Hoạt động du lịch vùng Huế trước năm 1975
Tóm tắt Hoạt động du lịch vùng Huế trước năm 1975: ...h lập Ủy ban Danh thắng (Commission des Sites). Ủy ban này có nhiệm vụ tư vấn cho Toàn quyền Đông Dương về những vấn đề liên quan đến việc bảo tồn và khai thác các danh lam thắng cảnh cũng như các di tích kiến trúc nghệ thuật trên toàn cõi Đông Dương. ... du khách không được đem trẻ con nhỏ tuổi theo và không được đưa xe kéo vào. Người ta cũng cấm dắt chó theo. Về xe kéo, có thể nhờ lính gác cổng giữ hộ và đưa đến trả lại cho du khách ở cổng ra (khách đi vào bằng cửa Hiển Nhơn, về sau là bằng cả c...ng thời, Phòng Du lịch Huế ấn hành một tập sách mỏng với nhan đề Chú dẫn về Đại Nội bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp. Sách dày 24 trang, cỡ 15x23,5cm. Ở trang bìa 1 là bản đồ Hoàng Thành, Tử Cấm Thành và đánh số các di tích từ 1 đến 95. Tác gia...
thành phố hoàng gia) cỡ 21x33cm, dày 22 trang, gồm lời giới thiệu, 14 ảnh minh họa và 4 sơ đồ hướng dẫn du lịch.(25) - Vào năm 1935, Phòng Du lịch Trung Kỳ đóng tại Tòa Khâm sứ Huế ấn hành một loạt tập gấp, mỗi tập giới thiệu một hoặc hai tỉnh thuộc miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận và Cao nguyên Trung phần, như Kontum, Pleiku, Đồng Nai Thượng, Đà Lạt; trong số đó có một tập dành riêng để giới thiệu về du lịch tỉnh Thừa Thiên. Tập gấp cỡ 23x11cm, gồm 8 trang, trong đó có ba sơ đồ, nhưng phần lớn là lời giới thiệu, cung cấp những thông tin cần thiết cho du khách khi đến tỉnh này. Các tác giả của tập gấp đã đưa ra ba chương trình du lịch khác nhau (chương trình tham quan 1 ngày, chương trình tham quan 2 ngày và chương trình tham quan 3 ngày) để du khách tự ý lựa chọn tùy theo thời gian mình lưu trú tại Huế ngắn hay dài.(26) - Vào năm 1937, Phòng Du lịch Trung Kỳ ấn hành một tập gấp với nhan đề là Annam, Itinéraire de la Route Mandarine (Hành trình theo Quan lộ ở Trung Du khách phải cởi giày khi vào tham quan điện Đại Hùng, chùa Thiên Mụ (1955) 49Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (66). 2008 Kỳ), giới thiệu chung về cuộc hành trình du lịch suốt tuyến miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, Đà Lạt, Darlac, Pleiku, Kontum... Tập gấp cỡ 24x12cm, gồm 8 trang, chủ yếu là vẽ con đường bộ từ đầu đến cuối miền Trung, ghi dấu những điểm cần tham quan du lịch ở các tỉnh, khoảng cách của chúng tính từ cây số 0 ở Huế ra phía bắc và vào phía nam. Trong đó có định vị và giới thiệu ngắn gọn về các danh thắng ở Huế và Thừa Thiên như Kinh Thành, lăng tẩm, núi Ngự, sông Hương, đồi Vọng Cảnh, chùa Thiên Mụ, Văn Miếu, chùa Túy Vân (tức là Thúy Vân hoặc Thánh Duyên), các bãi biển Thuận An, Lăng Cô, khu nghỉ mát Bạch Mã, đèo Hải Vân...(27) - Cuối cùng, vào hai năm 1938 và 1939, Phòng Du lịch Trung Kỳ còn biên soạn và ấn hành 3 tập gấp giới thiệu về 3 khu lăng tẩm của 3 vua nhà Nguyễn mà bấy giờ được xem là có giá trị tiêu biểu nhất về du lịch. Đó là lăng Gia Long, lăng Tự Đức và lăng Khải Định. Mỗi tập nói riêng về một lăng. Những tập gấp này được in với cỡ 23x11cm. Mỗi tập có 6 trang, bao gồm một ảnh, một sơ đồ chỉ dẫn đường đi đến, cùng các công trình kiến trúc chính ở khu lăng và lời giới thiệu vắn tắt về nó. Phần lớn nội dung của cả 3 tập gấp này đều dựa vào quyển Guide de l’Annam của P. Eberhardt. Nhưng có điều đặc biệt là các thông tin trong 3 tập gấp ấy đều được biên soạn bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh.(28) Điều này chứng tỏ rằng vào những năm cuối thập niên 1930, du khách nói tiếng Anh đến Huế đã khá nhiều. Dù sao đi nữa, tổ chức và hoạt động du lịch của chính quyền Pháp ở Huế cũng đã bị giải thể khi xảy ra cuộc binh biến của quân đội Nhật tại Đông Dương vào ngày 9/3/1945. III. Du lịch ở Huế thời Việt Nam Cọng hòa (1955-1975) Trong giai đoạn Cựu hoàng Bảo Đại được người Pháp đưa về nước làm Quốc trưởng từ năm 1949 đến năm 1954, Phủ Thủ hiến Trung Việt đóng tại Huế có lập ra Sở Du lịch mà người đứng đầu là một Chủ sự. Chủ sự Sở Du lịch do Thủ hiến Trung Việt bổ dụng, phải là người thông thạo tiếng Pháp. Nhưng, với hiệp ước Genève được ký kết vào năm 1954 thì đất nước bị chia đôi và Pháp rút khỏi Việt Nam. Từ năm 1955 đến năm 1975, ở miền Nam thành lập chế độ Việt Nam Cọng hòa, đóng thủ đô tại Sài Gòn. Sau khi Ngô Đình Diệm truất phế Quốc trưởng Bảo Đại để lên làm Tổng thống, chính quyền Sài Gòn thành lập Nha Quốc gia Du lịch trực thuộc Phủ Tổng thống. Một công cán ủy viên của Tổng thống được cử làm Giám đốc Nha Quốc gia Du lịch với nhiệm vụ mang nặng tính chính trị và ngoại giao. Dưới Nha Quốc gia Du lịch là ba Phòng Du lịch đóng tại Huế, Đà Lạt và Sài Gòn. Phòng Du lịch Huế phụ trách vấn đề du lịch từ sông Bến Hải (Quảng Trị) vào đến Phú Yên. Phòng Du lịch Sài Gòn phụ trách từ Khánh Hòa vào hết Nam Bộ. Phòng Du lịch Đà Lạt phụ trách vùng Cao nguyên Trung phần. Tuy gọi là “phòng”, nhưng mỗi Phòng Du lịch là một cơ quan cấp phần, chứ không phải là cơ quan cấp tỉnh hay cấp thành phố. Về mặt quản lý hành chính, Phòng Du lịch Huế trực thuộc Tòa Đại biểu Chính phủ tại Miền Bắc Trung nguyên Trung phần. Từ thời Ngô Đình Diệm trở đi, Tòa Đại biểu Chính phủ tại Miền Bắc Trung nguyên Trung phần đóng tại Phủ Thủ hiến Trung Việt của thời Quốc trưởng Bảo Đại đã bị bãi bỏ (Ở địa chỉ số 5 đường Lê Lợi ngày nay). 50 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (66). 2008 Riêng Phòng Du lịch Huế thì đóng tại một tòa nhà ở 26 đường Lý Thường Kiệt (Số 26 nay đã được thay bằng số 30; sau năm 1975, công trình kiến trúc này đã được cải tạo, chỉ giữ lại phần nền móng, và xây dựng thêm nhà để dùng làm trụ sở của Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Sinh sản thuộc Sở Y tế Thừa Thiên Huế như chúng ta đang thấy hiện nay).(29) Chủ sự của Phòng Du lịch bấy giờ phải thông thạo tiếng Anh và tiếng Pháp. Mặc dù trong Phòng Du lịch có đầy đủ các hướng dẫn viên nói giỏi tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, nhưng chính người Chủ sự phải đích thân đứng ra giao tiếp và đưa các nhân vật ngoại giao quan trọng đi tham quan các di tích và thắng cảnh ở vùng Huế. Phòng có khoảng 15 nhân viên, bao gồm các hướng dẫn viên, một họa sĩ và một tài công. Tài công là người rành về cơ khí, có thể lái xe ôtô