Giáo trình Kỹ thuật khai thác thủy sản - Tập 2 - Hà Phước Hùng

Tóm tắt Giáo trình Kỹ thuật khai thác thủy sản - Tập 2 - Hà Phước Hùng: ... tạp là một công việc rắc rối và tốn nhiều công sức. Trước hết, cần phải có đồng dạng về hình học giữa mô hình và nguyên mẫu; điều kiện này chỉ thỏa mãn nếu như mô hình được làm đúng như nguyên mẫu. Thứ hai, các đặc trưng cơ học về tính vận động của mô hình cũng cần phải tương tự nguyên mẫu.... tùng liên quan đến nó được phân thành 5 giai đoạn và có thể chồng lắp nhau. Đó là: 1. Các nhận định và đánh giá (xác định các cần thiết cho ngư cụ mới); 2. Lên kế hoạch các yêu cầu kỹ thuật thoả mãn các yêu cầu thiết kế mới; 3. Chuẩn bị cho thiết kế khái niệm hoặc thiết kế ban đầu; 4. Phá...á hay chưa. Do vậy, để đánh bắt lưới kéo tầng giữa thì yêu cầu trên tàu nhất thiết phải có trang bị máy dò cá nhằm phát hiện được đàn cá và xác định đúng vị trí của nó. Ngoài ra còn cần phải có phải quan sát cá ở miệng lưới để xác nhận cá có vào lưới hay không. + Kỹ thuật khai thác lưới kéo ...

pdf156 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 366 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Kỹ thuật khai thác thủy sản - Tập 2 - Hà Phước Hùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g 
Chuồng lưới đăng là nơi giữ cá, chứa cá và hướng cá vào lọp . Chuồng lưới có 
dạng hình chữ nhật hoặc hình đa giác. Yêu cầu đối với chuồng lưới đăng là phải có 
diện tích vừa đủ, không được quá nhỏ hoặc quá lớn, bởi vì nếu quá nhỏ sẽ làm cho cá 
cãm thấy chật chội cá có thể tìm cách thoát ra ngoài, nếu quá lớn sẽ khó thu việc thu 
gom hoặc khó hướng cá vào lọp. 
Giềng phao 
Giềng chì 
Tấm đăng làm bằng lưới. 
Trụ dựng 
Đăng sậy 
Tấm đăng bằng tre, sậy. 
 144
Độ cao của chuồng cũng tính từ sát nền đáy đến bề mặt nước có dự phòng từ 10-
20% độ cao khi triều cường cao nhất. Ta có các dạng chuồng sau: 
7.3.3. Lọp 
Lọp là nơi chứa cá và bắt cá. Lọp được đạt ở các hông chuồng hoặc cuối dãy lưới 
đăng nếu không chuồng. Lọp lưới đăng thường làm bằng tre hoặc được bao bọc lưới. 
Lọp có dạng hình hộp, hình ống hoặc hình trụ. Yêu cầu đối với lọp là phải bền, 
chắc, không để cho cá có thể phá lọp ra ngoài. 
7.4 KỸ THUẬT KHAI THÁC LƯỚI ĐĂNG 
Lưới Đăng thường được đánh bắt mang tính mùa vụ nên kỹ thuật khai thác lưới 
Đăng thường được phân thành 2 giai đoạn: 
• Giai đoạn 1: Lắp đặt chuồng lưới Đăng 
• Giai đoạn 2: Khai thác lưới Đăng 
7.4.1 Lắp đặt chuồng lưới đăng 
Do bởi lưới Đăng khai thác theo mùa vụ, nên trước khi bắt đầu đến thời kỳ khai 
thác, việc lắp đặt chuồng lưới Đăng đều được chuẩn bị, tu bổ, sửa chữa, lắp đặt lại, 
nhằm đãm bảo hiệu suất khai thác cao nhất cho lưới Đăng . Công việc lắp đặt lưới 
Đăng gồm 2 bước sau: 
- Bước thứ nhất: Chọn nơi đặt Đăng 
- Bước thứ hai: Lắp đặt tấm đăng dẫn cá và chuồng 
7.4.1.1 Chọn nơi đặt Đăng 
Chọn nơi đặt lưới Đăng là việc đầu tiên mà người đầu tư khai thác lưới Đăng cần 
tính đến trước tiên, bởi vì nó quyết định đến hiệu quả đánh bắt lưới đăng và các quan 
hệ kinh tế - xã hội xung quanh khu vực khai thác lưới Đăng. Do vậy yêu cầu của nơi 
đặt đăng cần phải thỏa mãn các điều kiện sau: 
- Phải có nhiều cá qua lại theo từng mùa vụ hoặc quanh năm. 
