Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học (Phần 1)
Tóm tắt Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học (Phần 1): ...i là bị lọai bỏ, khi ấy nó trở thành tri thức cơ bản, phổ thông, nằm trong mặt bằng trình độ dân trí v.v Nghiên cứu cơ bản được chia thành hai loại: nghiên cứu cơ bản định hướng và nghiên cứu cơ bản tự do. Nghiên cứu cơ bản định hướng là nhắm vào một số mục đích ứng dụng nào đó. Nghiên cứu c...ủa sự vật, sự việc. Không chú ý đến tính lịch sử, tức là không tôn trọng sự hình thành, phát triển tất yếu của sự vật, sự việc trong một quá trình, tức là không tôn trọng quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Cho nên, lịch sử chính là lô gích. Như Ăng Ghen đã viết: “Phương pháp lô gích ... với cách này, nhà nghiên cứu phải đặt vấn đề thật giản dị dễ hiểu (ở nhóm trước), biết lắng nghe, ít nói, đồng thời biết gợi ý, hướng các cuộc trao đổi đúng hướng và đặc biệt là tìm các chuyên gia cho các nhóm khác nhau. 2.5.2.6. Các bước đi trong điều tra giáo dục. 20 a. Chọn mẫu điều ...
iện. Chú ý : Cần tập trung vào nội dung của phiếu quan sát ( tức là yêu cầu người quan sát cái gì ). Mỗi đề tài quan sát với mục đích trên, viết ích nhất 4 yêu cầu dưới dạng câu hỏi. 2.5.2. Phương pháp điều tra trong giáo dục. 2.5.2.1.Khái niệm: Cũng như trong nghiên cứu KHXH, phương pháp điều tra trong giáo dục cũng như tiến hành thường xuyên. Khác với phương pháp quan sát, phương pháp này thể hiện qua việc tác động trực tiếp của người nghiên cứu vào đối tượng nghiên cứu thông qua câu hỏi để có thông tin cần thiết cho công việc của mình. Tùy theo tính chất quan trọng hoặc tính quy mô của đề tài nghiên cứu có thể hỏi trực tiếp hoặc gián tiếp qua điện thoại, bưu điện hoặc bằng một vài câu hỏi, hoặc một bảng câu hỏi. 2.5.2.2. Mục đích của phương pháp : phương pháp này nhằm mục đích thu nhận số liệu, sự suy nghĩ, quan điểm v.vtrên một số lượng lớn đối tượng nào đó để từ đó có thể phán đoán, tìm ra nguyên nhân, tính phổ biến, hoặc một biện pháp giải quyết vấn đề trong giáo dục. 2.5.2.3. Hai đặc điểm chính của phương pháp điều tra trong giáo dục. - Phương pháp được thực hiện trên số lượng lớn đối tượng. - Tuy số lượng lớn đối tượng mang tính thống kê, nhưng kết quả chưa phải là chân lý.Có hai yếu tố ảnh hưởng đến kết quả : chủ quan người trả lời và chủ quan người nhận định của người nghiên cứu. Vì vậy trước tiên người nghiên cứu phải có một số kĩ năng và kinh nghiệm cần thiết, đặt biệt là kĩ năng hỏi và óc suy luận thì mới hạn chế được các nhược điểm ấy. Đôi khi đối với những vấn đề quan trọng cần phải tổ chức thực nghiệm để kiểm chứng. 