Giáo trình Quản trị doanh nghiệp - Chương 2: Một số vấn đề cơ bản về quản trị doanh nghiệp

Tóm tắt Giáo trình Quản trị doanh nghiệp - Chương 2: Một số vấn đề cơ bản về quản trị doanh nghiệp: ..., và doanh nghiệp phải làm gì để cạnh tranh với các doanh nghiệp đó? - Các rủi ro tiềm ẩn của doanh nghiệp là gì và cách xử lý các rủi ro đó như thế nào?  Quản trị cấp trung (Middle manager) Quản trị cấp trung hay quản trị cấp trung gian là một khái niệm rộng dùng để chỉ những cấp chỉ h... năng chuyên môn là kiến thức, hiểu biết cần thiết trong lĩnh vực chuyên môn để thực hiện một công việc cụ thể, đây chính là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhà quản trị. Thí dụ, các nhà quản trị cần phải có các kỹ năng trong lĩnh vực kế toán, tài chính, Marketing, sản xuất kinh doanh, đọc b... trị, và nâng cao trình độ quản trị. Qua phân tích về những nguyên nhân thất bại trong hoạt động kinh doanh của cá nhân và của các doanh nghiệp, cũng như thất bại trong hoạt động của các tổ chức kinh tế - chính trị - xã hội nhiều năm qua cho thấy nguyên nhân cơ bản vẫn là do quản trị kém hoặ...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Quản trị doanh nghiệp - Chương 2: Một số vấn đề cơ bản về quản trị doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
23 
Chương 2 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP 
2.1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP 
2.1.1 Khái niệm quản trị và quản trị doanh nghiệp 
 Khái niệm về quản trị 
Trong tiếng Anh từ management được hiểu là quản lý và quản trị, còn từ 
administration có nghĩa là quản lý hành chính, quản lý chính quyền. Có thể tạm coi 
quản lý là thuật ngữ được dùng với các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý xã hội 
nói chung và quản lý kinh tế nói riêng, còn quản trị là thuật ngữ được dùng đối với cấp 
cơ sở trong đó các tổ chức kinh doanh - các doanh nghiệp. Thực tế khi nói về doanh 
nghiệp chúng ta dùng từ quản trị cùng nghĩa với quản lý. 
Quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng bị quản trị nhằm đạt 
được các mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường. Chủ thể quản trị có 
thể là một người hay nhiều người. Đối tượng bị quản trị có thể là con người (một 
người hoặc nhiều người), có thể là máy móc thiết bị, thông tin hay vật nuôi, cây 
trồng 
Quản trị là sự kết hợp của 3 phương diện: 
- Thứ nhất, thông qua tập thể để thúc đẩy tính tích cực của cá nhân. 
- Thứ hai, điều hoà quan hệ giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa hai bên. 
- Thứ ba, tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được 
những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác tạo ra giá trị 
lớn hơn giá trị cá nhân - giá trị tập thể. 
 Khái niệm về quản trị doanh nghiệp 
Quản trị doanh nghiệp là sự tác động có mục đích của chủ thể quản trị lên hệ 
thống sản xuất kinh doanh bằng một tập hợp các biện pháp có liên quan đến các mặt tổ 
chức, kỹ thuật, kinh tế và xã hội dựa trên cơ sở nắm vững những qui luật khách quan 
nhằm đạt được mục đích quản trị đề ra với hiệu quả cao nhất. 
Quản trị doanh nghiệp là sự tập hợp và liên kết chặt chẽ giữa các cá nhân, quá 
trình và những hoạt động trong doanh nghiệp gắn liền với môi trường kinh doanh bên 
ngoài nhằm thực hiện tốt nhất mục tiêu quản trị đề ra với hiệu quả tốt nhất. 
Như vậy, quản trị doanh nghiệp là một hoạt động liên tục và cần thiết khi con 
người kết hợp với nhau trong một doanh nghiệp. Đó là quá trình nhằm tạo nên sức 
mạnh gắn liền các vấn đề lại với nhau trong doanh nghiệp và thúc đẩy các vấn đề 
chuyển động. 