- Nền đáy phải tương đối bằng phẳng, độ dốc nền đáy phải nhỏ. 
Chuồng dạng chữ nhật Chuồng dạng đáy dốc có chuồng phu 
Lưới cánh Cổng được 
nâng lên 
 145
- Phải ít bị ảnh hưởng bởi sóng, gió, tốc độ dòng chảy trung bình và độ sâu 
không quá lớn. 
- Phải thuận tiện cho việc vận chuyển cá và không gây cản trở cho tàu bè đi lại. 
7.4.1.2 Lắp đặt tấm đăng dẫn cá và chuồng lưới Đăng 
Việc đầu tiên là trước hết ta cần lắp đặt tấm đăng dẵn cá, rồi sau đó mới lắp đặt 
chuồng lưới Đăng. 
• Chọn hướng và đặt tấm đăng dẫn cá 
Để lắp đặt tấm đăng dẫn cá ta nên lắp từ trong cạn (bờ) ra sâu. Trước hết ta cần 
cắm các cọc để định hướng cho tấm đăng (nếu là đăng tre, sậy) hoặc căng định hướng 
dây giềng phao (nếu là tấm đăng làm bằng lưới). Các cọc cần phải cắm sâu xuống đất 
và được các dây chằng, neo cố định lại cho vững chắc. 
Trong việc chọn hướng cho tấm đăng dẫn cá ta cần nghiên cứu kỹ qui luật di 
chuyển của cá mà chọn hướng cho phù hợp. Kinh nghiệm người ta thấy rằng khi cá 
đang đi theo một hướng nào đó, nếu bất ngờ bị tấm đăng dẫn cá chặn lại, khi đó cá có 
khuynh hướng di chuyển ra vùng nước sâu. Do vậy ta nên chọn phương đặt tấm đăng 
nên hợp với phương di chuyển của cá một góc 120o nếu cá chỉ đi theo một chiều, hoặc 
90o nếu cá đi hai chiều, theo sơ đồ sau: 
• Lắp đặt chuồng lưới đăng. 
Sau khi đã lắp xong tấm đăng dẫn cá, ta tiến hành lắp đặt chuồng. Chuồng lưới 
đăng phải nằm ở vị trí cuối cùng mà tấm đăng dẫn tới, thường là nơi có độ sâu lớn và 
không bị ảnh hưởng bởi tàu bè đi lại. 
Tương tự như lắp tấm đăng dẫn cá, trước hết để lắp đặt chuồng lưới đăng ta cũng 
phải cắm các cọc để định hình kiểu chuồng. Tiếp theo ta lắp các tấm lưới hoặc các 
đăng tre (sậy) để bao bọc chuồng lại. Ta chừa các kẽ hở để lắp lưới cánh gà và lọp. 
Hướng cá 
quay trở 
Hướng cá 
quay trở 
Bờ Bờ 
 146
Chú ý là không nên để khoảng khe hở giữa 2 lưới cánh gà quá lớn, cá có thể sẽ 
đi ngược được trở ra ngoài. 
7.4.2. Kỹ thuật khai thác lưới Đăng 
Kỹ thuật đánh bắt lưới Đăng cũng tương đối đơn giản, bao gồm hai giai đoạn: 
- Giai đoạn một: Giai đoạn lôi cuốn và dẫn cá vào chuồng. 
- Giai đoạn hai: Giai đoạn dóng cửa chuồng và bắt cá. 
