Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam - Lê Mậu Hãn (Phần 1)

Tóm tắt Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam - Lê Mậu Hãn (Phần 1): ...liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Luận cương chưa đánh giá đúng mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, cường điệu mặt hạn chế của họ, chưa thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một ...hống mọi thủ đoạn của kẻ thù vu cáo, xuyên tạc Đảng Cộng sản; đấu tranh phê phán các luận điệu cực "tả" của "tờrốtkít" chống lại chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng. Trong thời kỳ này, Đảng còn xuất bản nhiều tập sách chính trị phổ thông để giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lênin và chính sách m...y Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa chiếm Sài Gòn và các tỉnh. Trong đêm 24-8 các lực lượng khởi nghĩa của công nhân, nông dân, thanh niên với gậy tầm vông vót nhọn và giáo mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8, hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa c...

pdf99 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 479 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam - Lê Mậu Hãn (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 xây dựng Đảng. 
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ 
viên dự khuyết, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 uỷ viên chính 
thức, 1 uỷ viên dự khuyết và Ban Bí thư. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, 
Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai đánh dấu sự trưởng thành của Đảng ta về 
mọi mặt, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi 
hoàn toàn1. 
1. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, ngày 28-6-1951, Đảng bộ Campuchia họp Đại hội, quyết định 
thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia và bầu ra Ban Lãnh đạo của Đảng do Sơn Ngọc Minh đứng đầu. 
Đảng bộ Lào đã tích cực chuẩn bị và đến ngày 22-3-1953 mới họp Đại hội và quyết định lập Đảng Nhân dân Lào (sau đổi 
 91
2. Đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi 
Sau Đại hội, Đảng ta đã tập trung lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng 
lợi. Ban Chấp hành Trung ương (khoá II) đã tiếp tục giải quyết nhiều vấn đề do yêu cầu 
thực tiễn đặt ra trên tất cả các mặt. 
Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (tháng 3-1951) tập trung giải quyết các nhiệm 
vụ kinh tế, tài chính để bồi dưỡng sức dân và bảo đảm cung cấp cho quân đội; thực hiện 
phương châm tác chiến là tiêu diệt địch, phát triển lực lượng ba thứ quân; tăng cường 
công tác địch vận. 
Hội nghị Trung ương lần thứ hai (tháng 9-1951) đã ra Nghị quyết về Tình hình và 
nhiệm vụ chung, về công tác củng cố nội bộ, về nhiệm vụ kinh tế tài chính trước mắt. 
Hội nghị còn bàn về công tác vùng địch chiếm đóng. 
Hội nghị Trung ương lần thứ ba (tháng 4-1952) đã quyết định chỉnh Đảng, chỉnh 
quân coi đó là nhiệm vụ trung tâm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội. 
Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1-1953) đã kiểm điểm tình hình thực hiện 
chính sách ruộng đất, chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách 
ruộng đất. 
Hội nghị Trung ương lần thứ năm (tháng 11-1953) quyết định phát động quần 
chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. 
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai và các nghị quyết của 
Ban Chấp hành Trung ương, Đảng đã lãnh đạo toàn quân, toàn đân tăng cường đoàn 
kết, ra sức phát triển lực lượng về mọi mặt, củng cố hậu phương, phát triển cuộc đấu 
tranh trong vùng địch chiếm đóng và mở nhiều cuộc tiến công quân sự trên khắp các 
chiến trường. 
Đầu tháng 3-1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh và Liên Việt đã họp quyết 
định thống nhất hai tổ chức thành Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt). Khối 
đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. 
Lực lượng vũ trang đã trưởng thành về cả chính trị và tổ chức, đặc biệt là bộ đội 
chủ lực. Đảng chủ trương vũ trang toàn bộ và xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân 
làm nòng cốt (quân dân du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực), chú trọng chất 
lượng, đồng thời chú ý nâng cao giác ngộ giai cấp trong lực lượng; nâng cao sự hiểu 
biết về đường lối kháng chiến, trình độ kỹ thuật, chiến thuật. Quân đội được tăng cường 
vũ khí, đạn dược, thuốc men. Năm 1949, thành lập Đại đoàn 308, đến cuối năm 1952 đã 
xây dựng được 6 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo, nhiều trung đoàn bộ binh độc 
lập và các Liên khu vũ trang tập trung có khoảng 33 vạn người. Cuộc vận động chỉnh 
quân về chính trị và quân sự vào mùa hè năm 1953 đã nâng cao nhận thức chính trị và 
trình độ kỹ thuật, chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ. Công tác hậu cần được tăng cường, 
lương thực, vũ khí, thuốc men được bổ sung, đường sá được xây dựng thêm... 
