Giáo trình Luật hành chính và tố tụng hành chính - Nguyễn Văn Quang (Phần 1)

Tóm tắt Giáo trình Luật hành chính và tố tụng hành chính - Nguyễn Văn Quang (Phần 1): ... là người làm chủ đất nước, việc tạo điều kiện để nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước phải được ghi nhận và đảm bảo thực hiện như là một nguyên tắc cơ bản của quản lí hành chính nhà nước. Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: "Nhà nước bảo đ...c của quản lý hành chính nhà nước, sáng tạo ra những cách làm hay, mang lại nhiều hiệu quả thiết thực. Thông qua phương pháp thuyết phục, các chủ thể quản lí hành chính nhà nước giáo dục cho mọi công dân nhận thức đúng đắn về kỉ cương xã hội, kỉ luật nhà nước, động viên họ tự giác thực hiện ...về các chủ thể trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trình tự thủ tục ban hành quyết định lập pháp và quyết định hành chính hoàn toàn khác nhau và được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. - Quyết định hành chính khác với quyết định...

pdf102 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Luật hành chính và tố tụng hành chính - Nguyễn Văn Quang (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Quyết định này phải được gửi cho tổ chức, cá nhân vi phạm 
hành chính và cơ quan thu tiền phạt trong thời hạn ba ngày kể từ ngày ra quyết định. Tổ 
chức, cá nhân bị xử phạt phải tự nguyện thi hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 
ngày kể từ ngày được giao quyết định xử phạt trừ trường hợp pháp luật có quy định 
khác. Cá nhân, tổ chức bị phạt tiền có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền 
xử phạt hoặc nộp tại kho bạc nhà nước. Quy định này đã tránh được những khó khăn, 
phiền hà cho tổ chức, cá nhân bị xử phạt và cả người có thẩm quyền xử phạt đồng thời 
nó cũng hạn chế được các tiêu cực có thể xảy ra trong xử phạt vi phạm hành chính. 
 Hết thời hạn tự nguyện thi hành quyết định xử phạt mà tổ chức, cá nhân không thi 
hành quyết định xử phạt thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế 
thi hành quyết định xử phạt buộc tổ chức, cá nhân đó phải thi hành, bao gồm: 
- Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản tại 
ngân hàng; 
- Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; 
(4).Xem: Điều 55a Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002. 
(5).Xem: Khoản 2 Điều 55a Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002. 
 97
- Áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác để thi hành quyết định xử phạt. 
 Một số vấn đề về thời hạn, thời hiệu trong xử phạt vi phạm hành chính 
* Thời hạn trong xử phạt vi phạm hành chính 
Xử lí nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật mọi vi phạm hành chính xảy ra là yêu 
cầu mang tính nguyên tắc đặt ra cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính. Phù hợp 
với yêu cầu đó, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đã có những quy định cụ thể 
nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc nói trên. Có nhiều loại thời hạn được quy 
định trong pháp luật về xử phạt hành chính, trong đó phải kể đến: 
- Về thời hạn ra quyết định xử phạt 
Đối với việc xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 200.000 đồng thì người có thẩm 
quyền xử phạt hành chính phải quyết định ngay việc xử phạt khi phát hiện ra vi phạm 
hành chính. Đối với các trường hợp khác, trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày lập 
biên bản về vi phạm hành chính, người có thẩm quyền phải ra quyết định xử phạt; nếu 
có tình tiết phức tạp, hoặc phải gia hạn, thời hạn trên có thể được kéo dài nhưng không 
được quá sáu mươi ngày (Điều 56 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002). 
- Về thời hạn chấp hành quyết định xử phạt 
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải được tổ chức, cá nhân vi phạm chấp 
hành trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được giao quyết định xử phạt (trừ trường hợp 
pháp luật có quy định khác). Khi đã ban hành xong quyết định xử phạt, cán bộ có thẩm 
quyền cần nhanh chóng giao quyết định đó cho cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. 
Việc giao quyết định này thông thường được thực hiện bằng cách tống đạt trực tiếp 
cho đối tượng vi phạm. Cần hết sức thận trọng đối với những đối tượng có thái độ cố 
tình chống đối cán bộ có thẩm quyền xử phạt. Với những đối tượng này khi xử lí cần 
chú ý đến việc kết hợp áp dụng với các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử phạt 
nhằm đảm bảo cho việc tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính sau 
này. 
