Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học (Phần 2)

Tóm tắt Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học (Phần 2): ...hình thức vẫn được coi trọng. 4.2. Quá trình thực hiện một luận văn. 4.2.1. Chọn đề tài: Luận văn tốt nghiệp đại học là công trình đầu tay của sinh viên và nó có xu hướng chuyên sâu hơn trong quá trình học tập ở đại học. Luận văn thạc sĩ và tiến sĩ càng đi sâu hơn. Vì vậy, chất lượng luận ...làm cho họ hiểu được mục đích của công trình đó, ý đồ của tác giả, cách làm việc của tác giả và những nội dung chính, « cái tiêu » của công trình. Nội dung phần mở đầu tối thiểu bao gồm : - Lý do chọn đề tài : thể hiện mục đích của công trình. - Lịch sử nghiên cứu vấn đề : trình bày khái q... aquatic culture in the Mekong Delta, popularize the consciousness of environmental protection in farmer household, carry out the Law of environmental protection and the Law of biodiversity better.... Key words: Sutainable development – Agriculture production – Mekong Delta –The balance of ...

pdf29 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 125 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học (Phần 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y học. 
 2.1.1.1.Những yếu tố về tâm lý lứa tuổi. 
 2.1.1.2. Các phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp. 
 2.1.2. Các định hướng trong qua 1trình dạy học. 
 2.1.2.1................................. 
2.2. Nghiên cứu thực tiễn. 
 48
 v.v.................. 
 b) Nội dung đề mục. 
 Việc thống nhất cách viết một công trình còn thể hiện ở phân bố nội dung đề 
mục và hình thức viết của chúng. 
 - Phân bố nội dung đề mục phải có dung lượng tương đương, hoặc có ý nghĩa 
tầm quan trọng tương đương giữa các đề mục có cùng cấp. Ví dụ: các đề tài, mục 
mang số 1,2,3.......là cùng cấp. Các đề mục mang số 1.2, .1.3, 1.4......là cùng cấp. 
Những nội dung của đề mục cấp lớn phải bao trùm các nội dung đề mục cấp nhỏ hơn 
thuộc nó. 
 - Về hình thức trình bày: ngày nay có máy tính cho phép ta làm điều này nhanh 
chóng và tiện lợi. Các đề mục lớn chữ phải lớn và ngược lại. Các đề mục cùng cấp 
phải có cỡ chữ, kiểu chữ như nhau. 
 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Cành ( 2004), “ Phương pháp và phương pháp nghiên cứu khoa 
học kinh tế”, NXB Đại học quốc gia, TPHCM. 
2. Phan Dũng, ( 2007), “ Phương pháp luận sáng tạo khoa học kỹ thuật” 
NXBKH-KT, HN. 
3. Vũ Cao Đàm, ( 1996) “ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB KH-
KT, HN. 
4. Nguyễn Tiến Đức, ( 2006), “ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB 
Thống Kê, HN. 
5. Lê Phước Lộc, (1994) “ Phân tích chương trình vật lý phổ thông”, Đại học Cần 
Thơ. 
6. Ngô Đình Quả, ( 2005) “ Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học giáo 
dục”, NXB TPHCM. 
7. Nghị quyết đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ X......NXB Sự Thật, năm 2005. 
8. Lê Quang Sơn ( 2005) “ Dạy học theo phương pháp nghiên cứu khoa học, 
phương pháp thích hợp với đào tạo đại học”, Tạp chí Đại học sư phạm Đà 
Nẳng, tháng 5. 
9. Dương Thiệu Tống, ( 2002), “ Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và 
tâm lý”, tập 1, NXB Đại học QG, TPHCM. 
10. Đỗ Công Tuấn, ( 2004), “ Lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học” , 
NXB chính trị QG, HN. 
11. Từ Điển Triết học ( Tiếng Việt), ( 1998), NXB Sự Thật Mát xcơ va. 
 50
PHỤ LỤC 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG SẢN 
XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở ĐBSCL 
 TS. Trần Văn Hiếu 
ABSTRACT 
Sustainable development is the common tendency of the world in the present 
time. To develop subtainably the agricultural production in the Mekong Delta, we 
need to combine multipurposes to get the balance on the benifits in economy, society 
and environment. The development serves the demands of the present generation and 
will not cause any bad effects for the ones in the future. In the past years, the 
argricutural production in the Mekong Delta has gained many important 
acchivements, espectially in culturing and cultivating. However, the rapid and 
unplanned development had caused serious impacts which has destroyed the 
environment, ruined the balance of ecosystems and influenced the sustainable 
development. 