Phong trào đấu tranh ở vùng sau lưng địch tiếp tục phát triển với nhiều hình thức 
là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào) do Cayxỏn Phômvihản làm Tổng Bí thư. 
 92
phong phú; đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh 
vũ trang, vừa tiến công địch vừa chống địch càn quét. Các chiến dịch lớn của các đơn vị 
chủ lực đã động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta vùng sau lưng 
địch. 
Để bồi dưỡng sức dân, củng cố hậu phương kháng chiến, năm 1952, Đảng phát 
động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm đạt kết quả tốt. Chỉ tính riêng 
từ Liên khu V trở ra, sản lượng lương thực năm 1953 đạt 2,7 triệu tấn. Nhà nước đã ban 
hành một số sắc lệnh về thuế nông nghiệp, thuế công thương, xuất khẩu, nhập khẩu... 
Tháng 6-1951, Ngân hàng quốc gia được thành lập và sau đó mậu dịch quốc doanh ra 
đời. Thực hiện chính sách ruộng đất, từ năm 1949 đến năm 1953, nông dân đã được tạm 
cấp gần 180.000 ha ruộng đất của thực dân, địa chủ Việt gian, ruộng công, ruộng bỏ 
hoang, ruộng vắng chủ... Ngay từ giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, Đảng đã chủ 
trương không tịch thu ruộng đất của địa chủ, mà chỉ tịch thu ruộng đất và tài sản của đế 
quốc, Việt gian phản quốc chia cho dân cày. Từ năm 1947 đến năm 1953, đã thực hiện 
giảm tô 25%, chia ruộng đất cho nông dân; ban hành chính sách thuế nông nghiệp, hoãn 
nợ, xoá nợ, nhằm hạn chế sự bóc lột của bọn địa chủ. Tháng 1-1953, Hội nghị Trung 
ương lần thứ tư của Đảng đã kiểm điểm tình hình thực hiện chính sách ruộng đất, đề ra 
chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Tháng 11-
1953, Hội nghị Trung ương lần thứ 5 của Đảng quyết định phát động quần chúng triệt 
để giảm tô và phải thực hiện cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến. Sau đó, tháng 
12-1953, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất, tiến hành cải cách ruộng đất ở 
vùng tự do, nhằm đẩy mạnh kháng chiến, đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. 
Trong gần một năm (1953-1954), chúng ta đã thực hiện 5 đợt giảm tô và đợt 1 cải 
cách ruộng đất ở một số xã ở vùng tự do. Cải cách ruộng đất mới chỉ được làm thí điểm, 
nhưng đã bộc lộ những khuyết điểm mang tính giáo điều, do chỉ đạo xử lý không đúng 
một số trường hợp cụ thể trong thực hiện chính sách ruộng đất. Tuy vậy, chính sách triệt 
để giảm tô và chia ruộng đất cho dân cày đã động viên tinh thần của nhân dân hậu 
phương, khơi dậy một luồng sinh khí mới trong nhân dân lao động, đông đảo nhân dân 
hăng hái sản xuất, đóng góp vượt mức sức người, sức của cho kháng chiến, góp phần 
quan trọng vào thắng lợi của chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến 
thắng Điện Biên Phủ. 
Về xây dựng Đảng, cuộc vận động chỉnh Đảng trong hai năm 1952, 1953 giúp cho 
cán bộ, đảng viên quán triệt thêm đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến lâu 
dài, dựa vào sức mình là chính; khắc phục một bước những lệch lạc "tả" khuynh, hữu 
khuynh. Ngoài ra, Đảng tiến hành phát triển cơ sở Đảng trong lực lượng vũ trang, trong 
các làng xã, xí nghiệp. Trong hai năm 1948-1949, kết nạp hơn 50 vạn đảng viên. Đến 
đầu năm 1951, số lượng đảng viên phát triển tới 76 vạn. Tuy nhiên, kết quả chỉnh Đảng 
phần nào có bị hạn chế do có những thiếu sót trong quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện. 
