Giáo trình Tâm lý y học (Phần 1)
Tóm tắt Giáo trình Tâm lý y học (Phần 1): ... có ý thức nhất định, có mục đích, có nhận thức cải tạo thế giới xung quanh trong quá trình hoạt động Nhân cách: Là nói về con người có tư cách là một thành viên của xã hội nhất định ; là chủ thể của các mối quan hệ, của giao tiếp và của hoạt động có ý thức ; là toàn bộ những đặc điểm, phẩm ...ập 1. Trình bày được khái niệm stress 2. Trình bày được giai đoạn trạng thái stress 3. Trình bày được vấn đề vệ sinh tâm lý I. STRESS Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường gặp những hiện tượng được gọi dưới cái tên là chung là stress. Chúng ta không quan niệm mọi stress đều xấu, son...giao tiếp nhằm phát hiện bệnh tật một cách chính xác, chữa bệnh một cách có hiệu quả và thầy thuốc luôn chủ động tìm cơ hội để dắt dẫn hoạt động của bệnh nhân hướng vào thực hiện mục đích này. 4.2.2. Bước đầu tiên của giao tiếp là thu thập thông tin: Muốn có nhiều thông tin, cần tiếp xúc v...
qua đó khai thác được bệnh sử, đặc điểm tâm lý bệnh nhân + Gây cho bệnh nhân phấn khởi, vui vẻ dùng thuốc với lòng thán phục biết ơn, bệnh nhân đón chờ từng phút tác dụng của thuốc, chờ đợi bác sỹ đến khám bệnh cho mình hơn cả người thân. Một số bệnh nhân có thị hiếu thích dùng loại thuốc nào đó , nếu vô hại thầy thuốc có thể cho bệnh nhân dùng, làm cho bệnh nhân vui vẻ, tin tưởng trình độ chuyên môn kỹ thuật của bệnh viện, tin tưởng nhất định sẽ lành để trở về với gia đình, không bao giờ làm cho bệnh nhân bi quan chán nản, phải nuôi niềm hy vọng trong lòng bệnh nhân, không bao giờ để bệnh nhân tuyệt vọng, gieo rắc các bi quan hải hùng , chết chóc vì bệnh nguy kịch. + Đối với bệnh nhân trí thức thường tìm đọc sách y học, nhất là về bệnh của mình và dễ có ý kiến, thầy thuốc phải lắng nghe, suy nghĩ, nghiên cứu trả lời đúng mức cho bệnh nhân, cái gì chấp nhận cái gì không, cái gì khoa học, cái gì phản khoa học, cái gì là thực tế, cái gì là sách vở, cùng bàn bạc bình đẳng với bệnh nhân, không áp đặt, không phủ nhận, không cãi vã, không làm cho bệnh nhân coi thường , đánh giá trình độ thầy thuốc - Trong khi tiếp xúc thầy thuốc có thể vô tình gây bệnh cho bệnh nhân ( bệnh y sinh) vì vậy phải luôn luôn chú ý lời nói trong tiếp xúc không vì lời nói mà làm cho bệnh nhân lo lắng thêm, bi quan chán nản thậm chí tuyệt vọng có khi tự sát vì bệnh không chữa được.. chẩn đoán sai, điều trị không đúng. - Hằng ngày bệnh nhân tiếp xúc với bệnh nhân khác vì vậy ý kiến bệnh nhân xung quanh tác động rất lớn tâm lý người bệnh vì vậy bác sỹ, điều dưỡng phải làm tốt công tác tâm lý đối với tất cả các bệnh nhân, huấn luyện bệnh nhân tham gia xây dựng khoa phòng, không nói điều gì gây hoang mang cho bệnh nhân khác. - Đối với các bệnh nhân đặc biệt bị xã hội ruồng bỏ, hoặc bị phân biệt đối xử, bị tù tội họ luôn có mặc cảm sâu sắc , luôn luôn tự dấu mình, chúng ta phải quan tâm tới họ, khuyến khích những yếu tố tích cực, nuôi dưỡng niềm tin và hy vọng, tất