăn ở tạm thời của ngư dân. • Kỹ thuật khai thác lưới đăng kết hợp ánh sáng Trước hết cho các xuồng đèn làm việc, thắp sáng gần xung quanh khu vực đặt chuồng lưới đăng. Sau thời gian từ 1-3 giờ, khi thấy mật độ cá tập trung tương đối cao quanh các xuồng đèn thì cho các xuồng đèn di chuyển chậm vào khu vực cửa chuồng, tránh gây nào động làm cá có thể hoảng hoạn rời bỏ xuồng đèn. Tiếp đến tắt tất cả đèn ở các xuồng, chỉ để lại đèn ở một xuồng đèn, cá sẽ tự động di chuyển, gom về xuồng đèn này. Sau đó đưa xuồng có đèn đi vào cửa chuồng, rồi đóng cửa chuồng lại, tiến hành dở tấm lưới đáy chuồng, dồn cá về một góc, rồi bắt cá. Những năm gần đây người ta thường kết hợp khai thác lưới đăng với nguồn sáng điện. Người ta thường dùng máy phát diện 110 volt để thắp một tuyến sáng từ chuồng ra ngoài khu vực chung quanh. Đèn được thả ngầm xuống nước ở độ sâu khoảng 1,5 m. Khi cá tập trung tương đối nhiều ở quanh các đèn, thì điều khiển hệ thống chiếu sáng sao cho tắt lần lượt các đèn từ xa trước, cá sẽ gom lại đèn kế bên, gần cửa chuồng hơn. Tiếp tục làm như thế cá sẽ tự động gom về cửa chuồng. Khi cá đã đến cửa - 69 chuồng ta tắt nốt đèn cửa chuồng, cá sẽ đi vào đèn đã bố trí trong chuồng. Tiếp đó đóng cửa chuồng và thu bắt cá. Ưu điểm của khai thác lưới đăng kết hợp với tuyến sáng là giúp ta có thể tự động hoá dễ dàng khâu thắp sáng và có thể hoạt động trong những lúc sóng to, gió lớn mà khi đó xuồng đèn khó hoạt động, đồng thời giảm được nhu cầu nhân lực phục vụ khai thác lưới đăng kết hợp ánh sáng. Tuy nhiên, việc khai thác lưới đăng kết hợp tuyến sáng đòi hỏi phải có vốn lớn để trang bị các phương tiện, trang thiết bị phục vụ khai thác và an toàn lao động khi nguồn điện hoạt động. 10.2.2 Nghề lưới vây kết hợp ánh sáng Nghề lưới vây kết hợp ánh sáng phát triển ở ĐBSCL bắt đầu từ những năm 80, nhưng hiện nay nó là nghề phổ biến của tất cả các tỉnh ven biển trong khu vực này. Hiệu quả khai thác cao, do bởi lưới vây kết hợp ánh sáng đã đáp ứng được 2 yêu cầu cơ bản trong khai thác lưới vây, là: - Đã tập trung cá lại thành đàn lớn. - Làm giảm được tốc độ di chuyển của cá. • Phương tiện và trang thiết bị khai thác lưới vây kết hợp ánh sáng. Tương tự như nghề khai thác lưới vây thông thường cũng bao gồm tàu, vàng lưới vây, các trang bị phụ trợ khác. Tuy nhiên, lưới vây đánh cá kết hợp ánh sáng còn cần phải có máy phát điện, hệ thống chiếu sáng và bảng phân phối điện. Lưới vây đánh cá kết hợp ánh sáng ở ĐBSCL trang bị máy phát điện từ 10-15 KW, đủ thắp sáng khoảng 150 bóng đèn néon loại 1,2 m và 5-10 bóng cao áp thủy ngân loại từ 250-500 W. Ta có thể thấy sự bố trí hệ thống chiếu sáng trên các tàu lưới vây kết hợp ánh sáng qua sơ đồ sau (H 10.4). H 10.4 - Hệ thống chiếu sáng trên tàu lưới vây kết hợp ánh sáng Bè đèn - 70 • Kỹ thuật khai thác lơi vây kết hợp ánh sáng a. Thắp đèn Trong khai thác lưới vây kết