7.4.2.1. Giai đoạn lôi cuốn và dẫn cá vào chuồng. 
Giai đoạn này ta gần như không làm gì cả, chỉ việc ngồi chờ đàn cá di chuyển đến 
đụng tường tấm đăng dẫn dắt rồi cá tự chuyển hướng để đi đến chuồng. Tuy vậy trong 
thời gian này ta cũng nên chú ý đến sự đi lại của tàu bè khác gần khu vực mà ta đang 
đặt đăng và chuồng nhằm báo hiệu cho họ biết là ta đang khai thác lưới Đăng. 
Thời gian lôi cuốn cá và dẫn cá vào chuồng thì phụ thuộc vào chu kỳ con nước lớn 
ròng, hay thời điểm đàn cá đi vào chuồng hoặc khoảng thời gian cần thiết đủ để mật độ 
cá tập trung trong chuồng cao. Do vậy thời gian lôi cuốn cá và dẫn cá vào chuồng là 
do kinh nghiệm và điều kiện thực tế ở khu vực khai thác mà ta quyết định bao lâu là 
vừa. 
Để hướng cá đi vào chuồng, ta có 2 cách: 
• Cá tự động đi vào chuồng. 
Trường hợp này là cá khi gặp đi đến tường lưới đăng dẫn cá, cá sẽ tự chuyển 
hướng, men theo tường lưới dẫn cá đi vào giữa 2 lưới cánh gà, rồi vào sân chuồng, bị 
giữ lại ở lọp. 
• Cá được dẫn vào chuồng bởi nguồn sáng. 
Trong thực tế đánh bắt thường thấy ở vùng ven biển, để giảm thơi gian chờ đợi cá 
đi vào chuồng, người ta thường kết hợp với nguồn sáng để lôi cuốn cá, dẫn dắt đưa cá 
vào chuồng. 
Nguồn sáng ở đây có thể là nguồn sáng do các xuồng đèn măng-sông được thắp 
sáng quanh khu vực đặt chuồng lưới Đăng (H 7.1), hoặc nguồn sáng do bởi sự phát 
sáng của các bóng đèn thả trong nước, được định kỳ cháy, tắt lần lượt từ ngoài vào 
trong chuồng lưới Đăng, cá bị nguồn sáng hấp dẫn sẻ tự động đi vào chuồng (H 7.2). 
 Ta có thể thấy sự bố trí các nguồn sáng theo 2 theo sơ đồ dưới đây: 
 147
H 7.2 - Nguồn sáng bằng hệ thống điện 
7.4.2.2. Thu lưới và bắt cá. 
Sau thời gian nhất định, khi thấy cá đi vào sân chuồng khá nhiều ta bắt đầu đóng 
chặn cửa chuồng lại, nâng tấm lưới ở đáy sân chuồng, dồn cá vào một góc và tìm cách 
thu cá. Ta có thể dùng vợt để xúc cá (nếu cá lớn) hoặc dùng bơm hút (nếu cá nhỏ và 
nhiều). Nếu không có tấm lưới đáy sân chuồng ta phải tìm cách xua đuổi cá chạy vào 
lọp rồi tháo dở lọp bắt cá. Sau khi thu cá xong, chuyển cá lên xuồng vận chuyển, rồi 
đưa cá vào bờ. Đồng thời chuẩn bị mẻ khai thác tiếp theo. 
-------------------------------------------------- 
H 7.1. Nguồn sáng bằng đèn măng-sông 
Tuyến sáng 
Bóng đèn 
 148
CHƯƠNG 8. 
