Góp phần tìm hiểu tư tưởng của Phan Bội Châu
Tóm tắt Góp phần tìm hiểu tư tưởng của Phan Bội Châu: .... Theo ông, tạo hóa đã tạo ra con người “thập phần chu đáo” (Phan Bội Châu, 1990, tập 4, tr. 201), các bộ phận trên thân thể của con người không thừa mà cũng không thiếu, các cơ quan đó đều có chức năng riêng và có mối quan hệ với nhau giúp cho “thành” “phủ” của thế giới linh hồn tồn t...quyền phải là những nước có “hình CAO XUÂN LONG, LẠI VĂN NAM – GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG 6 pháp, chính lệnh, thuế khóa, tiêu dùng đều do nghị viện quyết định, mà nghị viện thì đều do nhân dân tổ chức nên, Chính phủ không được can thiệp vào. Hàng năm đến kỳ nghị viện họp, các nghị viên...nên dù tàu to xuồng nhỏ, chỉ huy vẫn được xong xuôi” (Phan Bội Châu, 1990, tập 1, tr. 55). Bốn chuẩn mực đạo đức nêu trên, Phan Bội Châu trên quan điểm của Nho giáo gọi là Tứ đoan. Ông giải thích: “Thuyết tứ đoan là nói ở trong lòng người ta có bốn mối lành cũng gọi là bốn tính: thươ...
ời. Phan Bội Châu cho rằng con người là chủng tộc biết thương yêu, đùm bọc và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Ông viết: “Trời đất sinh ra vật, chia ra các chủng tộc. Chủng tộc có vẩy thì ở dưới nước, chủng tộc có lông thì ở trên cao; con người ta đều có chủng tộc. Cùng một chủng tộc mà lại hại lẫn nhau, đó là giống vật tầm thường. Cùng chủng tộc biết thương yêu nhau mới gọi là con người” (Phan Bội Châu, 1990, tập 2, tr. 346). Từ nội dung nguồn gốc và bản chất CAO XUÂN LONG, LẠI VĂN NAM – GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG 5 con người, Phan Bội Châu đã gửi vào đó một thông điệp giản dị nhưng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là, trong điều kiện lịch sử xã hội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mọi người dân trên đất nước Việt Nam phải đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau để tạo thành một sức mạnh to lớn nhằm “chống lại những kẻ không phải là người” để giải phóng con người, giải phóng dân tộc Việt Nam và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người phát triển. 2.3. Quan điểm chính trị-xã hội Vấn đề nhân cách-quyền của con người. Theo Phan Bội Châu nhân cách là khái niệm dùng để chỉ cách mà con người biểu hiện với ba mối quan hệ trong quá trình hình thành, phát triển của mình, đó là “trên đối với trời, dưới đối với đất, giữa đối với vật và ngã” (Phan Bội Châu, 1990, tập 10, tr. 145), cách biểu hiện đó buộc con người phải thực hiện cho đến tận cùng trong vấn đề “phẩm cách làm người, cách thức làm người, cách điệu làm người” (Phan Bội Châu, 1990, tập 10, tr. 145). Nội hàm, bản chất của vấn đề nhân cách biểu hiện thông qua ba mối quan hệ cơ bản của con người. Một là, xét trong mối quan hệ của con người với Đấng tạo hóa, điều có nghĩa đầu tiên của nhân cách - đó là phẩm cách thứ nhất của con người trong bảng xếp hạng của thế giới tự nhiên “vô thức” và “hữu thức”. Phẩm cách đó không phải do con người “tự phong” cho mình, mà chính nhờ những giá trị về trí tuệ, đạo đức và năng lực vượt trội của loài người hơn hẳn so với sự vật hiện tượng trong thế giới này. Ông còn khẳng định rằng: thậm chí “loài người đần ngu lắm nữa cũng vẫn thiêng hơn loài vật” (Phan Bội Châu, 1990, tập 2, tr. 58). Cho nên Đấng tạo hóa đã phong hàm “nhất phẩm” cho con người. Hai là, xét trong mối quan hệ giữa con người với xã hội điều có nghĩa thứ hai của nhân cách - đó chính là tư cách của con người. Vấn đề tư cách của con người được thể hiện