Để cứu vãn tình thế sau thất bại ở Chiến dịch Biên giới, bọn hiếu chiến Pháp phải 
dựa vào sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ. Lợi dụng tình thế đó, đế quốc Mỹ can thiệp ngày 
càng sâu vào Đông Dương, vừa giúp Pháp, vừa tìm cơ hội để hất cẳng Pháp. Chỉ riêng 
về ngân sách chiến tranh, viện trợ của Mỹ tăng dần từ 20% (năm 1950) lên 50% (1952) 
 93
và 80% (1954). Có thêm sự trợ giúp của Mỹ, bọn hiếu chiến Pháp tìm mọi cách tăng 
thêm quân số, xây dựng thêm nhiều binh đoàn cơ động mạnh, liên tục thay tổng tư lệnh 
quân đội viễn chinh ở Đông Dương, thực hiện nhiều kế hoạch phiêu lưu quân sự. 
Với thế chủ động trên chiến trường, quân ta liên tiếp mở các chiến dịch: chiến 
dịch Trung du (tháng 12-1950), chiến dịch đường 18 (tháng 3-1951), chiến dịch Hà - Nam - 
Ninh (tháng 5-1951)... Tháng 10-1951, quân Pháp mở cuộc hành binh đánh chiếm thị xã 
Hòa bình, hòng giành lại quyền chủ động trên chiến trường chính. Tận dụng cơ hội này, 
quân ta đã bao vây, tiến công chia cắt đồng thời đưa một bộ phận bộ đội chủ lực tiến 
vào sau lưng địch ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ để tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, 
đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá ngụy quyền, củng cố chính quyền nhân dân. Những 
đòn tiến công của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và chiến tranh du kích đã phát triển 
lên một bước mới. Cuối tháng 2-1952, địch buộc phải rút chạy khỏi Hòa Bình. Chiến dịch 
Hòa Bình kết thúc thắng lợi. Ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng vùng giải 
phóng, mở rộng khu căn cứ du kích liên hoàn từ Bắc Giang, Quảng Yên, Kiến An, Thái 
Bình đến Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông. Âm mưu giành lại thế chủ động của Pháp trên 
chiến trường chính bị thất bại hoàn toàn. 
Tháng 10-1952, thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị, quân ta mở Chiến dịch Tây 
Bắc. Sau ba tháng chiến đấu (từ ngày 4-10 đến ngày 30-12-1952) quân ta đã tiêu diệt 
được 6.000 tên địch, giải phóng đại bộ phận Tây Bắc, phá tan âm mưu lập "Xứ Thái tự 
trị" của giặc Pháp. 
Tháng 4-1953, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội giải phóng Lào 
mở Chiến dịch Thượng Lào, giải phóng Xiêng Khoảng, một phần tỉnh Sầm Nưa. Căn cứ 
kháng chiến Thượng Lào nối liền với vùng Tây Bắc Việt Nam, tạo thế uy hiếp mạnh đối 
với quân Pháp. 
Những thắng lợi to lớn và toàn diện của quân và dân ta từ sau Đại hội lần thứ II 
của Đảng (tháng 2-1951) đã làm thay đổi lớn về lực và thế của ta, tạo điều kiện để quân và 
dân ta bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. 
Để giành một thắng lợi quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có "danh dự 
" cho Pháp, tướng Nava được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông 
Dương. Nava vạch ra một kế hoạch quân sự dựa trên sự nỗ lực cao nhất của Chính phủ 
Pháp và sự viện trợ lớn nhất của Mỹ, với một đội quân cơ động mạnh nhất và phương 
tiện chiến tranh nhiều nhất. 
Căn cứ vào sự phân tích tình hình và âm mưu của địch, chủ trương quân sự của 
Trung ương đề ra trong Đông Xuân 1953-1954 là: 
- Ra sức tăng cường chiến tranh du kích trên toàn bộ chiến trường vùng sau lưng 
địch để phá âm mưu bình định, phá kế hoạch khuếch trương ngụy quân của địch, phân 
tán chủ lực của chúng và phá âm mưu chúng tập trung lực lượng ra Bắc Bộ. 