NGHỀ LƯỚI ĐÁY 
8.1 NGUYÊN LÝ ĐÁNH BẮT 
“Lưới đáy đánh bắt theo nguyên lý lọc nước bắt cá. Cá bị lùa vào lưới dưới 
tác dụng của dòng chảy và bị giữ lại ở đụt lưới” 
8.2 PHÂN LOẠI LƯỚI ĐÁY 
Theo khu vực Theo cấu tạo Theo đối tượng 
khai thác 
Theo số miệng lưới 
• Lưới Đáy sông 
• Lưới Đáy biển 
• Lưới Đáy cọc 
• Lưới Đáy neo 
• Lưới Đáy bè 
• Lưới Đáy cá 
• Lưới Đáy tôm
• Lưới Đáy 1 miệng 
• Lưới Đáy nhiều 
miệng 
8.3 CẤU TẠO LƯỚI ĐÁY 
Nhìn tổng thể, lưới Đáy có cấu tạo gần tương tự như lưới Kéo. Tuy vậy, sự khác 
biệt giữa lưới Đáy và lưới Kéo là ở chổ lưới kéo thì có thêm phần cánh lưới, còn ở 
lưới Đáy thì không nhất thiết phải có cánh lưới. 
• Chiều dài 
Chiều dài lưới đáy là chỉ tiêu quan trọng trong chế tạo lưới đáy, bởi lưới đáy không 
chỉ phụ thuộc vào đối tượng khai thác, mà còn phụ thuộc vào tốc độ dòng chảy ở khu 
Đụt lưới 
Thân lưới Cọc đáy 
Dây neo 
Dây thắt đụt 
Lưới đáy được cố định bằng 2 cọc đáy 
 149
vực đặt lưới Đáy. Do vậy khi thiết kế chiều dài lưới Đáy người ta phải dự đoán trước 
tốc độ dòng chảy sao cho dưới tác động của mỗi tốc độ dòng chảy nào đó, chiều dài 
lưới Đáy phải đủ dài để một khi cá, tôm đã vào lưới rồi thì khó có khả năng thoát 
ngược trở ra miệng lưới. Thông thường lưới Đáy được thiết kế có chiều dài từ 40-50 
m. 
• Chiều cao 
Việc xác định chiều cao lưới Đáy tùy thuộc vào độ sâu và độ dầy của đối tượng 
khai thác hoạt động (cá, tôm,... đi sát nền đáy hay lừng), mà ta chọn chiều cao miệng 
lưới sao cho hứng được thật nhiều cá khi chúng bị nước lùa vào. Tuy vậy việc chọn 
chiều cao quá lớn sẽ ảnh hưởng đến sức chịu lực của lưới và cọc, dễ gây sự cố cho lưới 
và cọc. Trong thực tế đánh bắt chiều cao miệng lưới đáy thường từ 2-5m. 
• Độ mở ngang miệng lưới Đáy 
Độ mở ngang của miệng lưới Đáy là khoảng cách giữa hai đầu cọc Đáy. Tùy theo 
độ rộng của khu vực khai thác, sức chịu lực của cọc đáy (hay neo) và tốc độ dòng chảy 
mà chọn độ mở ngang thích hợp. Thông thường độ mở ngang cho mỗi miệng lưới Đáy 
là từ (10-30) mét. 
• Thân lưới 
Thân lưới Đáy là phần giữ, lùa và hướng cá vào đụt. Do đánh bắt tương đối thụ 
động và phụ thuộc vào tốc độ dòng chảy, nên chiều dài thân được yêu cầu phải đãm 
bảo cá ít có khả năng vượt thoát ngược trở lại ra miệng lưới Đáy. Do vậy người ta thiết 
kế thân lưới Đáy có chiều dài chiếm tỷ lệ khá lớn so với chiều dài vàng lưới, thường 
gần một nữa chiều dài vàng lưới đáy, thực tế từ (20-25)m. 
Tương tự như lưới Kéo, kích thước mắt lưới Đáy cho phần thân lưới Đáy, ath, 
thường được chọn lớn hơn kích thước mắt lưới phần đụt lưới Đáy, ađ, nhằm làm giảm 
lực cản cho lưới và tiết kiệm nguyên vật liệu, nhưng cũng không được lớn hơn diện 
tích mặt cắt ngang của cá. 
Thông thường mắt lưới thân được tăng dần từ phần gần đụt ra tới miệng lưới theo 
tỉ lệ 25% và độ thô chỉ lưới thì ngược lại, nghĩa là: 
ath > ađ và dth > dđ 
 Tuy nhiên ở một số lưới đáy đơn giản người ta thường chọn kích thước và độ 
thô chỉ lưới ở tất cả các phần là như nhau, thường là a = 1 mm. 