qua mối liên hệ của con người với vấn đề độc lập dân tộc, vấn đề chủ quyền của mỗi quốc gia và vấn đề nhân quyền trong xã hội. Còn khi căn cứ vào Luật trời và Công pháp vạn quốc, Phan Bội Châu đã khẳng định độc lập tự do là quyền của mỗi dân tộc không ai có quyền xâm phạm, chính vì vậy, việc đấu tranh giành lại quyền độc lập tự do cho dân tộc ta là hợp luật trời và luật pháp quốc tế. Chính vì vậy, theo ông một đất nước nếu biết cách đề cao dân quyền thì không những nhân dân sẽ được tôn trọng mà đất nước ấy cũng sẽ mạnh lên. Nếu đất nước nào dân quyền bị xem nhẹ, thì không những dân bị coi khinh, mà nước ấy cũng yếu. Còn dân quyền của nước nào hoàn toàn bị mất thì nhân dân sẽ mất, mà đất nước cũng không còn. Xét nhân cách của con người trong quan hệ với hệ thống nhà nước, nội hàm nhân cách trong mối quan hệ này được thể hiện qua quyền dân chủ của người dân trong đất nước. Phan Bội Châu sau khi tìm hiểu những ưu khuyết điểm của thể chế chính trị ở các nước trên thế giới, đã nhận thức được rằng sự phát triển quốc gia biểu thị thông qua việc tôn trọng quyền của con người mà đặc biệt là quyền làm chủ của người dân. Ông đã viết: “những cường quốc, tức là đều là những nước mà dân quyền được đề cao” (Phan Bội Châu, 1990, tập 2, tr. 387). Theo ông những nước biết đề cao dân quyền phải là những nước có “hình CAO XUÂN LONG, LẠI VĂN NAM – GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG 6 pháp, chính lệnh, thuế khóa, tiêu dùng đều do nghị viện quyết định, mà nghị viện thì đều do nhân dân tổ chức nên, Chính phủ không được can thiệp vào. Hàng năm đến kỳ nghị viện họp, các nghị viên tụ tập đông đủ. Chính phủ phải trình bày dự án trước nghị hội. Nghị hội tức là nhân dân. Những điều nhân dân cho là phải chính phủ không thể không làm; những điều nhân dân cho là trái, chính phủ không được làm. Tuy rằng sắc chiếu của Hoàng đế rất là đáng tôn trọng, nhưng nếu nghị viện không đồng ý thì cũng phải thu hồi mệnh lệnh đó. Dân quyền đáng sợ như thế vậy!” (Phan Bội Châu, 1990, tập 2, tr. 387). Chính vì vậy, theo ông mối quan hệ giữa nhân dân với chính phủ là mối quan hệ biện chứng tác động, chi phối lẫn nhau. Bởi vì, khi người dân có quyền làm chủ thì đất nước cũng theo đó mà có sức mạnh. Ông viết: “Một người, một nhà hay một nước, tất thảy là một phần tử ở trong xã hội chúng ta đem thân vào xã hội, không cần xem ở nơi xã hội, mà cần phải xem nơi thân ta, bởi vì thân ta chính là một phần tử ở trong xã hội. Nếu thân ta tốt thời xã hội được một phần tử tốt rồi, dần dà lâu lắc, ảnh hưởng càng đi càng xa, đến lúc cuối cùng, tất nhiên tuyền xã hội tốt cả” (Phan Bội Châu, 1990, tập 9, tr. 192). Theo ông quyền tự do của nhân dân là quyền được làm những điều trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước đã quy định. Khi khẳng định quyền làm người, Phan Bội Châu đã vượt lên hẳn quan điểm của Nho giáo khi xem xét quyền làm người của nam và nữ, và đặc biệt chú ý đến quyền của người phụ nữ, theo ông vấn đề nữ quyền ở phương Đông được chú ý đúng mức vào khoảng “cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đời sống văn minh Âu châu đẩy ít nhiều bọt bèo tràn vào Đông Á. Thình lình mà hai chữ nhân quyền mới nẩy ra trên mấy tờ báo nhảm. Thấp thoáng ở bên tai mấy cô mấy chị mới có hai chữ nữ quyền” (Phan Bội Châu, 1990, tập 4, tr. 88- 89). Ông cho rằng việc phân biệt nam quyền và nữ quyền là do chế độ quân chủ dựng nên để phủ nhận hay hạn chế quyền làm người của người nữ. Xét trên mối quan hệ của con người