2.5.2.4. Hai loại điều tra. 19 - Điều tra cơ bản trong giáo dục : Học vấn chung, kết quả học tập, chỉ số thông minh ở học sinh, quan điểm của giáo viên (về nhiều vấn đề), ý thức học sinh đối với một số vấn đề trong xã hội v.vĐiều tra cơ bản thường được thực hiện bằng hệ thống các câu hỏi. - Trưng cầu ý kiến về một quan điểm, một cách làm trong giáo dục. Loại này thường điều tra bằng phỏng vấn trực tiếp. 2.5.2.5. Các hình thức điều tra trong giáo dục. - Phỏng vấn có chuẩn bị trước (bằng câu hỏi): Theo phương pháp này, nhà nghiên cứu in sẵn bảng câu hỏi rồi giao cho đối tượng ( giao trực tiếp, giao qua cộng tác viên, giao qua điện thoại ). Tất nhiên nhà nghiên cứu phải làm sao để đối tượng hiểu được mục đích câu hỏi mà trả lời cho đúng và đúng sự thật. - Phỏng vấn không, chuẩn bị trước: theo cách này, người nghiên cứu phải có sẳn chủ đề để phỏng vấn để khi làm việc không hỏi lan man. Người phỏng vấn phải là nhà nghiên cứu lão luyện để có thể ứng phó, tự điều chỉnh hướng trao đổi và đặc biệt là có thể có ngay những câu hỏi sắc bén, khéo léo tế nhị. Phương cách này có thể thực hiện cả bằng điện thoại. - Nhóm trọng điểm (phương pháp não công – Brain storming). Đó là một kiểu điều tra đặc biệt nhằm tìm kiếm những ý tưởng sáng tạo trong công việc. Tiến trình của phương pháp làm này như sau : để giải quyết một khó khăn nào đó đang bị bế tắc, nhà nghiên cứu tổ chức một cuộc trao đổi một nhóm các nhà chuyên môn (không nhất thiết phải giống nhau). Những người này rất giàu trí tưởng tượng, họ được quyền đề xuất bất kì lời giải nào, thậm chí những đề xuất ấy có vẻ như ngô nghê, không nghiêm túc. Không ai được bình luận phê phán. Có 2 thư ký ghi trọn vẹn các cuộc trao đổi (kéo dài vài giờ). Nhà nghiên cứu lấy các đề xuất ấy và tổ chức một cuộc trao đổi khác trong nhóm các chuyên gia hỏi bình luận và nhận xét. Lại một lần nữa nhà nghiên cứu lắng nghe họ nói để lọc lựa ý tưởng hay từ nhóm này. Đối với cách này, nhà nghiên cứu phải đặt vấn đề thật giản dị dễ hiểu (ở nhóm trước), biết lắng nghe, ít nói, đồng thời biết gợi ý, hướng các cuộc trao đổi đúng hướng và đặc biệt là tìm các chuyên gia cho các nhóm khác nhau. 2.5.2.6. Các bước đi trong điều tra giáo dục. 20 a. Chọn mẫu điều tra : Mẫu điều tra là số lượng cá thể hoặc đơn vị được chọn để trả lời câu hỏi nhà nghiên cứu. Vì yêu cầu của nhà nghiên cứu là phải khách quan, bảo đảm tin cậy nên mẫu phải thỏa mãn: - Chọn phần tử phải thật khách quan. - Kích thước mẫu ( số phần tử trong mẫu ) phải đủ lớn. Một số khái niệm cần biết về mẫu : - Mẫu tổng: Tất cả mọi đối tượng mà nhà nghiên cứu hướng tới. Ví dụ : trong một cuộc điều tra chất lượng sinh viên của trường Đại học Cần Thơ, thì mọi sinh viên đều nằm trong mẫu tổng. - Mẫu đặc trưng : mẫu bao gồm mọi phần tử có nét đặc trưng cần nghiên cứu. Việc chọn các thành viên nghiên cứu gọi là lấy mẫu. * Lấy mẫu phi xác suất : thực chất bảng lấy mẫu này chỉ là để thử bảng câu hỏi, nghiên cứu sơ bộ nên việc chọn mẫu vẫn mang tính ngẫu nhiên, số phần tử không nhiều. Có các hình thức như : * Lấy mẫu thuận tiện : không chú ý đến tính chất đại diện, chỉ cần thuận tiện ( dễ, gần, nhanh ) cho nhà nghiên cứu. * Lấy mẫu tích lũy nhanh : chọn một số phần tử ban đầu, từ các phần tử ấy nhân ra phần tử (thứ cấp). Ví dụ chọn 10 học sinh trong lớp, yêu cầu 10 học