2.1.2 Yêu cầu kỹ năng và nhiệm vụ chủ yếu của nhà quản trị doanh nghiệp 
2.1.2.1 Nhà quản trị trong doanh nghiệp 
Trong bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng bao gồm 2 nhóm: 
- Những người thừa hành (Opeatives), và 
24 
- Những người quản trị (Managers). 
Người thừa hành là người trực tiếp làm một công việc hay một nhiệm vụ nào đó 
trong doanh nghiệp và họ không có trách nhiệm phải trông coi công việc của người 
khác. Thí dụ: người công nhân thi công cầu đường, một nhân viên văn phòng có nhiệm 
vụ pho to các văn bản, giấy tờ 
Các nhà quản trị hay các cán bộ làm công tác quản trị là những người thực hiện 
các hoạt động để quản trị một doanh nghiệp, Những người quản trị hay nhà quản trị là 
người chỉ huy (điều khiển) công việc của người khác. 
Một bộ phận trong một doanh nghiệp (phòng, ban, phân xưởng, ngành, tổ, đội, 
nhóm), có trách nhiệm tiến hành các hoạt động, các chức năng quản trị làm cho doanh 
nghiệp cũng như cho mọi thành viên trong đó hướng vào việc đạt được các mục tiêu 
đã đề ra. 
Các chức danh quản trị được đặt ra tương ứng với các cấp quản trị, thường bao 
gồm các chức danh: tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, các 
trưởng phó các phòng ban, quản đốc, phó quản đốc các phân xưởng, bộ phận trưởng 
ngành trong các phân xưởng, các đội trưởng, nhóm trưởng, tổ trưởng... 
Trong doanh nghiệp người ta chia quản trị ra làm ba cấp: 
- Quản trị cấp cao, 
- Quản trị cấp trung gian, và 
- Quản trị cấp cơ sở. 
 Quản trị cấp cao (High line manager) 
Quản trị cấp cao là những quản trị chung tất cả các hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp, người quản trị ở cấp này là nhà quản trị cấp cao nhất chịu trách nhiệm 
về thành quả cuối cùng của doanh nghiệp. Quản trị cấp cao gồm chủ tịch, tổng giám 
đốc, giám đốc, phó tổng giám đốc, phó giám đốc ... 
Nội dung quản trị chủ yếu ở cấp cao nhất là: 
- Hoạch định các mục tiêu, phạm vi hoạt động của doanh nghiệp 
- Phân tích và đánh giá những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp, những 
nguyên nhân của chúng để tìm biện pháp giải quyết. 
- Phê duyệt những đường lối, các chính sách lớn trong doanh nghiệp nhằm xác 
định kết quả mong muốn cuối cùng của doanh nghiệp. 
- Phê duyệt cơ cấu tổ chức, các kế họach chương trình hành động lớn nhằm đạt 
được những mục tiêu đã đề ra. 
- Xác định các nguồn nhân sự cần thiết và cung cấp kinh phí hoạt động theo yêu 
cầu côngviệc. 
- Lựa chọn các quản trị viên chấp hành, giao trách nhiệm, ủy quyền. 
- Phối hợp mọi hoạt động của ban tham mưu và chức năng điều hành. 
- Phê duyệt chương trình kế họach nhân sự bao gồm: tuyển dụng, mức lương, 
thăng cấp, đề bạt, kỷ luật. 
25 
- Dự liệu các biện pháp kiểm soát như báo cáo, kiểm tra, đánh giá hiệu quả của tổ 
chức . 
- Chịu trách nhiệm hoàn toàn về những ảnh hưởng tốt xấu của các quyết định. 
Người quản trị cấp cao - Những người điều hành (CEO – chief executive officers) 
phải trả lời các câu hỏi: 
- Doanh nghiệp mình phải sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu và sản xuất như thế 
nào? 
- Sản phẩm của doanh nghiệp bán cho ai và bán như thế nào? 
- Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp là ai, và doanh nghiệp phải làm gì để cạnh 
tranh với các doanh nghiệp đó? 
- Các rủi ro tiềm ẩn của doanh nghiệp là gì và cách xử lý các rủi ro đó như thế 
nào? 
 Quản trị cấp trung (Middle manager) 
Quản trị cấp trung hay quản trị cấp trung gian là một khái niệm rộng dùng để chỉ 
những cấp chỉ huy trung gian, đứng trên những nhà quản trị cấp cơ sở và dưới các nhà 
quản trị cấp cao. Người quản lý cấp trung tạo thành tầng quản lý thứ hai trong cơ cấu 
doanh nghiệp. Với cương vị này, họ vừa quản trị các nhà quản trị cấp cơ sở thuộc 
quyền vừa đồng thời điều khiển các nhân viên khác. Chức năng của họ là thực hiện các 
kế hoạch và chính sách của doanh nghiệp bằng cách phối hợp các công việc thực hiện 
nhằm hướng đến mục tiêu chung. Ở cấp giữa có thể có nhiều cấp, điều này phụ thuộc 
vào loại hình tổ chức của doanh nghiệp, người làm quản trị ở cấp trung này là các 
trưởng, phó phòng; ban; các quản đốc, phó quản đốc các phân xưởng... 
Khi CEO uỷ quyền hoặc trao quyền một số quyền hạn quyết định của CEO cho 
người quản lý cấp trung thì người quản lý cấp trung đóng vai trò giám đốc chức 
năng/bộ phận. 
Nội dung chính của quản trị trung gian là: 
- Tổ chức quản trị các hoạt động chức năng, nghiệp vụ trong phạm vi nhiệm vụ 
quyền hạn được phân công nhằm thực hiện các chiến lược của doanh nghiệp. 
- Nắm vững những mục tiêu của doanh nghiệp, mối quan hệ giữa các bộ phận, 
cảm nhận những khó khăn và biết cách giải quyết chúng trong phạm vi hoạt 
động của mình. 
- Nắm vững trách nhiệm và phạm vi quyền hạn được giao, xác định các hoạt 
động cần thiết phải thực hiện để đạt được kết quả, đề nghị những vấn đề liên 
quan đến bộ phận để hoàn thành nhiệm vụ. 
- Đề nghị những chương trình kế hoạch hành động của bộ phận và mô hình tổ 
chức thích hợp nhất để thực hiện công việc. 
- Lựa chọn nhân viên, giao công việc theo chức năng cho các thành viên, xây 
dựng tinh thần đồng đội và lòng trung thành, phê chuẩn các thủ tục làm việc 
trong phạm vi bộ phận trên cơ sở đường lối chung của doanh nghiệp. 
- Thường xuyên xét lại tính hiệu quả trong công tác của bộ phạn để kịp thời uốn 
nắn những sai sót. 
26 
- Báo cáo kết quả đạt được của bộ phận lên cấp trên theo đúng sự ủy quyền. 
Theo quan điểm quản trị hiện đại, người quản lý cấp trung trong cơ cấu tổ chức là 
người được giao quyền hạn, nhiệm vụ và có trách nhiệm giải trình trực tiếp với người 
quản lý cấp cao - Giám đốc điều hành (CEO). 
 Cấp quản trị cơ sở (First-line manager) 
Người quản trị cấp cơ sở hay quản trị cấp thấp là những nhà quản trị ở cấp bậc 
cuối cùng, cấp thấp nhất trong hệ thống cấp bậc của quản trị trong cùng doanh nghiệp. 
Thông thường trong các doanh nghiệp sản xuất họ thường được gọi là tổ trưởng, 
trưởng nhóm, trưởng ca. 
Nội dung quản trị cấp cơ sở là quản trị quá trình làm việc, các hoạt động cụ thể 
hàng ngày của công nhân, nhân viên trong tổ, nhóm. Với tư cách là nhà quản trị, 
nhiệm vụ của họ là hướng dẫn, đốc thúc, điều khiển công nhân, nhân viên trong các 
công việc hàng ngày để đưa đến sự hoàn thành mục tiêu chung trong doanh nghiệp. 