đối với chính bản thân mình đã làm nên nghĩa thứ ba của nhân cách – đó chính là cách thức làm người. Cách thức làm người do chính mỗi cá nhân đặt ra, nó được quy định thành những “khuôn mẫu”, “như trung tín, liêm sỉ, đạo đức, luân lý, v.v. cho đến lỗ tai nghe cho tỏ, con mắt thấy cho sáng, bộ óc thấy cho sâu, sức phấn đấu cho mạnh dạn, gan mạo hiểm tiến thủ cho bền dai” (Phan Bội Châu, 1990, tập 4, tr. 216), mà từng cá nhân phải gìn giữ, phải phấn đấu thực hiện trong suốt cuộc đời của mình. Theo Phan Bội Châu, trong điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ thì trong nội dung nhân cách chỉ còn cách thức làm người là chúng ta có thể giữ được. Bởi vì, nó tồn tại trong chính bản thân mỗi con người “dầu ai cũng không phép gì ngăn cấm được ta, mà cũng không ai cướp bóc được ta” (Phan Bội Châu, 1990, tập 4, tr. 216). Ông còn khẳng định rằng trong các nội dung của nhân cách con người thì “đồng bào ta thiệt chỉ còn ngần ấy là có giá trị” (Phan Bội Châu, 1990, tập 4, tr. 216). Tư tưởng của Phan Bội Châu về giải phóng con người. Ông cho rằng vấn đề giải phóng con người là cần thiết, hợp quy luật, chính nghĩa và tất yếu sẽ giành thắng lợi. Từ một niềm tin vững chắc vào chiến thắng, ông đã chỉ ra nội dung giải phóng CAO XUÂN LONG, LẠI VĂN NAM – GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG 7 con người như sau: Về đối tượng giải phóng, tư tưởng Phan Bội Châu về con người không phải là con người chung chung trừu tượng, cũng không phải là toàn bộ nhân dân lao động trên toàn thế giới, mà đó chính là dân tộc Việt Nam, nhân dân lao động Việt Nam đang bị áp bức bóc lột. Về nội dung giải phóng con người, Phan Bội Châu quan tâm giải phóng con người toàn diện - cả về nhân thể và nhân tính. Trên quan điểm của Nho giáo ông đã đưa ra phương pháp quản lý xã hội bằng nhân trị, đức trị. Trong đó Phan Bội Châu chú trọng đến hai việc đó là dưỡng dân và giáo dân, hai việc này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau góp phần làm cuộc sống con người tốt đẹp hơn. Phan Bội Châu cho rằng: “Dưỡng dân là lo cho dân về phần sống xác thịt. Giáo dân là lo cho dân về phần sống tinh thần. Dưỡng với giáo vẫn đồng thì tịnh hành, nhưng cũng óc hoãn cấp sai nhau chút đỉnh; trước lo dưỡng rồi sau mới lo đến giáo” (Phan Bội Châu, 1990, tập 10, tr. 71). Theo Phan Bội Châu, để cải tạo xã hội, giải phóng về mặt nhân thể thì cần phải có những con người có nhân tính tốt, những người đó phải vừa có trí tuệ, vừa có tấm lòng sẵn sàng hy sinh vì dân tộc. Những con người biết hy sinh vì dân tộc và đồng loại là những con người được giáo dục tốt. Do đó, để giải phóng con người, Phan Bội Châu cho rằng cần phải thực hiện hai nhiệm vụ - đó là dưỡng dân và giáo dân: 2.4. Quan điểm về đạo đức, giáo dục Về vấn đề đạo đức. Theo Phan Bội Châu đạo đức là những chuẩn mực, những quy tắc đúng đắn có sẵn, là lẽ phải tự nhiên, gốc ở lẽ trời mà con người phải thực hiện nhằm chứng tỏ bản chất của mình. Do đó, ông cho rằng đạo đức có vai trò rất quan trọng trong việc chi phối hành động của con người, những chuẩn mực đạo đức được xem như bánh lái, cái neo của một con thuyền, nếu không có đạo đức định hướng thì hành động của con người không xác định được sự đúng sai, tốt xấu, cũng giống như con thuyền không bánh lái mất phương hướng trên biển cả. Do đó ông khẳng định rằng: “Chưa có ai muốn chở thuyền cho thành thạo mà lại để nó chìm nổi tự nhiên; Muốn giữ tâm cho đúng đắn mà lại để nó thu phóng quàng xiên. Phải theo đạo cho đúng