sinh đó mỗi em chọn 3 em khácTùy theo số phần tử định nghiên cứu, có thể số phần tử « thứ cấp » ấy lại tiếp tục chọn thêm nữa để đủ số lượng phần tử của mẫu. * . Lấy mẫu xác suất : Lấy mẫu ngẫu nhiên thông thường. Bằng cách rút thăm. Bằng cách ngẫu nhiên. Ngày nay, máy tính dễ dàng cho phép ta chọn mẫu ngẫu nhiên này. *. Lấy mẫu hệ thống : Trường hợp này dành cho các đối tượng điều tra giống nhau. Ví dụ : điều tra dân số có đối tượng là mọi người dân. Điều tra về học sinh một trường có đối tượng là một học sinh đang học. Các bước tiến hành như sau : + Lập danh sách tất cả các phần tử hiện có. + Tùy theo kích thước mà chon bước nhảy k (tức là cách mấy số lấy một số ). 21 + Lấy các phần tử theo bước nhảy k với phần tử xuất phát là tùy ý cho đề khi đã đủ kích thước mẫu. * Lấy mẫu theo nhóm ngẫu nhiên : Đôi khi cần điều tra trên diện rộng và nhiều địa bàn khác nhau, ta có thể chọn mẫu theo kiểu này. Ví dụ điều tra về học vấn của mọi người dân của một tỉnh (mẫu tổng thể (MTT), ta không thể phỏng vấn tất cả người dân trong tỉnh đó mà chỉ cho mẫu ngẫu nhiên (mẫu nghiên cứu – MNC). Nếu chọn như các kiểu trên thì rất bất tiện. Ta có cách chọn khác: giả sử tỉnh có 3 huyện, các huyện có số xã khác nhau (sơ đồ). Nếu 3 huyện có điều kiện tương đương nhau thì chúng ta có thể chọn 2 hoặc 1 huyện làm MNC. Tuy nhiên không thể lấy tất cả các xã ra nghiên cứu. Vậy phải chọn ngẫu nhiên các xã. Ở mỗi xã cũng chọn ngẫu nhiên ấp, rồi chọn ngẫu nhiên gia đình v.v Hình 1 : Lấy mẫu ngẫu nhiên theo sơ đồ hành chính - Thiết kế bảng câu hỏi : Bảng câu hỏi là một hệ thống câu hỏi đưa ra để các cá nhân, đơn vị trả lời. Kết quả trả lời sẽ được xử lý để có thể nhận định cho mục tiêu đã được đề ra của đề tài nghiên cứu. Vì vậy vấn đề chính ở đây là các câu hỏi. Hai loại câu hỏi thường dùng: + Câu hỏi đóng : là loại câu hỏi yêu cầu người trả lời chỉ đánh dấu vào khả năng cho trước. Có nhiều câu hỏi đóng. Loại có 2 khả năng trả lời: Bảng câu hỏi chỉ yêu cầu trả lời có hoặc không Ví dụ: Bạn có đồng ý với nhận xét : « » Đồng ý Không đồng ý Bạn thành lập gia đình chưa ? Đã Chưa Chú ý: Câu hỏi này phải đặt người trả lời vào hoàn cảnh rõ ràng (một trong hai khả năng). Tránh các câu hỏi như: Bạn có thường ( khó xác định chữ « thường » là TỈNH (mẫu tổng thể ) Huyện 2 Huyện 3 Huyện 1 Xã a Xã b Xã y Xã z Xã e Xã f 22 khoảng nào để trả lời có hoặc không). Đôi khi câu hỏi nhận định người ta thêm khả năng thứ 3 là không biết. Loại có nhiều khả năng trả lời : Câu hỏi này dùng trong trường hợp người trả lời phải đánh giá một vấn đề nào đó mà người nghiên cứu cần biết chính xác hơn 2 khả năng là « tốt » hoặc « xấu ». Người trả lời gặp câu hỏi này sẽ thoải mái hơn khi trả lời. Ví dụ: Theo bạn hình thức trình bày của cuốn SGK là : Xấu Tạm được Đẹp Rất đẹp Bạn đánh giá kỷ cương học tập trong trường bạn thế nào ? Rất kém Trung bình Khá Tốt Rất tốt Bạn cảm thấy an toàn thế nào nơi làm việc của bạn. Hãy khoanh tròn vào trong những số dưới đây, chiều tăng là tốt. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 + Câu hỏi mở: Đây là loại câu hỏi mà người trả lời có thể nói (viết) vài câu để giải trình một vấn đề nào đó. Mục đích của câu hỏi này là bổ sung cho các câu hỏi đóng hoặc nhà nghiên cứu cần hiểu sâu hơn về tâm tư, tình cảm, thái độ của người trả lời đối với vấn đề đang nghiên cứu. Chú ý : Yêu cầu người trả lời không (nói) viết dài. Nếu là bảng câu hỏi chừa chổ viết cho người trả lời sao cho đủ chứa khoảng 5 câu viết dài tối đa. Ví dụ : Sau khi dùng câu hỏi đóng về vấn đề học tập của một lớp học mà giáo viên chủ nhiệm là người trả lời, có thể hỏi thêm vài câu gợi mở : - Bạn có biết thêm về thực trạng tình hình phức tạp của lớp. - Truyền thống của lớp này (về học tập) từ năm học trước tới giờ như thế nào. - Các giáo viên chuyên môn đánh giá về lớp này thế nào. * Những chú ý về đặt câu hỏi : - Câu hỏi phải đơn giản, thích hợp với mục đích nghiên cứu, dễ trả lời. Tránh đặt câu hỏi không cần thiết, câu hỏi hình tượng. Ví dụ: + Bạn tốt nghiệp đại học năm nào (tốt) ? + Trường này có nhiều giáo viên lâu năm, có kinh nghiệm. Bạn có cho rằng bạn thuộc giáo viên đó chăng ? (dài dòng không cần thiết) + Mọi người cho rằng bạn là cây đa, cây đề của trường, bạn có đồng ý không (hình tượng không cần thiết) ? 23 Không dùng những từ ngữ, khái niệm khó hiểu, vượt quá khả năng người trả lời, từ ngữ nước ngoài Ví dụ : + Bạn thấy bằng Diploma (hoặc master) khi nào ? + Hình như thí nghiệm của bạn là thí nghiệm mô phỏng ? Câu hỏi phải đơn trị (chỉ có 1 cách trả lời). Ví dụ: + Bạn có nâng cao trình độ, lấy bằng Thạc sĩ không ? (Nâng cao trình độ không đồng nghĩa với lấy bằng Thạc sĩ. Đây là câu đa trị). Không cần thiết đi vào đời tư của người trả lời, làm người ta khó nói. Ví dụ : + Tránh hỏi phụ nữ về tuổi tác, đời tư. + Tránh hỏi trực tiếp (khi không cần thiết) về trình độ, thái độ bản thân, khả năng v.vnhư : Anh dạy có giỏi không ? Anh có yêu nghề không ? Trong trường hợp cần thiết để biết những vấn đề ấy, cần chuẩn bị một số câu hỏi « cầu vòng » làm cơ sở phán đoán. + Tránh hỏi những câu hỏi mà ta biết chắc câu trả lời. + Đồng lương giáo viên của anh có đủ sống không ? ( chắc chắn là không ). + Anh đi dạy có soạn giáo án không ? ( chắc chắn là có ). Cấu trúc bảng câu hỏi. Thông thường bảng câu hỏi có hàng chục câu hỏi. Bên cạnh các câu hỏi còn có những lời giải thích để làm người ta hiểu rõ nội dung và các cách trả lời. Vì vậy, mỗi bảng hỏi gồm nhiều trang. Nếu bảng câu hỏi không sạch, không sáng sủa thì nó sẽ làm người ta lúng túng, đôi khi bực bội, điều đó ảnh hưởng nhiều đến kết quả điều tra. Ngoài ra cần chú ý đến bảng cấu trúc của câu hỏi. Nó gồm 3 phần. - Phần đầu : Gồm những vấn đề chung với nội dung tìm hiểu đối tượng ( tên, năm sinh, nơi ở v.v). Ngoài ra phần mở đầu cũng nhằm mục đích khởi động cho cuộc giao tiếp, định hướng cho giao tiếp. - Phần chính : Những câu hỏi phục vụ mục đích điều tra. - Phần kiểm chứng : Phần này