* Thời hiệu trong xử phạt vi phạm hành chính 
Vấn đề thời hiệu trong xử phạt vi phạm hành chính cũng là vấn đề tương đối phức 
tạp. Nhằm mục đích phát hiện, xử lí và thi hành quyết định xử lí các vi phạm hành chính 
đã xảy ra một cách nhanh chóng, kịp thời, pháp luật hiện hành đã quy định một số loại 
thời hiệu sau đây trong xử phạt vi phạm hành chính: 
- Về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính 
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là một năm, kể từ ngày vi phạm hành 
chính được thực hiện; đối với một số loại vi phạm hành chính trong các lĩnh vực như 
tài chính, xây dựng, môi trường, nhà ở, đất đai, đê điều, xuất bản, xuất khẩu, nhập 
khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, các hành vi buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả thì 
thời hiệu được tính là hai năm kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện; 
Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo 
thủ tục tố tụng hình sự nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ 
án mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm hành chính thì bị xử phạt hành chính; 
trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án, 
người đã ra quyết định phải gửi quyết định cho người có thẩm quyền xử phạt; trong 
trường hợp này, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 3 tháng kể từ ngày người có 
thẩm quyền xử phạt nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm. 
Trong các thời hạn nêu trên mà cá nhân, tổ chức lại thực hiện vi phạm hành chính 
mới trong cùng lĩnh vực trước đây đã vi phạm hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử 
 98
phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm thực hiện 
vi phạm hành chính mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử 
phạt (xem Điều 10 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002). 
Khi áp dụng quy định này thường xảy ra những tranh luận về việc xác định ngày 
vi phạm hành chính được thực hiện vì đây chính là mốc để tính thời hiệu. Thực tiễn 
xử lí cho thấy cán bộ có thẩm quyền xử phạt cần phân biệt hai trường hợp sau đây: 
- Đối với vi phạm hành chính mà hành vi vi phạm trong mặt khách quan là loại 
hành vi kéo dài, liên tục (ví dụ như hành vi tàng trữ pháo, thuốc nổ và đồ chơi nguy 
hiểm mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Điều 13 Nghị 
định của Chính phủ số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 về xử phạt vi phạm hành 
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự) thì ngày vi phạm hành chính được thực hiện là 
ngày cán bộ có thẩm quyền phát hiện ra vi phạm đó đang thực hiện trên thực tế. Đối 
với loại vi phạm này nếu khi phát hiện ra nó đã chấm dứt trên thực tế thì ngày vi 
phạm được tính là ngày tổ chức, cá nhân vi phạm đã thực sự chấm dứt hành vi vi 
phạm của mình. 
- Đối với các vi phạm hành chính khác, ngày vi phạm hành chính được thực hiện 
được xác định là ngày xảy ra vi phạm đó. 
Tuy nhiên, những người làm công tác thực tiễn rất cần đến sự giải thích một cách 
thống nhất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về cách xác định ngày vi phạm hành 
chính được thực hiện. 
- Về thời hiệu thi hành quyết định xử phạt 
Theo quy định của Điều 69 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002, thời 
hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là một năm kể từ ngày ban hành 
quyết định xử phạt. Quy định này không áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm 
cố tình trốn tránh hoặc trì hoãn việc thi hành quyết định xử phạt. Trong trường hợp cá 
nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính lại 
kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn. Việc áp dụng quy định này nhìn 
chung không có tranh luận gì nhiều ngoại trừ cách hiểu về cụm từ “cố tình trốn tránh, 
trì hoãn” việc thi hành quyết định xử phạt. 
2.2.6. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về xử phạt vi phạm hành chính và việc giải quyết 
Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về xử phạt cũng như xử lí vi phạm hành chính và việc 
giải quyết chúng được Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính quy định như sau: 
- Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc người đại diện hợp pháp 
của họ có quyền khiếu nại về quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp 
dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lí vi phạm hành chính. 
- Người bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường 
giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính 
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại về việc áp dụng biện pháp 
đó. 
- Mọi công dân có quyền tố cáo về hành vi trái pháp luật trong xử lí vi phạm hành 
chính. Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy 
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. 
- Nhằm bảo đảm cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xử lí vi phạm hành 
chính có hiệu quả, Điều 119 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định 
về khởi kiện hành chính như sau: Việc khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm 
 99
hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lí vi 
phạm hành chính, quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo 
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính được 
thực hiện theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. 
2.3. Áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác 
Theo quy định của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính, biện pháp xử lí hành chính 
khác được áp dụng đối với công dân Việt Nam vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, 
an toàn xã hội (như cờ bạc, ma tuý, mại dâm, gây rối trật tự công cộng...) nhưng chưa 
đến mức phải xử lí hình sự. Mục đích áp dụng các biện pháp này là nhằm giáo dục ý 
thức chấp hành pháp luật của đối tượng vi phạm, giáo dục và tạo điều kiện cho người 
vi phạm pháp luật trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội, ngăn ngừa khả 
năng tái phạm ở họ. 