thì tâm mới không thiên. Phải giữ lái cho vững thì thuyền mới đi yên. Hợp lại mà xem, đề phòng lòng dục còn khó hơn đề phòng dòng nước; nói ra cho rộng, điều khiển con tâm cũng như điều khiển con thuyền” (Phan Bội Châu, 1990, tập 1, tr. 55). Như vậy, để cho tâm con người không dao động, không chao đảo như “cái thuyền không lái, không neo” thì cần phải có “đạo tâm” mà đạo tâm đó biểu hiện qua bốn chuẩn mực đạo đức cơ bản, đó là nhân, nghĩa, lễ, trí. Phan Bội Châu đã lý giải rõ thêm: “Phải lấy nghĩa làm sào mà đẩy, lấy nhân làm chèo mà bơi. Thẳng cửa đạo mà vào, lái vững dù đông tây vẫn được, cứ bờ đạo mà tiến, lái chắc dù tả hữu không sai. Thế là thuyền theo lái, nên dù tàu to xuồng nhỏ, chỉ huy vẫn được xong xuôi” (Phan Bội Châu, 1990, tập 1, tr. 55). Bốn chuẩn mực đạo đức nêu trên, Phan Bội Châu trên quan điểm của Nho giáo gọi là Tứ đoan. Ông giải thích: “Thuyết tứ đoan là nói ở trong lòng người ta có bốn mối lành cũng gọi là bốn tính: thương yêu người là mối nhân; biết xấu thẹn là mối nghĩa; biết từ nhượng là mối lễ; biết phân biệt điều phải trái là mối trí” CAO XUÂN LONG, LẠI VĂN NAM – GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG 8 (Phan Bội Châu, 1990, tập 4, tr. 202-203. Vai trò của tứ đoan rất to lớn, nó không chỉ có giá trị đối với từng cá nhân, mà nó còn có giá trị đối với việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Ông viết: “Lòng tứ đoan khi mới mở mối, chỉ như một giọt nước chảy ra, mà giọt nước ấy chảy mãi chảy hoài thời chắc có lúc đi đến tận bể mà thành ra bể lớn, người ta thiệt khoách sung tứ đoan thời công việc tề gia, trị quốc bình thiên hạ cũng chỉ ở tấm lòng suy ra mà thôi” (Phan Bội Châu, 1990, tập 10, tr. 33). Về giáo dục. Trong điều kiện nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thì nhiệm vụ giáo dân càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bởi vì, theo ông đất nước ta trì trệ, chậm phát triển và không chống đỡ được quân xâm lược là do lối tư duy cũ kỹ lạc hậu, và một nền giáo dục hủ cựu lúc bấy giờ đã che mắt nhân dân ta, làm cho nhân dân ta ngu muội. Việc chấn hưng đất nước, giải phóng dân tộc cần phải có một nền giáo dục tiên tiến theo kịp với thời đại. Nền giáo dục đó được ông đề ra như sau. Về mục đích giáo dục, đối với từng cá nhân giáo dục có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành nhân cách con người. Phan Bội Châu khẳng định: “Chúng ta sở dĩ học là cốt để học làm người, mà khuôn mẫu làm người, tất phải làm cho đến thánh; mà muốn làm cho đến thánh tất phải tìm cho ra tinh tuý của thánh nhân; tất phải hết sức dụng công ở nơi việc học” (Phan Bội Châu, 1990, tập 9, tr.259). Giáo dục không chỉ có tác dụng đối với từng người mà nó còn có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề giải phóng dân tộc và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc. Ông viết: “Có chú trọng giáo dục thì mới bỏ được việc riêng tư mà theo công lợi, mới làm cho nước giàu mạnh tiến tới” (Phan Bội Châu, 1990, tập 2, tr. 263). Về đối tượng giáo dục, Phan Bội Châu cho rằng việc giáo dục là cần thiết cho mọi người, vào mọi lúc mọi nơi, mọi thời điểm, “còn là người, thì cần phải giáo dục”, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, Ông đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục binh lính, phụ nữ. Bởi vì ông cho rằng, binh lính là lực lượng bảo vệ, giúp đỡ mọi người dân trong xã hội, còn phụ nữ có trách nhiệm làm mẹ, giúp đỡ chồng con, và cũng là người có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách, tình