To solve this problem, the author says that we have to plan the argricultural 
production and aquatic culture in the Mekong Delta, popularize the consciousness of 
environmental protection in farmer household, carry out the Law of environmental 
protection and the Law of biodiversity better.... 
 Key words: Sutainable development – Agriculture production – Mekong Delta 
–The balance of ecosystem – biodiversity – the conciousness of environmental 
protection.Keywords: 
Title: Some problems about stainable development in argricultural production in the 
Mekong Delta.TÓM TẮT 
Phát triển bền vững là khuynh hướng chung của thế giới trong thời đại ngày 
nay. Để phát triển một cách bền vững sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL, chúng ta cần 
kết hợp đa mục tiêu để đạt đến sự cân bằng về lợi ích: kinh tế, xã hội và môi trường. 
Sự phát triển đó nhằm phục vụ nhu cầu của thế hệ hiện tại và sẽ không gây ra bất kỳ 
ảnh hưởng xấu nào tới các thế hệ tương lai. Trong những năm qua, sản xuất nông 
nghiệp ở ĐBSCL đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực 
trồng trọt và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng và không có 
kế hoạch đã gây ra những tác động nghiêm trọng làm hủy hoại môi trường , phá hủy 
môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Để giải quyết vấn đề này, 
 51
tác giả cho rằng chúng ta cần hoạch định lại sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy 
sản ở ĐBSCL, tuyên truyền, phổ biến cho hộ nông dân ý thức bảo vệ môi trường, thực 
hiện tốt Luật bảo vệ môi trường và Luật đa dạng sinh học v.v... 
Từ khóa: Phát triển bền vững - sản xuất nông nghiệp - Đồng bằng sông Cửu Long 
– Cân bằng sinh thái – đa dạng sinh học – Ý thức bảo vệ môi trường. 
1. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG, XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI NGÀY 
NAY 
Gần đây khái niệm phát triển bền vững ( Sustainable Developement ) được đề 
cập nhiều trên các sách báo kinh tế. Nói đến khái niệm phát triển kinh tế và phát triển 
xã hội, phát triển quốc gia hay phát triển địa phương, phát triển tòan cầu hay phát triển 
khu vực, phát triển đều theo nghĩa phát triển bền vững. Nghị quyết đại hội lần thứ IX 
Đảng cộng sản Việt Nam khi đề ra đường lối phát triển kinh tế cũng nhấn mạnh vấn đề 
phải gắn việc phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, thực hiện phát triển bền vững.
Thuật ngữ “phát triển bền vững” ra đời năm 1987 trong Báo cáo của Ủy ban 
quốc tế về môi trường và phát triển. GH. Bruntland là người đầu tiên nêu lên khái 
niệm này. Ngày nay, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, song có thể hiểu: Phát 
triển bền vững là sự phát triển đòi hỏi phải kết hợp đa mục tiêu để đạt tới sự cân bằng 
về lợi ích, kinh tế, xã hội và môi trường. Tiêu điểm của sự phát triển bền vững là bảo 
vệ được môi trường sinh thái, sự phát triển mà thỏa mãn được các nhu cầu hiện tại 
nhưng không làm tổn hại đến các thê hệ tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu của 
họ.[1] 
Tư duy phát triển mới này xuất phát từ tình hình vào những năm 70 của thế kỷ 
XX, các quốc gia trên thế giới muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đã có những 
phương thức huy động tối đa mọi tiềm năng, mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Với 
xu thế kinh tế thế giới như vậy, xã hội loài người sẽ đương đầu với nhiều nguy cơ và 
hiểm họa trong tương lai gần, đó là ô nhiễm môi trường sống, cạn kiệt tài nguyên thiên 
nhiên, đào sâu hố ngăn cách giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo v.v... 
 Những cảnh báo nghiêm túc của các nhà khoa học làm cho các quốc gia dần 
dần ý thức được mối quan hệ nhân quả giữa lối sống của loài người với môi trường 
sinh thái, giữa phát triển kinh tế với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Phát triển bền 
 52
vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến 
khả năng các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu của họ. 