có thể bao gồm 2 loại câu hỏi ngằm mục đích làm rõ thêm cho phần chính hoặc đôi khi kiểm chứng lại vấn đề nào đó để xác định đối tượng trả lời thật hay không thật. 24 b. Xử lý số liệu. BÀI TẬP 1. Bạn muốn điều tra về tình hình giảng dạy của giáo viên. Một mục nhỏ trong bảng điều tra là bạn muốn biết người trả lời là giáo viên giỏi hay không và không thể hỏi trực tiếp. Bạn hãy đặt hệ thống câu hỏi (ít nhất là 3 câu) để sau khi họ trả lời bạn có thể đạt được mục đích của mình và tại sao bạn phán đoán được ? 2. Cũng như nhiệm vụ trên nhưng nội dung khác, bạn hãy đặt hệ thống câu hỏi để biết cô giáo trẻ đã lập gia đình hay chưa (bạn không thể hỏi thẳng cô có chồng chưa ?) 2.5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm ( PPTNSP ). 2.5.3.1.Khái niệm : Thực nghiệm sư phạm là phương pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi số lượng, chất lượng trong nhận thức và hành vi của đối tượng giáo dục do nhà khoa học tác động đến chúng bằng một số tác nhân điều khiển và được kiểm tra. PPTNSP được dùng khi đã có kết quả điều tra, quan sát các hiện tượng giáo dục, cần khẳng định lại cho chắc chắn các kết luận đã được rút ra. PPTNSP cũng là phương pháp được dùng khi nhà khoa học sư phạm, nhà nghiên cứu đề ra một phương pháp giáo dục, một phương pháp dạy học mới, một nội dung giáo dục hay dạy học mới, một cách tổ chức dạy học mới, một phương tiện dạy học mới v.v TNSP là so sánh kết quả tác động của nhà khoa học lên một nhóm lớp, gọi là nhóm thực nghiệm, với một nhóm tương đương không được tác động (dạy, giáo dục theo cách bình thường vẫn được giáo viên phổ thông sử dụng) gọi là nhóm đối chứng. Để có kết quả thuyết phục hơn, sau một đợt nghiên cứu có thể đổi vai trò của hai lớp cho nhau, nghĩa là nhóm thực nghiệm trở thành nhóm đối chứng và ngược lại. Vì là thực nghiệm trên con người nên từ việc tổ chức đến cách thực hiện phương pháp và lấy kết quả đều mang tính phức tạp của nó. 2.5.3.2. Đặc điểm của PPTNSP. Xuất phát của phương pháp này là các giả thuyết (từ thực tế), các phán đoán, (bằng tư duy, bằng việc đưa ra phương pháp dạy học mới, bằng việc sử dụng phương 25 tiện dạy học mới ) để khẳng định, hoặc bác bỏ chúng. Điều này, các giả thuyết, giả định hoặc phán đoán ) bắt buộc phải có trong bài viết ( xem phần, mục 5.3.0. ) Kết quả TNSP có thể là khẳng định (hoặc phủ định) cái mới, tìm ra lý thuyết mới, quy luật mới hoặc một sự phát triển mới trong giáo dục. Vì đối tượng là con người, là số đông nên số đo hoặc các mã hóa kết quả không hoàn toàn chính xác nên cần được xử lý bằng thống kê. Vai trò của phương pháp quan sát và điều tra vẫn còn được tiếp tục sử dụng ở đây, nếu nhà nghiên cứu cần một số liệu bổ sung hoặc kiểm tra lần cuối sau khi PPTNSP đã có kết quả. 2.5.3.