• Đụt lưới Đáy và Rọ 
Đụt lưới Đáy là phần giữ cá và bắt cá. Thực tế người ta nhận thấy rằng một đối 
tượng đánh bắt nào đó (cá, tôm,..) một khi đã vào đến phần đụt thì có xu hướng tìm 
cách thoát ra mạnh nhất, do vậy yêu cầu khi chọn kích thước mắt lưới đụt phải đảm 
bảo sao cho cá không thể chui ra khỏi mắt lưới và cũng không được đóng dính vào mắt 
lưới. 
Mặt khác, vì đụt là phần quan trọng nhất làm ra sản lượng, cho nên độ thô chỉ lưới 
cho phần đụt cũng cần phải đãm bảo độ bền chắc để ngừa trường hợp cá phá lưới hoặc 
 150
sản lượng đánh bắt được quá nhiều cò thể làm rách đụt. Ở một số lưới đáy để tăng 
cường cho đụt lưới thường người ta lắp thêm bên ngoài đụt lưới bởi một áo bao đụt. 
Rọ là dụng cụ chứa cá được 
lắp đặt thêm vào phần cuối đụt 
(có khi có khi không), Rọ được 
làm bằng tre, có dạng hình trụ, 
có nắp mở trên thân Rọ. Khi thu 
cá chỉ cần kéo Rọ lên và mở nắp 
Rọ trút cá ra. 
• Cọc, Neo và Bè lưới Đáy. 
Lưới Đáy là ngư cụ cố định nên Cọc (hoặc Neo hoặc Be)ì là những những công cụ 
cần thiết để ổn định vị trí và hình dạng của miệng lưới đáy. Tùy theo khu vực, độ sâu, 
tốc độ dòng chảy mà ngưới ta lắp lưới đáy vào cọc hoặc neo hoặc bè. Do đó mà lưới 
Đáy được gọi theo nhiều tên gọi khác nhau: Lưới Đáy cọc (H 8.11); Lưới Đáy neo (H 
8.2); Lưới Đáy bè (H 8.3). 
• Cọc lưới đáy (H.1) 
Cọc sử dụng trong lưới đáy thường được áp dụng ở những nơi có độ sâu tương đối 
nhỏ (cạn), dưới 10m. Nguyên liệu làm Cọc lưới đáy thường là những cây thẳng, dài 
(thường bằng gỗ Dưà, Cau, Bạch đàn,...) có độ dẽo cao và chịu được nước. Đôi khi 
người ta còn làm cọc bằng xi măng dạng cột tròn hoặc cột vuông. Yêu cầu đối với cọc 
xi măng là phải chịu được sự phá hủy của nước. 
Miệng hom 
Nắp trút cá 
Rọ đụt đáy 
Rượng 
Nài 
H 8.1 - Cọc lưới đáy 
Dây neo 
H 8.2 - Neo và Phao nổi lưới đáy 
 151
Chiều cao cọc phải đủ cao sao cho có thể cắm vững chắc sâu xuống nền đáy và ló 
lên khỏi mắt nước khi triều cường cao nhất. Tùy theo độ sâu mà ta chọn chiều cao cọc 
thích hợp. 
Đường kính của cọc liên quan đến tính dẽo và sức chịu lực uốn của cọc. Tùy theo 
độ sâu và áp lực nước tác dụng lên lưới mà ta chọn đường kính của cọc sao cho đãm 
bảo cọc không bị gãy trong quá trình khai thác lưới Đáy cọc. Thông thường cọc càng 
to thì sức chịu lực càng lớn, nhưng giá thành càng đắc và khó lắp đặt cọc. 
• Neo-Ngáng lưới đáy (H 8.2). 
Ở những nơi có độ sâu lớn, dòng chảy mạnh, việc cắm cọc lưới đáy rất khó khăn, 
nhiều khi không thể thực hiện được, người ta thường dùng Neo-Ngáng để thay thế cọc. 