cảm và trí tuệ của trẻ - “những chủ nhân tương lai của đất nước”. Về nội dung giáo dục con người, Phan Bội Châu cho rằng cần phải giáo dục con người toàn diện, có ích cho xã hội, để làm được điều đó cần phải chú trọng cả hai mặt đức dục và trí dục, “nhằm mở mang lòng dân yêu nước và lòng tin yêu lẫn nhau, khai dân trí, giúp dân quyền khiến cho ai ai cũng tiến bộ ngàn dặm” (Phan Bội Châu, 1990, tập 2, tr. 262-263). Ông cho rằng nội dung giáo dục không được bỏ sót thứ gì, nhưng cũng cần phải tập trung dạy những điều người dân cần học, cần sử dụng, những điều có ích đối với sự phát triển của bản thân và của đất nước, chứ không phải “giáo dục những điều mình sẵn có”. Từ việc tìm hiểu mô hình, cách thức giáo dục của các nước, đặc biệt kinh nghiệm giáo dục của Nhật Bản thời kỳ duy tân, Phan Bội Châu đã thiết kế một mô hình giáo dục cho nước nhà hết sức phong phú và đặc sắc. Ông viết: “Giáo dục, đức dục, thể dục, không bỏ sót thứ gì. Học Trung Quốc, học Nhật Bản, học châu Âu, học đủ các điều. Các ấu trĩ viện, dục anh viện, các trường tiểu học, CAO XUÂN LONG, LẠI VĂN NAM – GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG 9 trung học, đại học khắp thành thị, thôn quê chỗ nào cũng có. Khi mới duy tân thì các thầy giáo dạy ở các trường còn phải mời người Nhật Bản, người châu Âu, châu Mỹ về dạy. Khi đã duy tân kha khá rồi thì vừa người nước ta thì đã có trình độ hơn cả người châu Âu, châu Mỹ, phải khỏi mời người nước ngoài nữa. Cách thức mở trường, sắp xếp việc học, việc dạy, việc bổ nhiệm những người học đã thành tài, đều bắt chước theo cái hay cái tốt của các nước như Nhật Bản và châu Âu. Học triết học, văn học, sử học, chính trị, kinh tế, quân sự, pháp luật, học công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, nữ công, kỹ thuật, lâm nghiệp, Mọi việc mà dân ta cần học đều mời thầy, mở trường để cho người nước ta bất kỳ giàu hay nghèo, sang hèn, trai gái kể từ 5 tuổi trở lên, thì vào học ở trường ấu trĩ viện, để chịu sự giáo dục của bậc ấu trĩ, tám tuổi trở lên thì vào học ở trường tiểu học, để chịu sự giáo dục của bậc tiểu học; mười bốn tuổi trở lên thì vào học ở trường trung học, để chịu sự giáo dục của bậc trung học. Đến tuổi 18 thì tài chất đã khá, thì vào các trường cao đẳng, để chịu sự giáo dục của các trường cao đẳng chuyên nghiệp” (Phan Bội Châu, 1990, tập 2, tr. 261-262). Như Phan Bội Châu đã khẳng định: giáo dục là “cái khuôn đúc” tạo ra con người, nếu khuôn đúc đó tốt đẹp, sắc sảo thì tạo ra tinh hoa, ra sức mạnh cho đất nước, cho nên mọi vấn đề trong nội dung giáo dục phải được thực hiện, đôn đốc, giám sát, kiểm tra một cách nghiêm túc, cẩn thận của toàn xã hội, từ việc chăm lo tổ chức các lớp học, các cấp học để giáo dục con người, đến những bộ giáo trình chuẩn, thống nhất từ trên xuống dưới do Bộ Giáo dục quy định dưới sự kiểm tra nghiêm ngặt của Nghị viện. Mặt khác, để giáo dục con người có hiệu quả Phan Bội Châu đã chỉ ra những yêu cầu cụ thể cần phải có của thầy và trò, trong đó đối với người thầy, Phan Bội Châu cho rằng để làm được thầy người khác một cách “chính danh” trước hết không được quên “ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hỹ” (Luận ngữ, 1950, tr. 20). Mặt khác, người dạy khi giảng dạy cần phải xác định rõ đối tượng học để có cách dạy phù hợp với trình độ của từng người. Theo Phan Bội Châu, người thầy giáo giỏi cũng như “người thầy thuốc giỏi, thường hay tuỳ bệnh chứng từng người mà khai đơn thuốc” (Phan Bội