Biện pháp xử lí hành chính khác có sự khác biệt so với các biện pháp xử phạt vi 
phạm hành chính ở những điểm căn bản sau đây: 
- Về đối tượng: Xử phạt hành chính được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm 
hành chính bao gồm cá nhân, tổ chức Việt Nam, cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm 
hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản lí hành chính nhà nước. Trong khi 
đó, đối tượng của việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác là cá nhân công 
dân Việt Nam, có hành vi vi pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa 
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lí hành 
chính thông thường là những đối tượng nguy hiểm cho xã hội. Đây là những người 
thường xuyên vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã 
hội. Phần lớn những đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác đã 
nhiều lần bị xử phạt hành chính nhưng vẫn tái phạm. Vì vậy, cần phải áp dụng đối với 
họ những biện pháp xử lí khác nhằm giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật ở họ. Trong 
nhiều trường hợp, hành vi vi phạm pháp luật của những đối tượng này chưa đủ dấu 
hiệu để cấu thành vi phạm hành chính song vì mục đích phòng ngừa chung cũng như 
phòng ngừa riêng họ vẫn bị áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác theo quy định 
của pháp luật. 
- Về thẩm quyền quyết định áp dụng: Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện 
pháp xử lí hành chính khác theo quy định của pháp luật thuộc về chủ tịch uỷ ban nhân 
dân cấp tỉnh, cấp huyện hoặc cấp xã. Trong khi đó, thẩm quyền áp dụng các biện pháp 
xử phạt vi phạm hành chính được pháp luật quy định không chỉ cho chủ tịch uỷ ban 
nhân dân các cấp mà còn cho nhiều chủ thể khác. 
- Về thủ tục quyết định áp dụng: Việc áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác 
đối với các đối tượng vi phạm pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, tự do của mỗi 
cá nhân. Vì vậy, thủ tục quyết định áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác được 
pháp luật quy định rất chặt chẽ, phải qua nhiều khâu xét duyệt với sự tham gia của rất 
nhiều cơ quan, cán bộ có thẩm quyền khác nhau. Trong khi đó, thủ tục xử phạt vi 
phạm hành chính được pháp luật quy định đơn giản, thuận tiện hơn. Điều này bảo đảm 
cho các quyết định về biện pháp xử lí hành chính khác được ban hành chặt chẽ, chính 
xác, phù hợp với đối tượng bị áp dụng. Có như vậy mục đích của việc áp dụng các 
biện pháp này mới đạt được trên thực tiễn. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng việc 
quy định quá chặt chẽ như vậy về mặt thủ tục làm mất nhiều thời gian và làm giảm 
hiệu quả của yêu cầu ngăn chặn và xử lí kịp thời các vi phạm pháp luật xảy ra. Để đáp 
ứng yêu cầu này, nhiều ý kiến cho rằng pháp luật cần đơn giản hơn khi quy định về thủ 
tục áp dụng các biện pháp xử lí hành chính khác. 
 100
Các biện pháp xử lí hành chính khác bao gồm: 
2.3.1. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn 
Biện pháp này do chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định áp dụng đối với 
những đối tượng vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Pháp lệnh xử lí 
vi phạm hành chính năm 2002 để quản lí giáo dục họ tại nơi cư trú trong thời hạn từ ba 
tháng đến sáu tháng. Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức, phối 
hợp với cơ quan, tổ chức xã hội, đơn vị dân cư ở cơ sở và gia đình quản lí, giáo dục 
những đối tượng vi phạm pháp luật nhằm giúp đỡ họ sửa chữa sai phạm để họ trở 
thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc 
sống cộng đồng. 
Đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bao gồm: 
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội 
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự; 
- Người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh 
bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng; 
- Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên, người bán dâm có tính chất thường 
xuyên từ đủ 14 tuổi trở lên có nơi cư trú nhất định; 
- Người trên 55 tuổi đối với nữ và trên 60 tuổi đối với nam thực hiện hành vi xâm 
phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài, tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân 
phẩm của công dân, của người nước ngoài, vi phạm trật tự, an toàn xã hội có tính chất 
thường xuyên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. 
Quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải ghi rõ ngày, tháng năm ra quyết định; 
họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư 
trú của người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn; hành vi vi phạm pháp luật của 
người đó; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn áp dụng, ngày thi 
hành quyết định; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình được giao giáo dục, quản lí 
người được giáo dục; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định giáo dục tại xã, 
phường, thị trấn theo quy định của pháp luật. 
2.3.2. Đưa vào trường giáo dưỡng 
Đây là biện pháp xử lí hành chính khác do chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện 
quyết định áp dụng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật trong thời hạn từ 
6 tháng đến 2 năm nhằm tạo điều kiện cho những đối tượng này được học văn hoá, 
được giáo dục hướng nghiệp, học nghề, sinh hoạt, giáo dục dưới sự quản lí, giáo dục 
của nhà trường. 