Đôi khi các nhà quản trị cấp cơ sở là người trực tiếp tham gia các công việc sản xuất 
kinh doanh cụ thể như các nhân viên khác dưới quyền họ. Ví dụ: Tổ trưởng tổ thợ bê 
tông vừa quản lý các tổ viên vừa làm công việc trộn, đổ bê tông ... 
2.1.2.2 Yêu cầu kỹ năng đối với các nhà quản trị 
Dù ở cấp bậc nào hay lĩnh vực nào, các nhà quản trị cần có ba kỹ năng cơ bản là: 
- Kỹ năng kỹ thuật (chuyên môn); 
- Kỹ năng con người (nhân sự); 
- Kỹ năng nhận thức (tư duy) 
Kỹ năng kỹ thuật hay kỹ năng chuyên môn là kiến thức, hiểu biết cần thiết trong 
lĩnh vực chuyên môn để thực hiện một công việc cụ thể, đây chính là trình độ chuyên 
môn nghiệp vụ của nhà quản trị. Thí dụ, các nhà quản trị cần phải có các kỹ năng trong 
lĩnh vực kế toán, tài chính, Marketing, sản xuất kinh doanh, đọc bản vẽ thiết kế, tính 
toán giá công trình, soạn thảo hợp đồng kinh tế v.v... Kỹ năng này có được qua việc 
học ở trường hay các lớp bồi dưỡng và từ kinh nghiệm thực tế. 
Kỹ năng con người hay kỹ năng nhân sự là khả năng cùng làm việc, biết điều 
khiển và lôi cuốn những người xung quanh, những thành viên của tổ chức, doanh 
nghiệp để lãnh đạo, điều hành công việc được tốt. Nhờ kỹ năng này, nhà quản trị thúc 
đẩy người khác làm việc theo mục tiêu của doanh nghiệp đề ra. Một vài kỹ năng nhân 
sự cần thiết cho nhà quản trị là biết cách thông đạt (viết, nói...) một cách hữu hiệu, biết 
cách quan tâm đến người khác, biết xây dựng bầu không khí hợp tác giữa những người 
cùng làm việc và biết cách động viên nhân viên dưới quyền làm hết sức mình. 
Kỹ năng nhận thức hay kỹ năng tư duy là khả năng theo dõi công việc và hiểu 
được làm thế nào để doanh nghiệp thực hiện tốt mục tiêu đề ra trong hoàn cảnh nhất 
định. Nhà quản trị cần nhận ra được những yếu tố khác nhau và hiểu được mối quan hệ 
phức tạp của công việc để có thể đưa ra những cách giải quyết đúng đắn nhất và có lợi 
nhất cho doanh nghiệp. Kỹ năng tư duy là cái khó tiếp thu nhất nhưng đặc biệt quan 
trọng đối với các nhà quảntrị. 
Ba kỹ năng trên đòi hỏi các nhà quản trị đều phải có, tuy nhiên tùy thuộc vào cấp 
bậc quản trị trong cấu trúc doanh nghiệp mà mức độ quan trọng của mỗi kỹ năng khác 
nhau. 
27 
Nhìn chung, kỹ năng về kỹ thuật giảm dần sự quan trọng khi cấp bậc lên cao dần, 
ngược lại ở cấp càng cao, nhà quản trị càng cần nhiều kỹ năng tư duy chiến lược hơn. 
Kỹ năng nhân sự lại cần thiết đối với nhà quản trị ở mọi cấp, vì nhà quản trị nào cũng 
phải làm việc với con người. 
2.1.2.3 Nhiệm vụ chủ yếu và vai trò quan trọng của nhà quản trị doanh nghiệp 
 Nhiệm vụ chủ yếu của nhà quản trị doanh nghiệp 
Mục tiêu của quản trị doanh nghiệp là đảm bảo sự bền vững và đạt lợi nhuận cao 
trong hoạt động kinh doanh, vì vậy nhiệm vụ then chốt của nhà quản trị ở bất kỳ cấp 
bậc nào và trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải tập trung thực hiện là: 
- Xây dựng môi trường làm việc tích cực, tạo hướng chiến lược. 