nhiên phải tỉnh táo không để bị lủng đoạn , lợi dụng gây khó khăn. TÂM LÝ HỌC TRONG KHÁM BỆNH VÀ ĐIỀU TRỊ Mục tiêu học tập 1.Mô tả được những đặc điểm tâm lý trong khám bệnh. 2.Trình bày được những phương pháp tác động tâm lý người bệnh. MỞ ĐẦU Trong quá trình khám và chẩn đoán bệnh, người thầy thuốc có kiến thức tâm lý học nhìn nhận người bệnh một cách toàn diện, giúp cho việc điều trị một cách tối ưu. Nhiều bệnh tật do các căn nguyên tâm lý thì không thể điều trị khỏi bệnh chỉ đơn thuần bằng thuốc men, mà phải sử dụng phối hợp các phương pháp tâm lý học để tác động lên người bệnh. Nói chung tất cả các người bệnh đều có những rối loạn tâm lý chung, lo lắng chung khi mắc bệnh, người thầy thuốc phải hiểu được những đặc điểm tâm lý chung của người bệnh để vận dụng trong khi đối thoại, thăm khám và tác động tâm lý bên cạnh việc sử dụng các phương pháp điều trị khác. I.KHÁM LÂM SÀNG TÂM LÝ Người thầy thuốc phải áp dụng tâm lý học để góp phần hoàn thiện phương pháp chẩn đoán, điều trị đồng thời hoàn thiện các phẩm chất tâm lý và uy tín của thầy thuốc. Vì vậy thầy thuốc phải có kiến thức về tâm lý và phải rèn luyện phẩm chất của người thầy thuốc. 1.Khái niệm Khám lâm sàng tâm lý thực chất là mở rộng lâm sàng y học, chú ý thêm những đặc điểm tâm lý. Có lẽ tốt nhất người thầy thuốc đồng thời là một nhà tâm lý học. Lâm sàng y học bắt đầu với sự quan sát toàn bộ, rồi hỏi triệu chứng, sau đó thăm khám các bộ phận về lâm sàng và cận lâm sàng để đi đến kết luận cuối cùng. Khám lâm sàng tâm lý cũng không khác bao nhiêu, ban đầu người thầy thuốc lâm sàng để ý đến mặt thể chất là chủ yếu, thì người thầy thuốc tâm lý quan tâm đến cá tính nhân cách. Làm tâm lý phải nhạy cảm trước từng con người, nhận đoán được tình hình, xác định được một số nét đặc biệt, nhưng dĩ nhiên không thể ngừng ở cách nhận xét trực giác cảm tính mà phải có phương pháp, bài bản. 2.Cách hỏi bệnh Trong khám bệnh bước đầu phải chú ý phần hành chánh qua đàm thoại trực tiếp với người bệnh những thông tin về tên họ, tuổi, quê quán, trú quán, quan hệ gia đình, kinh tế văn hóa , nghề nghiệp của người bệnh giúp ích rất nhiều cho thầy thuốc tìm hiểu nguồn gốc đặc điểm tâm lý bệnh nhân tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành mối quan hệ tốt về tâm lý với người bệnh trong quá trình điều trị, góp phần khám chữa bệnh có kết quả toàn diện. Người có bệnh thực thể dễ tự quan sát mình một cách tương đối khách quan, còn đã rối nhiễu tâm lý thì lại hiểu mình một cách tương đối sai lệch, nên cần hỏi thêm người thân , bạn bè, nhưng cũng cần cảnh giác. Người thầy thuốc cần thông cảm nhưng khách quan để cho bệnh nhân tự nhận xét, không áp đặt ý kiến của mình. Thông thường nên hỏi trước về tiền sử, như vậy dễ hiểu hơn những gì mới xuất hiện. Khai thác tiền sử bệnh rất quan trọng trong tâm lý học chẩn đoán và điều trị, khai thác tiền sử giúp chúng ta biết bệnh bắt đầu lúc nào, diễn biến ra sao, bệnh nhân suy nghĩ, tưởng tượng về bệnh mình