Neo được thả phía trứớc miệng lưới Đáy, được làm bằng kim loại hoặc bằng gỗ. 
Yêu cầu đối với Neo là phải đủ nặng và bám chặc được trong đất, đãm bảo neo không 
bị rê (xê dịch) khi có dòng chảy mạnh tác dụng lên lưới. Neo được liên kết miệng lưới 
thông qua Dây neo và Ngáng. 
Ngáng là thanh gỗ (hoặc kim loại) nhằm căng chiều cao miệng lưới đáy. chiều cao 
của Ngáng bằng với chiều cao của miệng lưới Đáy. 
Dây neo thường được làm bằng dây tổng hợp (Nilon, Polyethylene,...). Yêu cầu 
đối với dây neo là phải chịu được kéo căng khi nước tác dụng lên lưới. dây neo nên 
được thả đủ dài để tránh tình trạng rê neo ( cày neo). 
Để xác định vị trí thả neo, biết được neo có bị rê hay không và biết được độ mở 
ngang của miệng lưới Đáy, ở hai đầu ngáng người ta thường thả hai phao tiêu (thùng 
phuy) nổi lên mặt nước. Phao tiêu (thùng phuy) này cũng còn giúp cho tàu bè đi lại 
biết được khu vực ta đang thả lưới Đáy mà tránh ra xa lưới Đáy. 
• Bè lưới Đáy (H 8.3) 
Trên các sông rộng, có độ sâu lớn thường thấy lưới đáy hoạt động kết nhau thành 
bè. Bè lưới đáy có chức năng nhằm cố định vị trí thả lưới đáy và tạo thành bệ nổi để 
thả cọc. Bè lưới đáy thường dùng các ghe lớn, cũ liên kết lại thành một loạt các miệng 
lưới, giữa hai ghe là một miệng lưới Đáy. 
Cọc cho bè lưới đáy cũng tương tự như cọc lưới đáy, nhưng sự khác biệt ở đây là 
cọc không thả xuống sát đáy, mà được dựng đứng lơ lững trong nước. Phía trên của 
cọc thì cố định bởi các bè, phiá dưới thì có các dây chằng cố định sao cho cọc luôn ở 
tư thế thẳng đứng. 
H 8.3 - Bè lưới đáy 
 152
8.4 KỸ THUẬT KHAI THÁC LƯỚI ĐÁY 
Kỹ thuật khai thác lưới đáy gồm có hai bước: 
• Bước một: Chọn ngư trường (chọn bãi đặt lưới Đáy) 
• Bước hai: Khai thác nghề lưới Đáy. 
8.4.1 Chọn ngư trường 
Chọn ngư trường hay còn gọi chọn nơi thả Đáy. Nơi thả lưới đáy phải là nơi có 
nhiều ca,ï tôm qua lại, là nơi có dòng chảy tương đối mạnh và có nhiều thức ăn cho cá. 
Tuy nhiên việc tìm nơi thả đáy không phải dễ dàng, vì nó liên quan đến sự đi lại của 
tàu bè và đường di chuyển của cá cũng thường thay đổi. Mặt khác lưới đáy là ngư cụ 
cố định nên việc chọn nơi đặt lưới đáy cần phải tính toán kỹ về hiệu quả kinh tế lâu 
dài. 
Yêu cầu chung để chọn nơi đặt lưới đáy cần thỏa mãn các điều kiện sau: 
• Nơi có nhiều cá, tôm đi lại. Sản lượng khai thác phải ổn định lâu dài. 
• Thuận tiện và dễ dàng trong việc lắp đặt cọc (hoặc neo hoặc bè) lưới đáy. 
• Không bị ảnh hưởng bởi tàu bè đi lại. 
• Mật độ khai thác, số lượng miệng lưới đáy không quá đông ở khu vực dự định lắp 
đặt lưới đáy. Nếu có thể được thì nên chọn nơi đầu con nước (chặn trước so với các 
miệng lưới đáy khác) hoặc chọn ngay hướng luồng cá di chuyển vào (thường thấy 
ở ngã ba sông hoặc khúc quanh). 