hợp ánh sáng, để đạt được hiệu quả nhất là chọn đúng nơi thắp đèn và thời gian thắp đèn. • Nơi thắp đèn Yêu cầu đối với nơi thắp đèn cần thỏa mãn các điều kiện sau: - Phải có nhiều cá, tôm,... thích ánh sáng thường xuất hiện trong khu vực định thắp sáng. - Dòng chảy nhẹ, tàu ít lắc và trôi dạt (có thể dùng neo để cố định tàu lại). - Ít chướng ngại vật dưới nền đáy (nếu khai thác ở vùng biển cạn) và không bị ảnh hưởng bởi tàu bè đi lại. • Thời gian thắp đèn Thời gian thắp đèn cũng là thời gian lôi cuốn cá đến vùng sáng, thường từ 3-6 giờ (từ lúc chập tối đến 12 khuya). Trong thời gian thắp đèn nên chú ý đến các hoạt động chiếu sáng của hệ thống đèn, tình hình sóng gió, sự xuất hiện của cá dữ trong vùng chiếu sáng,... mà có biện pháp xử lý thích hợp. Khi thấy cá đã tập trung nhiều vào vùng chiếu sáng hoặc cá đang trong tình trạng say đèn thì có thể tiến hành bủa lưới đánh bắt. b. Thả lưới Trước khi thả lưới ta phải tắt tất cả hệ thống đèn chiếu sáng trên tàu, chỉ để lại đèn ở bè đèn. Tiếp đến thu neo (nếu có thả neo), đồng thời nới dài dây bè đèn cách tàu với khoảng cách bằng bán kính quay trở của tàu, cá sẽ tự động bu lại bè đèn. Sau đó cho tàu chạy vòng tròn với bán kính quay trở thích hợp với chiều dài sẳn có của vàng lưới vây trên tàu. Chú ý là thời gian thả lưới phải cho nhanh và tránh cá bị xáo động có thể rời khỏi bè đèn. Sau khi thả lưới xong thì tiến hành thu lưới, bắt cá nhanh. c. Thu lưới và bắt cá Công việc thu lưới và bắt cá cũng tương tự như lưới vây thông thường. Nhưng trước khi cuộn rút thu cáp ta vẫn phải để bè đèn trong nước. Khi bắt đầu thu cáp thì kéo bè đèn lại và đem lên tàu, sau đó mới thu lưới. d. Chuẩn bị mẻ khai thác tiếp theo Công việc khai thác mẻ tiếp theo cũng có các bước tương tự như mẻ trước, nghĩa là cũng bao gồm các bước thắp (chong) đèn, thả lưới thu lưới và bắt cá. Tuy nhiên, địa điểm khai thác có thể thực hiện tại vị trí trước hoặc chuyển đến địa điểm mới. Điều này tùy thuộc vào sản lượng khai thác của mẻ trước, hoặc là tình hình sóng gió, thời tiết sẽ có trong mẽ dự định khai thác tiếp theo, thời gian chong đèn của mẽ trước là dài - 71 hay ngắn, thời điểm xuất hiện của trăng trên bầu trời (còn tối trời hay sắp sáng),... mà quyết định có nên khai thác tiếp nữa hay không. Thực tế đánh bắt lưới vây kết hợp ánh sáng ở ĐBSCL thường có sự kết hợp khai thác giữa 1 tàu mẹ và từ 1-2 tàu con (không có lưới, chỉ có hệ thống chiếu sáng). Tàu con làm nhiệm vụ chong đèn ở khu vực không quá xa tàu mẹ, tàu con có thể chong đèn chậm hơn tàu mẹ một thời gian nhất định. Khi tàu mẹ khai thác của phần mình xong sẽ chạy đến bủa lưới quanh tàu con. Sau khi tàu mẹ bủa lưới xong, tàu con nhanh chóng khỏi khu vực bao vây để tàu mẹ tiến hành thu lưới bắt cá. 10.2.3 Nghề vó kết hợp ánh sáng Ở những nước có nghề đánh bắt cá tiên tiến như Nhật Bản, Nga,... nghề khai thác lưới vó kết