Châu, 1990, tập 9, tr. 240). Ngoài ra, người thầy cũng cần vận dụng phương pháp trực quan, nêu gương trong công tác giáo dục đào tạo. Theo Phan Bội Châu có một cách dạy người bằng trực quan, không sử dụng lời nói để truyền đạt thông tin đến người học mà thông qua những cử chỉ, hành động và tấm gương đạo đức của bản thân, người giáo viên biểu đạt thông tin cho người học làm theo và ghi nhớ. Làm như vậy người thầy bên ngoài nhìn vào có vẻ không dạy, nhưng thực chất “là dạy rồi, không cần dạy bằng miệng nói” (Phan Bội Châu, 1990, tập 9, tr. 244). Bên cạnh đó, ông còn cho rằng người dạy cần tránh hai điều: trước tiên cần tránh nói những điều vô bổ không có ích với người học, cũng như không đáp ứng được yêu cầu của xã hội đang đặt ra; ngoài ra, người dạy cũng nên tránh thái độ quá nghiêm khắc thái quá đối với người học. Còn đối với người học, Phan Bội Châu đã nêu ra ba yêu cầu quan trọng để giúp người học đạt kết quả cao trong học tập. Về ý thức đạo đức trong học tập, ông khuyên người học cần phải khiêm tốn, CAO XUÂN LONG, LẠI VĂN NAM – GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG 10 thành thật, nghiêm túc và chủ động sáng tạo trong học tập. Ông cho rằng: “Chúng ta học thánh nhân, chẳng những học những điều Ngài nói, mà điều Ngài không nói chúng ta càng nên để ý lắm” (Phan Bội Châu, 1990, tập 9, tr. 247). Về cách đọc sách. Phan Bội Châu cho rằng đây là một trong những phương pháp quan trọng giúp người học tiếp thu kiến thức của người dạy tốt hơn, ông nói: “Học sách không phải là đọc chữ cho thục là gọi bằng học được đâu! Tất thảy phải phát minh ý tứ của sách ở ngoài mặt chữ mới gọi bằng biết đọc sách” (Phan Bội Châu, 1990, tập 9, tr. 213). Về vấn đề chọn bạn, để việc học đạt kết quả tốt nhất thì một trong những vấn đề quan trọng là việc kết bạn. Mỗi chúng ta nên chọn những người làm bạn có ích cho việc học của mình. 3. KẾT LUẬN Nội dung tư tưởng triết học của Phan Bội Châu là đặc sắc, phong phú và tương đối có hệ thống trên nhiều khía cạnh: từ những vấn đề về bản thể của thế giới, nhận thức luận, quan điểm biện chứng, đến những vấn đề về con người, quyền con người, giáo dục, đạo đức, Những nội dung đó là sự kế thừa, kết hợp có chọn lọc những tư tưởng đạo đức của phương Đông, phương Tây và truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, nhằm giải phóng con người, giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Nếu lọc bỏ những hạn chế nhất định mang tính lịch sử trong tư tưởng của ông, thì những nội dung tư tưởng đặc sắc đó vẫn có ý nghĩa lý luận, là bài học bổ ích trong quá trình xây dựng đất nước ta hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Boudarel, G. 1997. Phan Bội Châu và xã hội Việt Nam ở thời đại ông (Bản dịch của Chương Thâu, Hồ Song). Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin. 2. Chương Thâu, Trần Ngọc Vương. 2001. Phan Bội Châu về tác giả và tác phẩm. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 3. Chương Thâu. 2004. Nghiên cứu Phan Bội Châu. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 4. Hoài Thanh. 1978. Phan Bội Châu. Hà Nội: Nxb. Văn hóa. 5. Hồ Chí Minh. 2000. Toàn tập. Tập 2. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 6. Luận ngữ. 1950. Sài Gòn: Nxb. Trí Đức. 7. Phan Bội Châu. 1990. Toàn tập. Tập 1- Tập 10. Huế: Nxb. Thuận Hóa. 8. Trần Văn Giàu. 1993. Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám. Tập 1, 2, 3, TPHCM: Nxb. TPHCM.
File đính kèm:
- gop_phan_tim_hieu_tu_tuong_cua_phan_boi_chau.pdf