ra sao, đánh giá nguyên nhân và tiên lượng bệnh. 3.Khai thác tiền sử 3.1.Tiền sử cá nhân Có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu nhân cách người bệnh, người thầy thuốc lâm sàng phải đánh giá lịch sử đời sống người bệnh thật tỉ mỉ và ghi vào hồ sơ bệnh án không bỏ sót, nghiên cứu lịch sử đời sống cho phép đi sâu và lòng người, thâm nhập vào thế giới nội tâm con người, nhờ quá trình đàm thoại người thầy thuốc xây dựng quan hệ tâm lý khá tốt, khắng khít với bệnh nhân, mối quan hệ này hổ trợ tốt trong quá trình điều trị. Quá trình đàm thoại phải xảy ra nhiều lần mới có thể nắm chắc được cá tính, giúp ta khái niệm đầy đủ về một con người cho ta bức tranh hoàn chỉnh về bệnh nhân đó. Trong đàm thoại cần tạo điều kiện cho bệnh nhân kể về tiền sử của mình, thầy thuốc cần chú ý tính tình, ham muốn , tình cảm, nguyện vọng...Cần chú ý khai thác trạng thái sức khỏe chung, rối loạn giấc ngủ, tính tình, biến đổi khí sắc, tính nết. Những điều này đặc biệt quan trọng đối với các bệnh nội khoa, thường những biến đổi này xuất hiện rất sớm trước khi có các biểu hiện, các triệu chứng thực thể bệnh lý Những người mắc tâm bệnh thường thích kể chuyện về bản thân và ôn lại cuộc đời, qua câu chuyện có thể quan sát cách nói, cách suy nghĩ và phán đoán...Nên ghi chép lại lời nói của bệnh nhân và từ đó để có hướng theo dõi tiếp. 3.2.Tiền sử gia đình Cần đi sâu vào tiền sử gia đình, ngoài các biểu hiện tâm lý rõ nét, nên hiểu qua cá tính các thành viên trong gia đình, đây là vấn đề tế nhị vì người ta thường hay che đậy những chuyện nội bộ của gia đình, hay dùng những ngôn từ ngụy trang và cũng để tự dối bản thân. Nhớ để ý các trường hợp sinh đôi, sự quan tâm đặc biệt quá trình mấy năm đầu, mặt khác quan sát cách bệnh nhân kể lại tuổi thơ của miình, thời kỳ học sinh , đặc biệt là những rối nhiễu thời kỳ tuổi dậy thì.Một triệu chứng có thể chỉ nhất thời hay kéo dài, có khi ở người này là một phản ứng bình thường, ở người khác là báo hiệu một bệnh nặng. Ở tuổi thanh niên cần hỏi rõ nghề nghiệp chọn theo sở thích hoặc bị động, chức vụ, tính ổn định hay không trong công việc, năng lực, tính tình, quan hệ vợ chồng giữa bố mẹ và con cái, những sự cố xảy ra trong thời kỳ có thai và nuôi con đều có tác động sâu sắc. 3.3.Về tiền sử bệnh tật Không chỉ chú ý đến bệnh nặng, mà nhiều khi những triệu chứng được xem là nhẹ kiểu đau đầu, đau xương , uể oải, ăn khó tiêu thường lại là triệu chứng ngụy trang của những rối nhiễu tâm lý. Một điểm rất khó xác định là những triệu chứng hiện hữu có phải trước kia đã biểu hiện dưới một hình thức nào đó chăng. Nhiều khi đối tượng không tự xem mình là có bệnh mà lại than phiền với người thầy thuốc là vợ hay chồng mình bị rối nhiễu, có khi trong một cặp vợ chồng người khám bệnh lại bị bệnh nhẹ hơn, mà người không tự nhận là mình có rối nhiễu lại bị nặng. III.ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TRONG KHÁM BỆNH 1.Thầy thuốc và bệnh nhân 1.1.Thầy thuốc:Trong xã hội, cùng với bố mẹ, cán bộ nhà nước ( ngày xưa gọi là ông quan) còn có những ông thầy: Thầy giáo, thầy thuốc, thầy tu( thầy cúng, thầy mo..) Đặc điểm của người thầy là: -Không có quan hệ huyết thống với đối tượng. -Không sử dụng quyền lực nhà nước như ông quan -Không tác động lên vật chất như người thợ mà tác động lên con người Để tác động lên con người, người thầy phải: - Nắm được một học thuật nhất định. "Thuật" tức là cách làm, "học" là vốn kiến thức có hệ thống, có bằng cấp hay chức vị - Không có quyền lực nhưng được 2 bên thỏa thuận cho nên có thể tìm hiểu những tình tiết thầm kín của con người như có thể cởi áo quần để khám, hỏi về tâm tư riêng, quan hệ nội bộ, vì vậy người thầy phải giữ bí mật nghề nghiệp, không được phổ biến những gì thầm kín đã phát hiện. - Cần có tinh thần trách nhiệm, làm hết khả năng đối với người bệnh. - Phải đối xử bình đẳng với mọi người, không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo. - Tránh đặt người bệnh vào thế thụ động, chỉ biết nhờ vào sự giúp đỡ của người khác. Cần lưu ý về khía cạnh tâm lý tính chủ động của đương sự là rất quan trọng. Tác động cả về mặc ý thức và vô thức. Tác động thông qua ngôn ngữ và cả những tín hiệu phi ngôn ngữ. Vì vậy một đức tính cần thiết là người thầy cần cảm nhận được những phản ứng phi ngôn ngữ và vô thức của bản thân khi đứng trước người này, người khác, đứng trước những thái độ hay hành vi này khác. Không có đức tính này, không thể làm thầy được. 1.2.Về phía bệnh nhân - Có quyền đòi hỏi sự giúp đỡ của người thầy và đặt tín nhiệm vào sự tận tình và hiểu biết của người thầy. - Có nhiệm vụ làm đúng theo những chỉ định của người thầy như cần nghỉ ngơi, cách ly. - Cần tích cực hợp tác với người thầy và có những cố gắng bản thân. Như vậy mối quan hệ giữa người thầy, là bác sĩ hay là nhà tâm lý với bệnh nhân là một mối quan hệ đặc biệt, dựa trên nhiều yếu tố tâm lý xã hội, và phần nào pháp lý. Chưa nói đến thuốc men, hay bất kỳ biện pháp trị liệu nào được đề xuất, chỉ riêng việc tiếp xúc với người thầy, mối quan hệ qua lại giữa hai bên trong quá trình khám và chữa đã có tác dụng trị liệu. Trong y học thường nói bản thân người thầy thuốc đã là một vị thuốc, nhiều khi còn quan trọng hơn một hóa chất nào đó. Có thể diễn ra những tình huống: - Bệnh nhân hôn mê, lên cơn cuồng động, trong tình trạng cấp cứu hoàn toàn bị động, người thầy hoàn toàn chủ động. - Người thầy chủ động chẩn đoán và chỉ định cách chữa, bệnh nhân hợp tác. - Bệnh kéo dài qua nhiều giai đoạn hay bước ngoặt đòi hỏi nhiều sự thay đổi trong tâm tư hay cuộc sống của người bệnh. Đây là trường hợp phức tạp, nhiều khi chính người thầy cũng đâm ra lo hãi rồi viện lẽ này lẽ khác để thoái thác như thiếu thì giờ, như đôí trách nhiệm sang cho một chuyên khoa khác và chuyển đến thầy này hay thầy khác. 2.Những đặc điểm tâm lý trong khám bệnh Phòng khám yên tỉnh không có ai ra vào trong lúc khám, trong những trường hợp phức tạp không để sinh viên tham dự, người