• Nếu đánh bắt mang tính mùa vụ thì nên trang bị tương đối gọn, nhẹ, lắp đặt nhanh 
và tháo dỡ dễ dàng. 
• Gần nơi tiêu thụ sản phẩm thủy sản, thuận lợi cho việc vận chuyển ngư lưới cụ và 
sản phẩm thủy sản. 
8.4.2 Kỹ thuật khai thác lưới đáy 
Nhìn chung Kỹ thuật khai thác lưới Đáy (đáy cọc, đáy neo, đáy bè, đáy cá Tra,...) 
đều bao gồm các bước cơ bản sau: Chuẩn bị, Chãi lưới, Thu lưới và Bắt cá. Ta sẽ lần 
lượt tìm hiểu một số nghề lưới Đáy phổ biến ở ĐBSCL sau: 
8.4.2.1. Kỹ thuật khai thác lưới Đáy cọc 
• Chuẩn bị. 
Bước chuẩn bị đối với lưới đáy cọc là vá các chổ lưới bị rách, thay thế các bộ phận 
bị hư hỏng nặng và kém an toàn. Đồng thời kiểm tra các cọc đáy xem có bị mục, gãy, 
hoặc dây cáp căng cọc bị đứt hay không để kịp thơi sữa chữa. Sau đó chuyển lưới đến 
điểm thả đáy. 
• Thả lưới (chãi đáy). 
 153
Khi lưới đã được chuyển đến điểm thả đáy, thì buộc thuyền vào rưỡng dưới, tiếp 
đó vắt lưới lên rượng trên thành từng lớp từ đụt ở dưới, thân, cánh ở trên cùng. Tiếp 
đến đưa hai đấu cánh (2 cặp điêu) về hai bên cọc. Rồi liên kết điêu với nài và mép sắt. 
Chú ý coi chừng giềng bị xoắn. 
Chờ khi nước hạ thấp, dòng chảy vừa đủ để cho lưới trôi về phía sau thì tiến hành 
tháo tay quay tời (thả mép sắt), ấn nhẹ cây chui, điêu lưới sẽ tự động tuột theo cọc 
xuống đến độ sâu đã định. Khi đó, dưới tác dụng của dòng chảy, miệng lưới từ từ mở 
ra, kéo theo lưới (đã được dắt trên rượng trước đó) sẽ lần lượt tuột xuống nước và trôi 
dần về phía sau. Khi lưới đã làm việc ổn định, ta thắt đáy đụt lại, rồi buộc dây đổ đụt 
vào rượng. 
Tiếp đến là thời gian chải đáy, thới gian này tùy thuộc vào vào chu kỳ thay đổi 
chiều dòng chảy, tốc độ dòng chảy và mật độ cá vào đáy,... mà có thời gian chải đáy 
khác nhau. 
• Đổ đụt (thu cá) 
Sau thời gian chải đáy nhất định nào đó, thì ta tiến hành đổ đụt. Trước hết ta dùng 
ghe (thuyền) lần theo dây đổ đụt (dây thắt đáy đụt), dùng dây này kéo đụt lên thuyền. 
Tiếp đó tháo miệng đụt (hoặc mở miệng rọ) rồi trút cá ra. 
• Thu lưới 
Khi hết giai đoạn thả lưới (tùy theo con nước cá xuất hiện, thông thường 5-7 ngày) 
thì ta thu lưới đem vào bờ. Để thu lưới trước hết ta gắn tay quay vào tời, quay tời để 
nâng hai điêu lưới lên gần rượng dưới, khóa tay quay và buộc chặt hai nài vào cọc. 
Tiếp đó tháo hai điêu, buộc chung lại với nhau và bắt đầu giặt lưới tứ cánh, đến thân 
rồi đụt lưới. Sau cùng chuyển lưới vào bờ là hết một con nước khai thác lưới đáy. 