- Bộ đội chủ lực nắm vững phương châm "tích cực, chủ động, cơ động linh hoạt" 
tập trung tích cực nhằm tiêu diệt sinh lực địch và tranh thủ giải phóng đất đai ở những 
vùng chiến lược quan trọng mà địch tương đối yếu, đồng thời tranh thủ tiêu diệt địch 
trong vận động chiến ở những hướng địch đánh ra mà ta có điều kiện thuận lợi để diệt 
 94
địch. 
Chủ trương quân sự của Trung ương Đảng được toàn Đảng, toàn quân và dân ta 
tích cực chuẩn bị và khẩn trương thực hiện kế hoạch tác chiến, quân đội nhân dân Việt 
Nam đã liên tiếp mở các cuộc tấn công trên các hướng chiến lược trên chiến trường 
Đông Dương; tiến công địch ở Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ, 
tiến công địch ở Trung Lào, giải phóng Thà Khẹt và nhiều vùng quan trọng ở Trung 
Lào, tiến công địch ở Hạ Lào về đông Campuchia, mở rộng xuống tây - bắc Campuchia, 
tiến công địch ở Tây Nguyên, giải phóng thị xã Kon Tum, uy hiếp Plâycu. Đến tháng 1-
1954, để tiếp tục chuẩn bị, bố trí thế trận đánh Điện Biên Phủ theo phương châm "đánh 
chắc, tiến chắc", quân đội ta còn phối hợp với quân giải phóng Lào tiến công địch ở 
phòng tuyến sông Nậm Hu, Thượng Lào, giải phóng Nậm Hu và toàn bộ tỉnh Phôngxalỳ. 
Phối hợp với các đòn tiến công của chủ lực ở trên, quân và dân ta ở các chiến trường đã 
đẩy mạnh tác chiến, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng các căn cứ du kích. Kế hoạch 
quân sự Nava bước đầu bị phá sản, tạo điều kiện thuận lợi cho mặt trận Điện Biên Phủ. 
Giữa lúc quân đội ta bắt đầu tiến quân lên Tây Bắc, ngày 20-11-1953 Nava vội 
vàng cho thực hiện cuộc hành binh Hải Ly (Castor) cho quân nhảy dù xuống Điện Biên 
Phủ rồi tiếp tục tăng quân, vũ khí để xây dựng ở Điện Biên Phủ một tập đoàn cứ điểm 
quy mô lớn. 
Hạ tuần tháng 12-1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm 
quyết chiến chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954. Chiến dịch Điện Biên Phủ có ý 
nghĩa quân sự và chính trị quan trọng. Chiến dịch diễn ra từ ngày 13-3-1954 và kết thúc 
vào ngày 7-5-1954. 
Với chiến thắng Điện Biên Phủ, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống 16.000 tên địch, 
trong đó có tướng Đờ Caxtơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm 
bị diệt và bắt sống. 
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi lớn nhất của cuộc đọ sức toàn diện và 
quyết liệt của quân dân Việt Nam với quân đội xâm lược Pháp. Chiến công đó được ghi 
vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ 
XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của 
nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân. 
Cùng với chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, Đảng 
và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. 
Ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Expresses Thụy Điển về 
việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: 
"Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, 
muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt 
Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng 
tiếp ý muốn đó... 
Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền 
 95
độc lập thật sự của nước Việt Nam"1. 
Chủ trương mở mặt trận ngoại giao của ta đưa ra giữa lúc thực dân Pháp đang 
thực hiện Kế hoạch Nava đã thúc đẩy nhân dân Pháp đấu tranh đòi Chính phủ Pháp phải 
thương lượng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và gây tiếng vang trên thế 
giới. Song, chúng ta không ảo tưởng. 
Ngày 27-12-1953, Ban Bí thư ra thông tư nói rõ: Hồ Chủ tịch đã tuyên bố rõ "lập 
trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song 
nhân dân và Chính phủ ta cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hòa 
bình vấn đề Việt Nam"1. "Chúng ta tuyệt đối không nên có ảo tưởng rằng hòa bình sẽ 
đến một cách mau chóng và dễ dàng. Hòa bình cũng như độc lập phải đấu tranh gian 
khổ mới giành được"2. 