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm. Các nội dung cần TNSP: a. Nội dung nghiên cứu rút ra rừ các kết luận của quan sát sư phạm, của điều tra. Ví dụ: - Khi quan sát một lớp học, nhà khoa học có nhận định rằng: học sinh lớp này có nhiều vấn đề chưa tốt như mất đoàn kết, khó tổ chức sinh hoạt tập thể, không chăm học Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy đa số học sinh rất hiếu động, một số học sinh có khả năng về môn thể thao, nhà nghiên cứu nhận định: Nếu tổ chức cho em chơi thể thao ngoài giờ (cả trong giờ giải lao), có chú ý vận động những em giỏi từng môn thể thao làm người phụ trách thì có thể tập hợp học sinh này dễ hơn, dễ giáo dục hơn (đó cũng là một giả thuyết). - Khi điều tra về mức sống của gia đình học sinh ở thành phố, tất cả một trong số câu trả lời cho biết 90% gia đình học sinh có đầu máy video và tivi. Nhà khoa học phán đoán rằng có thể tận dụng phương tiện này để tổ chức cho học sinh học tập ở nhà môn sinh vật, nâng cao kết quả học tập môn này. (Bằng các chương trình thường lệ của đài truyền hình trung ương, bằng những cuốn băng học tập tự tạo ). b. Các ý đồ vận dụng phương pháp mới, phương tiện dạy học mới, các hình thức tổ chức học tập mới. Ví dụ: Một thầy giáo sáng chế ra dụng cụ thí nghiệm mới, muốn khẳng định rằng dùng nó có thể nâng cao chất lượng các vấn đề có liên quan đến sử dụng các dụng cụ ấy. Nhà phương pháp, muốn vận dụng một phương pháp dạy học mới. 26 c. Nhà nghiên cứu muốn khẳng định nội dung dạy học mới. Ví dụ : Một hệ thống sách tham khảo cho học sinh. Thay đổi cấu trúc nội dung một bài học, một chương. 2.5.3.4. Các công việc củaTNSP : a. Các công việc chuẩn bị thực nghiệm : Khi đã có giả thuyết cho đề tài nghiên cứu, ví dụ : đề tài về việc sử dụng một phương pháp dạy học mới, ta tiến hành hoạch định công việc và các bước tiến hành. - Chọn nội dung, nơi thực nghiệm. Sẽ thực hiện những bài nào, chương nào ? Một trường hay nhiều trường, bao nhiêu lớp ? Liên hệ với trường được chọn, thống nhất kế hoạch làm việc. Giáo viên sở tại dạy theo giáo án nhà khoa học soạn ( nếu vậy phải thảo luận, tập huấn việc thực hiện giáo án ) hay bản thân nhà khoa học sẽ trực tiếp dạy. - Sọan giáo án và chuẩn bị phương tiện. - Dự kiến phương án và chuẩn bị phương tiện. - Dự kiến phương án đánh giá và phương pháp đánh giá cụ thể ( bao nhiêu lần kiểm tra, hình thức và nội dung kiểm tra, lựa chọn cách tính toán). - Chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Trong điều kiện lý tưởng, nhà khoa học có cơ sở thực nghiệm riêng. Các lớp cơ sở thực nghiệm đã được sắp xếp sẵn hoặc xin phép sở giáo dục đào tạo và trường phổ thông, một số học sinh đủ (để thực nghiệm sư phạm) về cơ sở mình để tổ chức các lớp thực nghiệm ( ngoài giờ học chính ở Trường phổ thông ) sự tương đương của 2 nhóm được nhìn nhận ở các yếu tố sau : - Số học sinh ( nam, nữ ). - Học lực. - Tinh thần học tập. Ở điều kiện hiện nay, đòi hỏi điều kiện chuẩn như trên là phi thực tế. Ta phải tổ chức thực nghiệm trên trường và lớp có sẵn, vì vậy các yếu tố trên được xem xét một cách tương đối. Việc chọn 2 nhóm lớp diễn ra tương đối đơn giản, chủ yếu là trình độ giữa 2 nhóm lớp không khác