Có 3 nội dung cơ bản về phát triển bền vững mà hiện nay các quốc gia đang 
theo đuổi: 
 - Một là, bảo đảm phát triển kinh tế nhanh và duy trì tốc độ ấy trong thời gian 
dài. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh thường đi liền với việc đầu tư lớn, khai thác tài 
nguyên thiên nhiên nhiều khi không giới hạn, chinh phục thị trường bằng mọi cách để 
tăng sản lượng, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Điều đó thường mâu thuẫn với phát 
triển bền vững, khó duy trì sự tăng trưởng dài lâu và chắc chắn làm ảnh hưởng đến thế 
hệ tương lai. 
- Hai là, môi trường sinh thái được bảo vệ tốt nhất. Vì vậy phải sử dụng các 
nguồn tài nguyên một cách tốt nhất, làm cho hệ sinh thái được tái sinh thường xuyên. 
Nghĩa là, nhịp độ sử dụng tài nguyên có khả năng tái sinh phải thấp hơn tốc độ tái 
sinh. Mức độ phát thải ô nhiễm phải thấp hơn khả năng xử lý của môi trường tự nhiên 
thông qua quá trình làm sạch và lọc khí tự nhiên (như rừng, cây xanh...). Các hoạt 
động kinh tế và mưu sinh của con người phải được coi là một bộ phận cấu thành của 
hệ sinh thái và do đó phát triển kinh tế phải bảo toàn sự cân bằng của hệ sinh thái. 
- Ba là, đời sống xã hội được bảo đảm. Muốn vậy thì trong sự phát triển phải 
tạo ra một xã hội hài hòa. Bền vững xã hội có nghĩa là không thể để một tầng lớp 
người hay nhóm người bị gạt ra ngoài tiến trình phát triển của một quốc gia, phân cực 
giàu nghèo quá mức, dân chủ, bình đẳng xã hội không được bảo đảm ... 
Như vậy, ý tưởng về phát triển bền vững biểu thị sự hài hòa, đồng tiến hóa và 
cộng sinh giữa con người, xã hội và giới tự nhiên. Trong mối quan hệ này, con người 
là trung tâm. Phát triển bền vững được hiểu là sự tương tác hài hòa giữa xã hội của con 
người và thiên nhiên nhằm bảo vệ sinh quyển mà con người đang sống trong đó và bảo 
đảm sự phát triển lâu dài vô hạn của con người. Mục đích của sự phát triển bền vững 
chủ yếu là giải quyết mâu thuẩn giữa nền văn minh và sinh quyển, cái mâu thuẫn có 
thể dẫn đến sự diệt vong của cả hai, nếu không được khắc phục kịp thời. 
Những nội dung chung nhất ấy đang được hiểu và thực thi trong những mô hình 
kinh tế và thể chế chính trị rất khác nhau và vì vậy kết quả đem lại cũng không giống 
nhau. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang 
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. 
 53
Phát triển kinh tế thị trường là biện pháp, là phương tiện để đạt mục đích phát triển 
kinh tế nhanh, hiệu quả. Tuy vậy, những hạn chế, những mặt trái của cơ chế thị 
trường, bản thân nó không thể bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Vì vậy, tư tưởng 
chiến lược của Đảng ta là: Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng 
trưởng kinh tế đi liền với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. 
 Từ Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã nhận thấy một trong bốn nguy cơ đối với 
nền kinh tế nước ta đối với thế giới là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhưng 
không vì nguy cơ tụt hậu mà lại muốn đi nhanh, không tính đến sự bền vững của nó. 
Cũng như không vì thiếu vốn đầu tư trước mắt mà khai thác các nguồn tài nguyên đất 
nước không cân nhắc, sử dụng một cách phung phí, khai thác tài nguyên thô, phải có 
kế hoạch dài hạn cái gì hôm nay cần sử dụng, cái gì để dành cho con cháu mai sau. 
Ngày nay, Việt Nam đang hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, đẩy nhanh sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa, ta càng phải khắc phục chủ nghĩa thành tích, khuyếch trương 
về số lượng, không nên xem nhẹ yếu tố về chất, trình độ công nghệ nhập của các dự án 
đầu tư; nếu không gánh nặng nợ nần không những sẽ trút lên vai các thế hệ mai sau mà 
còn biến Việt Nam thành bãi thải công nghệ. 
2. ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT 
TRIỂN MỘT NỀN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG 
Phát triển kinh tế bền vững cũng như phát triển nền nông nghiệp bền vững là 
một trong những nội dung quan trọng trong sự phát triển của kinh tế nước ta. và của 
ĐBSCL. Trong những năm qua, dưới tác động của những chính sách của Đảng và nhà 
nước trong nông nghiệp, nông thôn, sản xuất nông nghiệp ĐBSCL đã có những bước 
tiến vượt bậc. Có thể nói hai lĩnh vực phát triển mạnh nhất trong sản xuất nông nghiệp 
ở ĐBSCL là trồng lúa và nuôi trồng thủy sản. 
2.1. Năng suất, sản lượng lúa không ngừng gia tăng 
Trong những năm qua, ĐBSCL chẳng những giải quyết tốt vấn đề lương thực 
của địa phương mà còn góp phần quan trọng gia tăng sản lượng lúa hàng hóa xuất 
khẩu trên phạm vi cả nước. Nếu so sánh riêng về diện tích gieo trồng, năm 1976, diện 
tích toàn vùng chỉ đạt 2 triệu 062 nghìn ha, với sản lượng 4 triệu 665 nghìn tấn, năng 
suất bình quân 20ta/ha, đến năm 1999 với các chỉ tiêu tương ứng là 3 triệu 986 nghìn 
ha, với sản lượng 16 triệu 281 nghìn tấn và năng suất 40,8ta/ha. Năm 2004, với diện 
tích toàn vùng 4 triệu 243 nghìn ha, sản lượng đạt hơn 18 triệu tấn quy thóc, năng suất 
 54
ước đạt 5,5 tấn ha. Năm 2007, sản lượng lúa tòan vùng ước đạt trên 18,45 triệu tấn quy 
thóc, tăng 210.000 tấn so với năm 2006. Tốc độ tăng sản lượng lúa toàn vùng 30 năm 
qua bình quân đạt 11%, bỏ xa tốc độ tăng bình quân cả nước (7,8 %) cũng như đồng 
bằng sông Hồng (5, 35% ) trong thời gian tương ứng. ĐBSCL ngày nay đã trở thành 
vựa lúa lớn nhất của Việt Nam và các nước Đông Nam Á. 
 Bảng 1: Sản lượng lương thực ĐBSCL so sánh với Đồng bằng sông Hồng và cả 
nước 
Năm Sản lượng 
lương thực cả 
nước 
( 1000 tấn ) 
Sản lượng 
lương thực 
ĐBSCL 
( 1000 tấn ) 
Sản lượng 
lương thực 
ĐBS Hồng 
( 1000 tấn ) 
Sản lượng lương thực 
ĐBSCL so với 
ĐBS Hồng Cả 
nước 
 ( Lần ) ( % ) 
2000 34538,9 16754,7 6867,9 2,43 48,50 
2001 34272,9 16093,0 6648,1 2,42 46,95 
2002 36960,7 17821,6 6999,0 2,54 48,21 
2003 37706,9 17678,0 6789,0 2,60 46,88 
2004 39322,9 18691,0 7052,3 2,65 47,53 
2006 39.621.6 19488.2 6517.9 2,98 49,18 
2007 39.648.0 18385.3 6853.8 2,68 46,37 
Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2007, tr139. [2 ] 
2.2. Về thủy sản 
Về thủy sản cũng có mức tăng trưởng khá.. Các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt 
thủy sản trong những năm qua có nhiều tiến bộ. Phong trào nuôi tôm, nuôi cá nước 
ngọt, cá ruộng cá ao, cá lồng, cá bè v.v..phát triển mạnh ở nhiều địa phương, tạo thêm 
công ăn, việc làm cho người lao động và nguồn thực phẩm cho xã hội. Diện tích nuôi 
trồng thủy sản các loại tăng từ 309.399 ha năm 1995 lên 322.551 ha năm 1997, 
351.137 ha năm 1999, năm 2004 lên hơn 750.000ha, năm 2007 hơn 800.000ha. Nhờ 
vậy sản lượng thủy sản đã đạt gần 1 triệu tấn/năm. Vị thế của ngành thủy sản trong cơ 
cấu nông nghiệp ĐBSCL đã được khẳng định rất quan trọng và đang có xu hướng tăng 
dần, từ chỗ chỉ chiếm 19% giá trị toàn ngành năm 1995, lên 21% năm 1997 và 39% 
năm 2004 là 51,61%, năm 2007 là 54,56%. 