thầy không ngồi gần quá cũng không xa quá, thường không nên trực diện, mặt đối mặt mà ngồi né một bên. Có khi cần khám với sự có mặt của người thân, có khi chỉ cần có một mình bệnh nhân, không nên khám hỏi quá vội vàng cũng không kéo dài quá. Khi khám người thầy vận dụng một số thao tác : Quan sát, hỏi han, khám và thử nghiệm, ba thao tác này quyện vào nhau, không nhất thiết cái trước, cái sau theo một trình tự nhất định. Khi hỏi bệnh nên để người bệnh tự nói ra nhưng không để bệnh nhân nói thao thao bất tuyệt, và cuối cùng hỏi một số câu vào những điểm chưa được nói đến hoặc chưa rõ ràng. Hỏi bệnh là một "kỹ thuật" cần được tiến hành chặt chẽ, vừa là một "nghệ thuật" cần được tiến hành một cách linh động. Trong lúc khám thông qua những câu hỏi, đối đáp làm cho người bệnh yên tâm và cũng có dịp để tâm sự những điều thầm kín của mình để giải tỏa bớt. Người bệnh thường bắt đầu nói triệu chứng hiện đang làm rối nhiễu cuộc sống: Một triệu chứng hoặc mang tính thể chất, như đau nhức hay rối loạn một chức năng sinh lý nào đó, hoặc mang tính chất tâm lý như quên, thay đổi tính tình hoặc xung đột trong cuộc sống xã hội. Điều đầu tiên là phân tích kỹ triệu chứng trên cơ sở hiểu biết nhất định về các loại bệnh chứng và rối nhiễu tâm lý, mặc dù sự phân tích triệu chứng đầu tiên chưa nhất thiết dẫn đến chẩn đoán. Cần tìm hiểu tính chất của triệu chứng như thời điểm xảy ra và những tình huống, tình tiết có liên quan ví dụ: uể oải xãy ra vào buổi sáng sau khi ngũ dậy hay buổi chiều sau khi lao động về. Khám nghiệm tâm lý có thể tiến hành sau , trước hay cùng một lúc với khám y khoa. Bác sĩ Y khoa vừa đồng thời biết tâm lý là rất thuận lợi. Không phải lúc nào khám y khoa cũng cho những kết quả rõ ràng, trong nhiều trường hợp, thầy thuốc không tìm ra một tổn thương thực thể nào, rồi đó gọi là triệu chứng chức năng, đối với thầy thuốc chưa học tâm lý điều này nói lên sự bất lực của y học, rồi hoặc bỏ qua, hoặc đưa đâíy bệnh nhân đến chuyên khoa tâm thần. Những rối nhiễu tâm lý có thể gặp ở tất cả các chuyên khoa, những triệu chứng thực thể dẫn đến thầy thuốc như: nhức đầu, nhức xương, rối loạn tim mạch, nhiều khi chỉ là một cách vô thức kêu cứu để mong có sự giúp đỡ về tâm lý, đằng sau những triệu chứng là những nỗi khổ, nan giải trong cuộc sống.. Tóm lại: Ngay từ lúc đầu trong quá trình khám quan sát theo dõi dáng mạo, tư thế , cách đứng ngồi, cử động, nét mặt, nếp nhăn ở trán, đôi mắt quầng đen, nét mặt bi?n động, nhìn thẳng hay tránh né, nhìn xuống đất hay ngẫng đầu. Về ngôn ngữ có thể mất luôn hay ngập ngừng, tự nói hay chỉ trả lời câu hỏi, rụt rè, giọng nói cao thấp, ngôn ngữ thô lỗ, tế nhị... Quan sát tư thế, vận động , ngôn ngữ có thể thực hiện trong lúc tiếp xúc giữa hai bên. Người thầy có kinh nghiệm sau buổi tiếp xúc đã thu thập những thông tin có giá trị (con mắt tinh đời) hoặc vận dụng một số trắc nghiệm vận động, ngôn ngữ. 3.Chẩn đoán tâm lý Sau khi tập hợp được các thông tin thu được