Theo quy định của pháp luật, đối tượng bị đưa vào trường giáo dưỡng bao gồm: 
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội 
phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự; 
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội 
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự mà 
trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp 
dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; 
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp vặt, 
lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng mà trước đó đã bị áp dụng biện 
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng 
không có nơi cư trú nhất định. 
 101
Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng phải ghi rõ ngày, tháng năm ra quyết định; 
họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày tháng, năm sinh, nơi cư trú của 
người được đưa vào trường giáo dưỡng; hành vi vi phạm pháp luật của người đó và 
điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn và nơi thi hành quyết định; 
quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào trường giáo dưỡng theo quy 
định của pháp luật. 
2.3.3. Đưa vào cơ sở giáo dục 
Biện pháp xử lí hành chính này được áp dụng đối với những người thực hiện hành 
vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài, tài sản, sức khoẻ, danh dự, 
nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài, vi phạm trật tự, an toàn xã hội có tính 
chất thường xuyên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị áp dụng 
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng 
không có nơi cư trú nhất định. 
Người bị áp dụng biện pháp này là người từ đủ 18 tuổi và không quá 60 tuổi đối 
với nam, không quá 55 tuổi đối với nữ. Những đối tượng này được học tập, lao động 
trong các cơ sở giáo dục do Bộ công an quản lí. 
Thời hạn áp dụng biện pháp này là từ sáu tháng đến hai năm. Biện pháp này do chủ 
tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định áp dụng theo thủ tục được pháp luật quy 
định. 
Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng năm ra quyết định; họ, 
tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi 
cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; 
điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn và nơi thi hành quyết định; 
quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định 
của pháp luật. 
2.3.4. Đưa vào cơ sở chữa bệnh 
Đây là biện pháp xử lí hành chính khác do chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện 
quyết định áp dụng trong thời hạn từ 1 năm đến 2 năm đối với người nghiện ma tuý 
hoặc trong thời hạn từ 3 tháng đến 18 tháng đối với người bán dâm phải lao động, học 
văn hoá, học nghề và chữa bệnh dưới sự quản lí của cơ sở chữa bệnh. 
Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bao gồm: 
- Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại 
xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú 
nhất định; 
 - Người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng 
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng 
không có nơi cư trú nhất định. 
Không đưa vào cơ sở chữa bệnh người bán dâm dưới 16 tuổi hoặc trên 55 tuổi. 
Việc lập hồ sơ xét duyệt và quyết định đưa người vào cơ sở chữa bệnh phải đảm 
bảo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền đã được pháp luật quy định. 
Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh phải ghi rõ ngày, tháng năm ra quyết định; họ, 
tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi 
cư trú của người được đưa vào cơ sở chữa bệnh; hành vi vi phạm pháp luật của người 
đó và điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn và nơi thi hành quyết 
định; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy 
 102
định của pháp luật. 
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ BÀI TẬP TÌNH HUỐNG 
1. Phân tích những dấu hiệu đặc trưng của vi phạm hành chính. 
2. Phân tích những dấu hiệu của mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của vi 
phạm hành chính. 
3. Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm. 
4. Phân tích các nguyên tắc của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính và lấy 
những dẫn chứng pháp luật cụ thể để minh họa. 
5. Phân biệt xử phạt vi phạm chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. 
6. Ngày 2/10 năm 2002, quan kiểm tra, thanh tra viên của Sở địa chính đã phát hiện 
ra công trình xây dựng nhà mà ông Nguyễn Văn A, trú tại xã XH huyện YT đang xây 
dựng đã lấn chiếm phần đất thuộc quyền sử dụng của một cơ quan nhà nước. Sau khi 
lập biên bản về hành vi vi phạm này, ngày 11 tháng 10 năm 2002, cấp có thẩm quyền 
đã ra quyết định xử phạt ông A với nội dung: 
- Phạt tiền đối với ông Nguyễn Văn A; 
- Buộc ông Nguyễn Văn A phải tháo dỡ công trình xây dựng đã lấn chiếm phần đất 
thuộc quyền sử dụng của cơ quan nhà nước. 
Do lỗi của cơ quan có thẩm quyền, ngày 8 tháng 12 năm 2003, người ta phát hiện 
ra rằng quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên chưa được thi hành và công 
trình xây dựng lấn chiếm đất nêu trên vẫn còn tồn tại. Để giải quyết tình trạng này, 
ngày 15 tháng 12 năm 2003, cấp có thẩm quyền đã tổ chức cưỡng chế dỡ bỏ phần công 
trình xây dựng trái phép đồng thời ban hành quyết định xử phạt khác (phạt tiền) thay 
thế quyết định xử phạt cũ đã ban hành áp dụng đối với ông Nguyễn Văn A. 
Anh (chị) hãy nhận xét về cách xử lý nêu trên của cấp có thẩm quyền. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_luat_hanh_chinh_va_to_tung_hanh_chinh_nguyen_van.pdf