- Phân bổ và xắp xếp các nguồn lực, nâng cao chất lượng quản trị, nỗ lực về tổ 
chức, tạo ra sự hoàn hảo trong các hoạt động và điều hành. 
Các nhiệm vụ này giúp nhà quản trị xác định phạm vi công việc, đặt ra các thứ tự 
ưu tiên và nhận ra các mối quan hệ quan trọng giữa chúng. 
Trong thực tiễn hoạt động, nhà quản trị phải làm nhiều công việc khác nhau, thậm 
chí phải ứng xử theo những cách khác nhau, đối với cấp trên, cấp dưới, cơ quan chủ 
quản, với các cổ đông, với quần chúng xã hội 
 Vai trò của nhà quản trị doanh nghiệp 
Trong thế giới ngày nay, chắc không ai phủ nhận vai trò quan trọng và to lớn của 
quản trị trong việc bảo đảm sự tồn tại và hoạt động bình thường của đời sống kinh tế 
xã hội. Đối với sự phát triển của từng đơn vị hay cộng đồng và cao hơn nữa của cả một 
quốc gia, quản trị càng có vai trò quan trọng. Sự nhận thức của tuyệt đại đa số trong 
dân cư về vai trò của quản trị cho tới nay hầu hết đều thông qua cảm nhận từ thực tế. 
Muốn nâng cao nhận thức về vai trò của quản trị, một mặt cần nâng cao nhận thức đầy 
đủ và sâu sắc hơn về vai trò của quản trị, làm cơ sở choviệc hiểu biết về quản trị và 
thực hành quản trị, và nâng cao trình độ quản trị. 
Qua phân tích về những nguyên nhân thất bại trong hoạt động kinh doanh của cá 
nhân và của các doanh nghiệp, cũng như thất bại trong hoạt động của các tổ chức kinh 
tế - chính trị - xã hội nhiều năm qua cho thấy nguyên nhân cơ bản vẫn là do quản trị 
kém hoặc yếu. Nghiên cứu các công ty kinh doanh của Mỹ trong nhiều năm, đã phát 
hiện ra rằng các công ty luôn thành đạt chừng nào chúng được quản trị tốt. 
Ngân hàng châu Mỹ đã nêu trong bản công bố Báo cáo về kinh doanh nhỏ rằng 
“Theo kết quả phân tích cuối cùng, hơn 90% các thất bại trong kinh doanh là do thiếu 
năng lực và thiếu kinh nghiệm quản trị”. Trong khi nền văn minh của chúng ta được 
đặc trưng bởi những cải tiến có tính chất cách mạng trong khoa học vật lý, sinh học, 
điện tử, viễn thông, tin học, tự động hóa... thì các ngành khoa học xã hội tụt hậu rất xa. 
Vấn đề đặt ra, nếu chúng ta không biết cách khai thác các nguồn nhân lực và phối 
hợp hoạt động của con người, kém hiểu biết và lãng phí trong áp dụng những phát 
minh kỹ thuật vẫn sẽ tiếp tục. 
Theo C. Mác “Bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên 
một qui mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động 
cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải làm chức năng chung, tức là chức năng phát sinh từ sự 
khác nhau giữa sự vận động chung của cơ sở sản xuất với sự vận động cá nhân của 
43 
Ở cấp doanh nghiệp đó là các điều lệ, nội quy sản xuất và làm việc của doanh 
nghiệp, các quy định về tiêu chuẩn cán bộ, quy trình và quy phạm sản xuất, thủ tục và 
quy trình giải quyết các công văn, giấy tờ, các chỉ thị điều hành và kiểm tra 
Các phương pháp hành chính tác động vào đối tượng quản trị theo hai hướng: tác 
động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản trị. 