trong khám nghiệm cần vẽ ra được toàn bộ nhân cách của người bệnh với những mặt như thể trạng, trí năng, văn hóa, cá tính. -Trong phần chẩn đoán bệnh cần chú ý chẩn đoán phần nhân cách và trạng thái tâm lý người bệnh trên những nét tâm lý đại cương. Có loại người nghi bệnh, trầm cảm , bi quan, ngược lại có loại người lạc quan vô tư quá mức hoặc mặc kệ coi thường bệnh tật vì vậy việc xác định nhân cách và trạng thái tâm lý của người bệnh trong mối liên quan với bệnh tật và hoàn cảnh gây bệnh, hình ảnh bên trong của bệnh và đặc điểm nhân cách bên ngoài của ngưòi bệnh là điều rất cần thiết. Dựa vào sự đánh giá nhân cách và trạng thái tâm lý người bệnh để đề ra nghệ thuật tiếp xúc, chẩn đoán tâm lý , điều trị tâm lý. Tóm lại thấy rõ "con người " chứ không phải như trong y học chỉ thấy "ca bệnh”, tệ hơn nữa chỉ thấy một triệu chứng, một đặc điểm nào đó (Huyết áp, điện não, điên tâm đồ...) Câu hỏi đầu tiên là: Con người này khỏe hay yếu. Khỏe cần hiểu theo nghĩa là có khả năng thích nghi với mọi biến động trong môi trường, đáp ứng với những đòi hỏi và thách thức trong lao động và cuộc sống. Thách thức không những về thể lực mà cả về tâm trí. Câu hỏi thứ 2 là: Con người này dại hay khôn, có thể đặt các câu hỏi, gợi ý kể chuyện và đánh giá qua những yếu tố cơ bản: -Trí nhớ -Khả năng chú ý vào một điểm nào đó -Khả năng định hướng trong không gian -Khả năng định hướng thời gian -Đánh giá khả năng suy tư -Đánh giá khả năng suy luận phán đoán IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁC ĐỘNG TÂM LÝ 1.Mục đích - Vận dụng kiến thức và phẩm chất tâm lý y học vào công tác điều trị - Vận dụng tâm lý y học để tác động lên bệnh nhân các quá trình tâm lý, trạng thái tâm lý, đặc điểm tâm lý cá nhân. - Áp dụng tâm lý y học tham gia tích cực vào công tác điều trị toàn diện, điều trị bằng tâm lý để rút ngắn ngày điều trị. 2.Yêu cầu - Người thầy thuốc là một nhà tâm lý học, có kiến thức y học và tâm lý học, có phẩm chất đạo đức y học của người thầy thuốc Xã Hội Chủ Nghĩa - Luôn rèn luyện phẩm chất tâm lý, áp dụng tâm lý học hai chiều ( tác động cho bệnh nhân và cho chính mình) 3.Ý nghĩa -Điều chỉnh các rối loạn hiện tượng tâm lý ( cảm giác , tâm trạng, nhân cách, ...) -Bình thường hóa nhận thức về bệnh tật không hoang mang lo sợ. -Thích nghi với môi trường bệnh viện cũng như ở nhà -Nâng cao nhận thức phòng bệnh, tự phấn đấu loại trừ các bệnh chức năng do nguyên nhân tâm lý. -Cũng cố tâm lý bệnh nhân qua các giai đoạn bệnh lý -Chuẩn bị cho bệnh nhân về sống hài hòa với gia đình và xã hội 4.Các phương pháp tác động tâm lý bệnh nhân 4.1.Phương pháp gián tiếp - Tâm lý môi trường tự nhiên: Quang cảnh , cây xanh, vườn hoa, bóng mát, phòng bệnh, trang thiết bị, khí hậu , nhiệt độ, màu sắc ( tùy theo bệnh lý để có màu sắc thích hợp có tác động tâm lý bệnh nhân (đen xám ức chế gây buồn, bệnh nhân tim mạch lo sợ màu đỏ, 60% bệnh nhân cường giáp thích màu tím ....) - Tâm lý môi trường xã hội:Sự tác động của gia