 55
Tuy nhiên việc phát triển nhanh sản lượng lương thực và nuôi trồng thuỷ sản ở 
ĐBSCL một cách nhanh chóng, ồ ạt cũng đã để lại những vấn đề về môi trường đáng 
báo động, phá vỡ sự phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp ĐBSCL. Để tăng 
năng suất, sản lượng các loại cây trồng, nhiều hộ nông dân đã sử dụng các loại phân 
bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, kể cả những loại hợp chất lân, hữu cơ, cacbonat, 
những loại thuốc bị cấm như: Wolatox, Monitor, DDT v.v..Điều đó, chẳng những làm 
cho độ mầu mỡ đất đai thêm xấu đi độ PH trong nước thấp, đất bị chua hóa mà còn 
làm cho môi trường bị ô nhiễm, suy giảm mật độ và thành phần các loại cá sông, mất 
các rừng ngập mặn, bảo đảm duy trì sự đa dạng sinh học biển. Việc phun, xịt thuốc trừ 
sâu bừa bãi làm giảm bất cứ loại côn trùng nào kể cả những loài có ích đồng thời gây 
tổn hại cho động thực vật, vi sinh vật, dẫn đến mất cân bằng sinh thái .v.v..[4 ]. 
Trong những năm gần đây việc nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh chóng, 
đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của ngành, nhưng cũng đã tác động bất lợi đối 
với nguồn lợi và môi trường sống của các loài thủy sinh vật, khai thác giống tự nhiên 
để nuôi đã làm giảm khả năng khôi phục, tái tạo quần thể của nhiều giống loài thủy 
sản. Việc xây dựng các hệ thống thoát nước làm thay đổi các lớp trầm tích bề mặt, sử 
dụng nguồn nước ngầm gây lún, lở, xâm nhập nước mặn, thải ra môi trường tự nhiên 
thức ăn dư thừa, thuốc phòng trị bệnh vật nuôi, hóa chất xử lý môi trường, các chất bài 
tiết của động vật..làm giảm chất lượng môi trường nước. Nước bị ô nhiễm đã làm ảnh 
hưởng chất lượng cuộc sống của người dân như: mắc nhiều chứng bệnh về da, mắt, 
bệnh phụ khoa, tả, thương hàn...Từ đó, ảnh hưởng đến chất lượng dân số và sự phát 
triển chung của quốc gia. 
Theo tính toán sơ bộ của Bộ thủy sản cho thấy, mỗi ha nuôi tôm đã thải ra xấp 
xỉ 8 tấn chất thải rắn cùng với hàng nghìn khối nước thải trong 1 vụ nuôi. Cả ĐBSCL 
với hơn 500.000ha diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản thì mỗi năm sẽ thải ra bao 
nhiêu chất nước thải [5 ]. Nếu theo chỉ đạo của Chính phủ, mục tiêu đến năm 2010, 
sản lượng ngành thủy sản phải đạt 3,5 triệu tấn ( trong đó tỷ lệ nuôi trồng đạt 2 triệu 
tấn ) để đạt kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD và 2020 đạt kim ngạch xuất khẩu 8 tỷ 
USD mà không có kế hoạch thì hậu quả đối với môi trường sẽ như thế nào ?[6 ] 
Nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh đã bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Tình trạng 
tự phát, thiếu quy hoạch diễn ra ở nhiều địa phương. Ở những vùng tăng nhanh diện 
tích nuôi trồng thủy sản như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang, Đồng Tháp 
 56
v.v...cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, luôn tiềm ẩn rủi ro lớn, kể cả vấn đề về vệ sinh 
thú y thủy sản. Những mặt hạn chế trên đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và sự 
phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến thực 
trạng hàng ngàn ha tôm chết hàng loạt ở những vùng nuôi trồng thủy sản của ĐBSCL 
ở Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng v.v....thời gian qua [7 ]. 