Cuối năm 1953, Hội nghị cấp Bộ trưởng ngoại giao giữa Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ, 
Trung Quốc (Hội nghị Beclin) đã ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị Giơnevơ, để bàn 
giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Việt Nam không bỏ 
lỡ cơ hội, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, tạo cơ sở cho phái đoàn Việt Nam 
tới Hội nghị với tư thế một dân tộc chiến thắng. Ngày 8-5-1954, một ngày sau chiến 
thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương khai mạc 
ở Giơnevơ (Thụy Sĩ). Cuộc đấu tranh này không kém phần quyết liệt và phức tạp. Đối với 
Việt Nam, đây là lần đầu tiên Việt Nam tham dự một hội nghị quốc tế lớn, mặc dù chưa 
được Anh, Mỹ, Pháp công nhận về mặt ngoại giao. Đoàn đại biểu của Chính phủ Việt 
Nam Dân chủ Cộng hoà đã đấu tranh hết sức kiên quyết và khôn khéo. Ngày 21-7-1954, các 
văn bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông 
Dương được ký kết. Hiệp định Giơnevơ quy định: Các nước tham dự Hội nghị cam kết 
tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh 
thổ của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; Pháp rút quân khỏi ba 
nước Đông Dương; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam và đến tháng 
7-1956, tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước. 
Giải pháp ký kết Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương lúc bấy giờ, 
biểu hiện cụ thể Việt Nam là một nước nhỏ, lại phải đương đầu với các đế quốc xâm 
lược lớn trong bối cảnh các quan hệ quốc tế vô cùng phức tạp nên cuộc đấu tranh giành 
độc lập dân tộc và tự do của nhân dân ta là lâu dài, gian khổ, quanh co để giành lấy 
thắng lợi từng bước là một vấn đề có tính quy luật. 
Như vậy, cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định đã chấm dứt chiến tranh 
xâm lược của Pháp ở Đông Dương. Mỹ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng chiến 
tranh ở Đông Dương. Miền Bắc được giải phóng, chúng ta có điều kiện xây dựng trong 
hoà bình. 
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước đã nêu rõ: 
"Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng 
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 168. 
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 553, 556. 
 96
là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ"1. 
IV. Ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm 
lịch sử 
Thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân 
ta là do các nhân tố cơ bản sau đây: 
- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với 
đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là 
chính, có sức mạnh động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc. 
- Có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất 
rộng rãi - Mặt trận Liên Việt - được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông và 
trí thức vững chắc. 
- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày càng 
vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí là lực lượng quyết định tiêu diệt địch 
trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc. 
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, 
củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng 
chế độ mới. 
- Có sự liên minh chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia 
cùng chống một kẻ thù chung; có sự đồng tình, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô, các 
nước xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân 
dân tiến bộ Pháp. 
Với ý chí "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không 
chịu làm nô lệ", nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến đấu kiên cường và 
chiến thắng ngày càng to lớn, tiêu biểu là chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ. Chúng ta 
đã bảo vệ được chính quyền cách mạng, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế 
quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, 
tạo điều kiện tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước. 
Nhân dân ta cùng với nhân dân Lào và Campuchia đã đập tan ách thống trị của 
chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở 
đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, trước hết là hệ thống thuộc địa của Pháp, cổ 
vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. 
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, 
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã 
đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là, một thắng lợi vẻ vang của nhân dân 
Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ 
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 322. 
 97
và xã hội chủ nghĩa trên thế giới"1. 
Trải qua quá trình lãnh đạo kháng chiến, Đảng ta đã tích luỹ được nhiều kinh 
nghiệm quý báu về lãnh đạo cách mạng và chiến tranh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu 
sắc: 
1. Xác định đúng và quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, 
dựa vào sức mình là chính trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. 
2. Kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống 
phong kiến, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ chống đế quốc. 
3. Vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng 
vững mạnh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến. 
4. Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài chủ động đề ra 
và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo. 
5. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh 
đạo của Đảng trong chiến tranh. 
1. Sđd, 2002, tr. 322. 
 98

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_lich_su_dang_cong_san_viet_nam_le_mau_han_phan_1.pdf
Ebook liên quan