8.4.2.2 Kỹ thuật khai thác lưới đáy neo 
Lưới đáy cố định bằng neo là phương pháp cơ động nhất trong các phương pháp 
khai thác lưới đáy. Nó đáp ứng được nhu cầu khai thác ở những nơi sâu, khó lắp cọc 
đáy, và dễ dàng tháo dỡ lưới đáy khi không còn khai thác nữa. 
• Chuẩn bị 
Bước chuẩn bị cũng gần giống như chuẩn bị đối với lưới đáy cọc. Điểm khác nhau 
là thay vì chuẩn bị vật tư, phương tiện cho cọc đáy thì ở đây người ta chuẩn bị các 
neo, dây cáp giăng và phao nổi (thùng phuy). 
• Thả lưới 
 Đưa neo, phao và lưới đến điểm thả đáy. Công việc đầu tiên cần làm là tiến 
hành thả neo và phao nổi. Trước hết ta thả neo 1, rồi đưa thuyền về ngang với neo 1 ở 
khoảng cách nhất định ta thả tiếp neo 2. Tiếp đến nới thả hai dây neo sao cho ngang 
bằng nhau. Cuối neo ta hai phao nổi và ổ định khoảng cách giựa 2 phao nổi bằng dây 
khống chế miệng đáy. 
 Khi hai neo đã ổ định vị trí, ta tiến hành thả dây đứng (có phao ở trên và vật 
nặng ở dưới). Ở phía dưới dây đứng ta buộc dây tam giác nối với dây cáp neo. Tiếp đó 
ta buộc 2 điêu lưới vào dây đứng, rồi thả toàn bộ dây đứng và lưới xuống nước. Dưới 
 154
tác dụng của vật nặng, phao và dòng chảy lưới sẽ tự động rơi chìm xuống nước và lưới 
sẽ được mở ra. Tiếp đến ta buộc đụt bởi dây thắt đáy đáy đụt vàì một đầu kia của dây 
thắt đáy đụt ta buộc với phao nổi để định vị đáy đụt. 
• Đổ đụt 
Tương tự như lưới đáy cọc, sau thời gian nhất định (phụ thuộc vào chu kỳ nước 
lớn, ròng) ta cũng tiến hành đổ đụt. Trước hết ta dùng thuyền bợi đến chổ phao đáy 
đụt, kéo dây thắt đáy đụt lên và tiến hành tháo đụt, trút cá ra. Nếu khai thác liên tục thì 
ta buộc đáy đụt lại rồi chãi đụt tiếp. 
• Thu lưới 
Khi không còn khai thác nữa thì ta tiến hành thu lưới. Trước hết ta tháo 2 điêu lưới 
ra, rồi gộp chung lại với nhau. Sau đó rữa lưới, xếp lại, rồ thu tất cả phao, cáp giăng và 
neo. Chuyển tất cả lưới và trang thiết bị về nhà. Đến đây thì hết một đợt khai thác lưới 
đáy neo. 
----------------------------------------------- 
 155
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bùi Như Khuê, và Phạm Á, 1978. Dây Sợi Lưới Tổng Hợp Dùng Trong Nghề Cá-
NXB.Nông Nghiệp. 
F.A.O, 1985. Fishing Method of The World. 1245 pp 
Friman, A. L., (1992). Calculations for fishing gear designs. Fishing News Books. 
University Press, Cambridge. 241pp. 
Ngô Đình Chùy (1881). Giáo Trình Nguyên Lý Tính Toán Ngư Cụ. Đại Học Thủy Sản 
Nha Trang. 
Nguyễn Văn Điển, 1978. Vật Liệu và Công Nghệ Chế Tạo Lưới - NXB Nông Nghiệp. 
145pp 
Nguyễn Thiết Hùng (1982). Giáo Trình Thiết kế lưới Kéo. Đại Học Thủy Sản Nha 
Trang. 
Nédélec, 1982. Classification of Fishing gears. 45 pp 
Niconorov, 1978. Đánh bắt cá bằng ánh sáng (tài liệu dịch). NXB Nông Nghiệp. 
112pp 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ky_thuat_khai_thac_thuy_san_tap_2_ha_phuoc_hung.pdf