hợp ánh sáng thường được áp dụng trên các tàu cỡ nhỏ, có công suất máy từ (50-120) CV. Đây là loại hình khai thác khá hiệu quả, bởi vốn đầu tư thấp, dễ áp dụng kỹ thuật và rất cơ động. Đèn Xanh Đèn đỏ Đèn xanh để dụ cá, đèn đỏ để gom cá Thu lưới và xúc cá 10.5 - Hệ thống khai thác lưới vó mạn tàu a. Trang bị Trên tàu khai thác lưới vó kết hợp ánh sáng thường có trang bị từ 1-2 vàng lưới vó, máy phát điện, hệ thống chiếu sáng bảng điều khiển hệ thống điện, tời nâng hạ lưới vó,... Cụ thể đối với tàu khai thác cá thu đao, có hệ thống chiếu sáng như (H 10.5): - Hệ thống đèn pha có công suất từ 500-1500 W, dùng để dò tìm, phát hiện ra khu vực có cá. - Hệ thống đèn xanh có công suất 500W, tạo thành từng cụm, được dùng để lôi cuốn cá đến vùng sáng. - Hệ thống đèn đỏ để tập trung cá đến chổ đặt lưới. b. Cấu tạo lưới vó Lưới vó mạn tàu có cấu tạo dạng hình chữ nhật. Chiều dài lưới vó mạn tàu tùy thuộc vào chiều dài của tàu, với tỷ lệ: 0.8 L (L là chiều dài thân tàu). - 72 Nhìn chung chiều dài giềng trên và giềng dưới bằng nhau. Ở giềng trên được lắp ráp với sào nổi bằng tre, có chiều dài từ (8-15) m. Tác dụng của sào nổi là làm cho giềng trên nổi lên trên mặt nước. Để định hình miệng lưới, người ta lắp 2 sào chống có chiều dài (8-12) m. Một đầu được buộc chặc vào sào nổi, một đầu gắn với thân tàu. Giềng dưới của vó mạn tàu được lắp các chì nhỏ có trọng lương 15 g/viên x 90 viên. Ngoài ra còn lắp thêm 5-6 viên chì lớn có trọng lượng 25 g/viên vào những chổ có dây kéo thu giềng dưới. Ở 2 giềng hông được lắp các vòng khuyên. dây cáp rút được luồng qua hệ thống vòng khuyên để giúp thu lưới. c. Kỹ thuật khai thác cá thu đao bằng lưới vó mạn tàu kết hợp ánh sáng Đầu tiên cho tàu chạy nhanh đến khu vực có nhiều cá thu đao thường xuất hiện, sau đó giảm dần tốc độ để dò tìm cá. Khi phát hiện ra nơi có cá thì chạy chậm lại và cho mũi tàu trôi ngược với chiều gió. Khi này bật tất cả các đèn của hệ thống đèn xanh ở mạn không có lưới (mạn lôi cuốn cá) để thu hút cá đến gần tàu. Trong khi cá đang bắt đầu tập trung cao ở mạn đèn xanh, thì ở mạn làm việc (mạn có đặt lưới vó) bắt đầu thả lưới vó đến độ sâu cần thiết. Tiếp đến tắt tất cả hệ thống đèn xanh, đồng thời bật hệ thống đèn đỏ ở mạn làm việc, cá sẽ từ mạn đèn xanh chuyển dần sang mạn đèn đỏ. Khi cá đã chuyển hết sang mạn làm việc, ta tiến hành thu lưới. Để thu lưới, trước hết ta thu đồng loạt: giềng chì lên khỏi mắt nước; thu ngắn sào chống lại, thu 2 giềng hông ngắn lại để tạo thành túi lưới, cá sẽ bị giữ lại trong lưới, sau đó tiến hành bắt cá. Để bắt cá, ta có thể dùng vợt hoặc bơm hút (nếu cá nhiều và nhỏ). Sau khi bắt cá xong ta tiến hành khai thác mẽ tiếp theo. 10.2.4 Nghề câu mực Nghề câu mực ở ĐBSCL tập trung nhiều nhất ở các đảo Phú Quốc, Nam Du, Côn Sơn. Những năm gần đây các tỉnh ven biển ĐBSCL đều có các đội tàu câu mực tập trung về vùng Côn Sơn