biệt nhau nhiều. Có thể chọn một số lớp trong khối có 27 học lực tương đương để chọn ra lớp thực nghiệm (vài lớp). Cũng cách chọn ấy, áp dụng cho trường khác ( nếu cần TNSP nhiều trường ). b . Tiến hành thực nghiệm ở lớp thực nghiệm và đánh giá : (theo kế hoạch đề ra ở bước a ). c. Xử lý kết quả bằng thống kê. d. Viết bài. 2.5.3.5. Những yếu tố tác động lên kết quả của PPTNSP. a. Nguồn nghiên cứu. Ở đây muốn nói đến xuất phát điểm cho việc nghiên cứu bằng TNSP. Những sự quan sát không khách quan, điều tra không chính xác, hoặc các nguồn tài liệu không đáng tin cậy sẽ làm ta có những giả thuyết thiếu cơ sở. Đôi khi những nhận định chủ quan về một sự kiện, một tình huống sư phạm cũng sẽ ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. b. Việc chọn nhóm nghiên cứu. - Tri thức nhà nghiên cứu cũng là nguồn nghiên cứu, do vậy có thể nhà nghiên cứu đặt giả thuyết không đúng hướng. - Nhà nghiên cứu nhận định sau thống kê là chưa hợp lý, chưa khái quát. 2.5.4. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm. Trong quá trình phát triển của nền giáo dục nước ta, các phong trào thi đua xây dựng nhà trường thành trường tiên tiến, sự phấn đấu của giáo viên để trở thành giáo viên giỏi luôn được nối tiếp. Nhiều công trình nghiên cứu viết về các trường tiên tiến và giáo viên giỏiđã được thực hiện nhằm phổ biến sâu rộng trong nước, nhân các nhân tố ấy lên nhiều hơn. Nói cách khác, các đơn vị giáo dục, các cá nhân giáo viên có thể học tập kinh nghiệm lẫn nhau, cách làm của các đơn vị cá nhân điển hình thông qua các công trình nghiên cứu ấy. Phương pháp này gọi là phương pháp tổng kết kinh nghiệm ( PPTKKN ). Mục đích của PPTKKN là tìm hiểu bản thân, nguyên chất, nguyên nhân và cách giải quyết tình huống giáo dục ở một đơn vị giáo dục, nghiên cứu con đường đi có hiệu quả, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm dạy giỏi, tìm nguyên nhân thất bại của một đơn vị giáo dục v.v Phương pháp này thường được thực hiện theo các bước sau đây: - Chọn đối tượng tốt ( kém ) để nghiên cứu. 28 - Sưu tầm tài liệu : văn bản báo cáo, các bài viết về đối tượng nghiên cứu (nếu có), phỏng vấn. - Xây dựng mô hình lý thuyết (cấu trúc đơn vị, phân loại thành tích ) - Phân loại, hệ thống để rút ra bài học kinh nghiệm, quy luật giáo dục - Viết bài. Ví dụ : « Bài nghiên cứu về một giáo viên dạy giỏi. » a. Xác định đối tượng nghiên cứu. - Qua sự giới thiệu của Sở giáo dục và đào tạo. - Qua sự giới thiệu của ban giám hiệu. - Tìm hiểu sơ bộ qua một số giáo viên và học sinh. b. Sưu tầm tài liệu. - Lấy tài liệu qua tọa đàm với ban giám hiệu, tổ chuyên môn. - Các bản báo cáo thi đua của cá nhân. - Dư giờ, trắc nghiệm học sinh. - Xem các thiết kế chế tạo đồ dùng dạy học và sản phẩm. c. Mô hình một giáo viên dạy giỏi. - Khả năng giảng dạy. - Kết quả giảng dạy. - Nâng cao trình độ. - Số lượng sáng kiến. d. Phân tích và rút ra kết luận. e. Viết bài.
File đính kèm:
- giao_trinh_phuong_phap_nghien_cuu_khoa_hoc_phan_1.pdf