Theo hướng tác động về mặt tổ chức: Chủ doanh nghiệp ban hành các văn bản, 
quy định về quy mô, cơ cấu, điều lệ hoạt động, các tiêu chuẩn nhằm thiết lập tổ chức 
và xác định những mối quan hệ hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp. 
Theo hướng tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản trị: Chủ doanh 
nghiệp đưa ra những chỉ thị, mệnh lệnh hành chính bắt buộc cấp dưới thực hiện những 
nhiệm vụ nhất định, hoặc hoạt động theo những phương hướng nhất định, nhằm đảm 
bảo cho các bộ phận trong hệ thống hoạt động ăn khớp và đúng hướng, uốn nắn những 
lệch lạc 
Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy, các 
phương pháp hành chính hết sức cần thiết trong những trường hợp hệ thống quản trị 
rơi vào những tình huống khó khăn, phức tạp. Đối với những quyết định hành chính 
thì cấp dưới bắt buộc phải thực hiện, không được lựa chọn. Chỉ người ra quyết định 
mới có quyền thay đổi quyết định. 
Tác dụng của phương pháp hành chính trong quản trị kinh doanh rất to lớn, nó xác 
lập trật tự, kỷ cương trong doanh nghiệp, nó là khâu nối các phương pháp quản trị 
khác lại. Khi áp dụng phương pháp hành chính, các vấn đề được giải quyết một cách 
nhanh chóng, tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định và cho 
kết quả rõ rệt. Vì vậy khi áp dụng phương pháp hành chính, đòi hỏi chủ doanh nghiệp 
phải có quyết định dứt khoát, rõ ràng, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện. Hết sức 
tránh trường hợp có thể giải thích khác nhau đối với nhiệm vụ được giao. 
Trong quá trình áp dụng phương pháp hành chính, người quản trị phải tránh rơi 
vào kiểu quản lý hành chính quan liêu,do việc lạm dụng các kỷ luật hành chính, sử 
dụng mệnh lệnh hành chính một cách thiếu cơ sở khoa học, theo ý muốn chủ quan, gây 
tổn thất cho doanh nghiệp, hạn chế sức sáng tạo của người lao động. Đây cũng là 
nhược điểm của phương pháp hành chính. 
Khi áp dụng các phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm 
của người ra quyết định. Ở cấp càng cao, phạm vi tác động của quyết định càng rộng, 
nếu càng sai thì tổn thất càng lớn. 
 Các phương pháp kinh tế 
Các phương pháp kinh tế là tổng thể các tác động thông qua các lợi ích kinh tế 
bằng cách vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kích thích kinh tế, các định mức 
kinh tế – kỹ thuậtlên đối tượng quản trị, để cho đối tượng bị quản trị tự lựa chọn 
phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ. 
Nói cách khác, phương pháp kinh tế dựa trên lợi ích và các đòn bẩy kinh tế kích 
thích người lao động thực hiện nhiệm vụ được giao một cách tự nguyện, sáng tạo và có 
hiệu quả mà không cần sự giám sát trực tiếp, thường xuyên có tính chất hành chính. Ở 
phạm vi doanh nghiệp các đòn bẩy kinh tế chủ yếu là tiền lương, tiền thưởng (hay 
phạt), các hình thức trả lương theo sản phẩm hay khoán gọn 
44 
 Các phương pháp giáo dục 
Phương pháp giáo dục là các cách tác động về tinh thần và tâm lý đối với người 
lao động để họ thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. 
Phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý, đặc trưng của 
phương pháp này là thuyết phục, tức là làm cho người lao động biết phân biệt phải – 
trái; đúng - sai; đẹp – xấu; thiện – ác, từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn 
bó của họ với doanh nghiệp. 
Trong quản trị nội bộ doanh nghiệp (quản trị nhân sự ), nhà quản trị cần uyển 
chuyển, linh hoạt và biết kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp hành chính, kinh tế 
và giáo dục nêu trên đối với từng cá nhân, từng tình huống cụ thể mới mang lại hiệu 
quả mong muốn. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_quan_tri_doanh_nghiep_chuong_2_mot_so_van_de_co_b.pdf