để khai thác đối tượng này. a. Trang bị Bộ phận chính của câu mực là ống câu (bao gồm dây câu) và đèn thắp sáng để lôi cuốn mực đến vùng sáng. • Dây câu bằng cước, dài 20-30 m, đường kính 1,0-1,2 mm. Mỗi dây câu có thể buộc từ 1-3 lưỡi câu, cách nhau 2-3 m và có thể buộc kết hợp thêm với các chùm vãi kim tuyến. • Lưỡi câu mực thường là loại lưỡi kép, không ngạnh, nhưng rất sắc, rất dễ móc vào đầu hoặc thân mực khi giựt dây câu. - 73 • Nguồn sáng, thường là đèn măng-sông (nếu câu riêng rẽ trên các thúng câu hoặc xuồng nhỏ) hoặc từ ánh sáng điện nếu câu tập thể trên tàu thuyền lớn. • Vợt xúc mực làm bằng lưới cước, có cán dài 50-100 cm. Độ sâu túi vợt khoảng từ 100-150 cm, đủ để giữ không cho mực thoát trở ra miệng lưới. b. Kỹ Thuật câu mực Kỹ thuật câu mực, bao gồm: Chọn nơi khai thác, thắp đèn và kỹ thuật câu mưc. • Chọn nơi khai thác Ngư trường khai thác mực là những nơi có nền đáy cát pha vỏ nhuyễn thể. Nơi có nhiều nguồn thức ăn cho mực. Độ sâu từ 10-25 m nước. Độ trong từ 1-2 m. Dòng chảy nhẹ. • Thắp đèn Đèn được thắp trước khi câu ít nhất 15 phút để mực phát hiện ra nguồn sáng và tập trung vào vùng phát sáng. Khi thấy mực tập trung khá nhiều thì ta tiến hành thả câu. • Kỹ thuật câu có mồi Mồi được móc vào lưỡi câu, rồi thả xuống đến sát nền đáy. Sau đó một tay vừa thu dây câu, một tay kia giựt dây câu chạy lên, chạy xuống để mực phát hiện ra mồi, mực sẽ bám theo mồi để ăn và bị vướng lưỡi câu. Mồi câu có thể là các loại cá chết, mực, rắn,... dạng còn tươi. Nếu câu hết mồi ta có thể lấy mực mà ta đã câu được để làm mồi câu tiếp. • Kỹ thuật câu không mồi Trước hết các chùm vãi kim tuyến được buộc gần các lưỡi câu. Tiếp đó thả dây câu, ta vừa thu dây, vừa di động dây lên xuống. Khi này nếu mực phát hiện ra chùm vãi kim tuyến sẽ bu bám vào vãi và bị mắc bởi lưỡi câu. Nếu không có lưỡi, mực sẽ tiếp tục đeo bám dần lên tới mặt nước, khi này ta nhanh chóng dùng vợt để xúc mực. Chú ý là khi ta xúc mực ta phải lựa thế xúc từ đuôi, bởi vì khi mực phát hiện ra nguy cơ bị bắt, chúng sẽ lùi mạnh ra sau và bị lọt vào túi vợt. - 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO Bùi Như Khuê, và Phạm Á, 1978. Dây Sợi Lưới Tổng Hợp Dùng Trong Nghề Cá- NXB.Nông Nghiệp. F.A.O, 1985. Fishing Method of The World. 1245 pp Friman, A. L., (1992). Calculations for fishing gear designs. Fishing News Books. University Press, Cambridge. 241pp. Ngô Đình Chùy (1881). Giáo Trình Nguyên Lý Tính Toán Ngư Cụ. Đại Học Thủy Sản Nha Trang. Nguyễn Văn Điển, 1978. Vật Liệu và Công Nghệ Chế Tạo Lưới - NXB Nông Nghiệp. 145pp Nguyễn Thiết Hùng (1982). Giáo Trình Thiết kế lưới Kéo. Đại Học Thủy Sản Nha Trang. Nédélec, 1982. Classification of Fishing gears. 45 pp Niconorov, 1978. Đánh bắt cá bằng ánh sáng (tài liệu dịch). NXB Nông Nghiệp. 112pp
File đính kèm:
- giao_trinh_ky_thuat_khai_thac_thuy_san_tap_1_ha_phuoc_hung.pdf