Vấn đề này không chỉ gây dịch bệnh và làm ô nhiệm môi trường trong nuôi 
trồng thủy sản, chất thải tích tụ trong môi trường nước còn có nguy cơ làm bùng phát 
các lọai dịch bệnh trên người như: bệnh đường tiêu hóa, sốt xuất huyết, sốt rét, bệnh 
giun sán, ký sinh trùng, bệnh suy dinh dưỡng trẻ em và cả ngộ độc thực phẩm hay hóa 
chất v.vtrong vùng đất ngập nước nuôi trồng thủy sản. 
3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 
Để hướng tới sự phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL, 
phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, dưới đây là những giải pháp chủ yếu: 
- Thực hiện tốt Nghị quyết số 41/NQ –TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính trị và 
Quyết định số 34/2005/ QĐ – TTg của Chính phủ về bảo vệ môi trường trong thời kỳ 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu là nhằm ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục ô 
nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ 
môi trường. 
- Tăng cường công tác quản lý về bảo vệ môi trường, sớm đưa Luật bảo vệ môi 
trường vào thực hiện trong thực tế, tuyên truyền, phổ biến Luật đa dạng sinh học và 
các văn bản hướng dẫn thi hành. 
- Nâng cao năng lực về quản lý môi trường ở các địa phương, chú trọng ở cấp 
quận, huyện, phường, xã, tăng cường bảo vệ môi trường tại các khu vực sản xuất, kinh 
doanh và dịch vụ ở nông thôn. 
- Tiến hành rà soát quy hoạch lâu dài, đồng bộ sự phát triển sản xuất và nuôi 
trồng thủy sản ĐBSCL, hạn chế tính tự phát, phát triển không kế hoạch dẫn đến tác 
động xấu với môi trường. 
- Tuyên truyền, giáo dục người dân nâng cao ý thức bảo vệ mội trường, tạo 
thói quen sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, tái sử dụng, tái chế chất thải, sử 
dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hợp lý. 
- Có kế hoạch phục hồi, tái tạo và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ, bảo tồn đa 
dạng thủy sinh vật, tổ chức khai thác hợp lý nguồn lợi thủy sản, tăng cường nguồn lực 
 57
tài chính cho mục chi bảo vệ môi trường và bảo đảm tăng dần hàng năm theo tốc độ 
tăng trưởng kinh tế. 
Tóm lại, vấn đề bảo vệ môi trường trong nông nghiệp nông thôn hướng tới phát 
triển một nền nông nghiệp bền vững ở ĐBSCL đã và đang là thách thức không dễ giải 
quyết. Trong tiến trình phát triển kinh tế- xã hội thì vấn đề trên cần có sự quan tâm của 
mọi người dân, nhất là người dân ở vùng nông thôn. Sự tham gia tích cực của người 
dân vào các chương trình, dự án bảo vệ môi trường đã và đang triển khai sẽ là một 
nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của dự án, góp phần cải thiện môi 
trường và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Xuân Đỉnh “Phát triển bền vững trong định hướng XHCN nền kinh tế thị 
trường”, Tạp chí cộng sản tháng 3 năm 2005, tr 87. 
2. Tổng cục thống kê, “Niên giám thống kê”, năm 2007, tr 139,232. 
3. Đức Nguyên, “Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản”, Thời báo kinh tế 
Việt Nam, ngày 27 tháng 8, năm 2004. 
4. Website: http//w.w.w.vneconomy. com. vn ngày 9/27/2005 “Phát triển bền 
vững : ngành thủy sản nhìn xa trông rộng.”, ngày 27 tháng 9 năm 2007. 
5. Website: http// cpv.com vn Ngày 21/2/2005: “Tổ chức lại sản xuất thủy sản 
ĐBSCL”.ngày 21 tháng 2 năm 2005. 
6. Bộ thủy sản, “Hoạt động khoa học công nghệ vì sự phát triển ĐBSCL”, Tài 
liệu hội thảo vì sự phát triển ĐBSCL tháng 11 năm 2004, Q2, tr 1. 
7. Website: htttp//.qdnd.vn, “ Cấp thiết quy họach nuôi trồng thủy sản vùng 
đồng bằng sông Cửu Long”, ngày 21 tháng 6 năm 2007. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phuong_phap_nghien_cuu_khoa_hoc_phan_2.pdf