đình , cơ quan, xóm làng, tinh thần thái độ Bác sỹ , y tá , hộ lý.. 4.2.Phương pháp tác động trực tiếp - Lời nói: Nhỏ nhẹ , dịu dàng, khuyến khích an ủi bệnh nhân - Ám thị bằng lời nói : Thầy thuốc ám thị bệnh nhân để bệnh nhân tin tưởng, an tâm điều trị, - Thôi miên ( ám thị trong giấc ngủ): Bác sỹ cho bệnh nhân đi vào giấc ngủ bằng lời nói, ám thị , hoặc những kích thích đơn điệu đều đều. Bệnh nhân được ngũ không hoàn toàn có khoảng tỉnh dành cho bác sỹ thôi miên điều khiển, bệnh nhân chỉ nghe theo hướng dẫn của thầy thuốc về chữa bệnh và làm theo lời bác sỹ. Trong thôi miên người bệnh chịu ảnh hưởng rất lớn của thầy thuốc . Chữa bệnh thôi miên có kết quả đối với những bệnh rối loạn chức năng. - Điều trị nhóm: Thầy thuốc điều khiển một nhóm bệnh nhân trao đổi lẫn nhau để chữa bệnh - Dùng chế phẩm thuốc Placebos. - Các phương pháp không dùng thuốc: Dưỡng sinh thái cực quyền, yoga, giải trí, thể thao, du lịch.. - Tâm lý học điều trị trong điều trị toàn diện - Giữ bí mật cho bệnh nhân: Bệnh nhân nào cũng có nỗi niềm riêng không muốn cho người khác biết thầy thuốc phải giữ bí mật cho bệnh nhân nếu điều đó không ảnh hưởng đến an ninh xã hội. Đối với bí mật có hại thầy thuốc phải biết phân tích vận động để bệnh nhân xử thế đúng đắn. Những bí mật có hại cho xã hội thầy thuốc phải ngăn chặn và đồng thời báo các ngành hữu quan. - Phải có lập trường giai cấp trong phục vụ bệnh nhân: Trong khám chữa bệnh không phân biệt đối xử giàu nghèo, già trẻ, xấu đẹp.. Đối với người lao động , người có công, cần được quan tâm,thể hiện tình cảm giai cấp , gần gũi họ - Chú ý công tác truyền thông GDSK trong thời gian điều trị - Chống đau đớn cho bệnh nhân: Chống đau là vấn đề hết sức quan trọng trong tâm lý y học, thầy thuốc phải chú ý điều trị bằng tâm lý kết hợp với các loại thuốc an thần , chống đau.., không nên điều trị chống đau kéo dài mà chủ yếu điều trị bằng tâm lý hoặc dùng thuốc thế phẩm (placebo) làm cho bệnh nhân yên tâm tin tưởng - Điều trị bằng tâm lý : Các nhà khoa học đều thấy trên 80% bệnh có thể tự khỏi mà không cần điều trị, vì vậy trong điều trị phải áp dụng điều trị bằng tâm lý. Trong thực tiễn có nhiều bệnh do nguyên nhân tâm lý nếu không chữa khỏi bằng tâm lý bệnh có thể chuyển từ cơ năng thành thực thể, tồn tại suốt đời. Điều trị tâm lý có thể kết hợp thuốc, xoa bóp... - Giải quyết tốt các khâu đối với bệnh nhân ra vào viện: Từ phòng bảo vệ đến phòng tiếp đón đến phòng khám đến bệnh phòng các khâu phải hoàn chỉnh, chăm sóc chu đáo. Khi chuyển khoa phải đả thông và có cán bộ đưa đi. Khi ra viện phải có hướng dẫn cụ thể nếu được thỉnh thoảng có thể đến thăm lại bệnh nhân. Khi bệnh nhân hấp hối phải tích cực hết lòng cứu chữa, nếu bệnh nhân chết phải làm tốt quy chế đối với người bệnh tử vong: ít nhất có hai Bác sỹ chứng kiến, vuốt mắt, thay áo.. và đưa đến nhà vĩnh biệt thì chú ý phong tục tập quán tôn giáo, theo yêu cầu của gia đình.
File đính kèm:
- giao_trinh_tam_ly_y_hoc_phan_1.pdf