và thuyền máy. Bấy giờ, Phòng Du lịch Huế có sắm một chiếc canô dùng để đưa các khách quan trọng đi dạo trên sông Hương. Còn họa sĩ thì có nhiệm vụ vẽ các bảng quảng cáo du lịch cắm ở những nơi có đông người qua lại. Đặc biệt là ở đầu cầu Trường Tiền, phía Khách sạn Morin, có dựng một bảng bằng kim loại rất lớn, trên đó vẽ sơ đồ các di tích và danh thắng của Cố đô Huế. Từ tổng thể Cố đô đến từng cổ tích đều được thể hiện bằng chất liệu sơn với những màu sắc khác nhau rất hấp dẫn. Người họa sĩ còn có nhiệm vụ trình bày các tập sách mỏng và các tập gấp do Phòng biên soạn để quảng bá du lịch Huế. Cũng liên quan đến việc quảng bá, vào khoảng năm 1960, Nha Quốc gia Du lịch có ấn hành một tập gấp 6 trang giới thiệu chung về các di tích Huế (một bản tiếng Anh và một bản tiếng Pháp), nhưng không có ảnh. Đồng thời, Phòng Du lịch Huế ấn hành một tập sách mỏng với nhan đề Chú dẫn về Đại Nội bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp. Sách dày 24 trang, cỡ 15x23,5cm. Ở trang bìa 1 là bản đồ Hoàng Thành, Tử Cấm Thành và đánh số các di tích từ 1 đến 95. Tác giả sách viết lời mở đầu như sau: “Để cho du khách có một khái niệm tổng quát về Đại Nội: Đại Nội trong cảnh huy hoàng thuở trước, cũng như Đại Nội trong cảnh tàn tạ ngày nay, Phòng Du lịch Huế xin trình bày ra sau đây những lời chú dẫn giản lược, kèm theo một bản đồ đầy đủ có ghi số hiệu để tiện đối chiếu. “Riêng về Kỳ đài (cột cờ), Cửu vị Thần công và Cửu đỉnh ở Thế Miếu, thời chúng tôi có phụ chú ra phần sau tập chú dẫn này.”(30) Trong sách có in một số ảnh đen trắng để minh họa: Ngọ Môn, Kỳ Đài, Cửu vị Thần công, Cửu đỉnh, Hiển Lâm Các, Nghi môn ở cầu Trung Đạo. Ngoài ra, từ năm 1962 đến năm 1965, Phòng Du lịch Huế còn biên soạn và xuất bản 3 tập sách mỏng khác với cỡ nhỏ hơn, mỗi tập 16 trang, để giới thiệu chung về các di tích nổi tiếng nhất ở Huế, từ thành quách, cung điện đến lăng tẩm. Tập tiếng Việt cỡ 10,8x23,8cm, bìa in đen trắng. Hai tập tiếng Anh và tiếng Pháp cỡ 10x23cm, sơ đồ tổng thể di tích Huế, các tranh minh họa ở bìa và ở trong ruột đều được vẽ và in màu. Ở tập tiếng Việt chỉ in 10 ảnh đen trắng (kể cả ảnh Khách sạn Hương Giang) và 5 bức tranh màu. Các tranh màu đều là của Phi Long, một họa sĩ nổi tiếng ở Cố đô và đang làm việc tại Phòng Du lịch Huế lúc bấy giờ.(31) Song song với việc quảng bá như vừa nói, chức năng chính của Phòng Du lịch Huế lúc đó là hướng dẫn và thuyết minh cho du khách đi tham quan các 51Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (66). 2008 di tích và danh lam thắng cảnh ở miền núi Ngự sông Hương. Theo quy định, du khách muốn đi tham quan các di tích thì trước hết phải đến Phòng Du lịch, trình thẻ căn cước (nay gọi là giấy chứng minh nhân dân) để xin Phòng cấp giấy phép. Đến mỗi di tích, du khách trình giấy phép thì nhân viên bảo vệ di tích mới cho vào tham quan. Nếu đoàn du khách nào có yêu cầu nhờ người hướng dẫn và thuyết minh thì Phòng Du lịch sẵn sàng cử hướng dẫn viên của Phòng đi làm nhiệm vụ. Không có chuyện bán vé tham quan ở các di tích. Từ việc cấp giấy phép cho đến hướng dẫn tham quan của Phòng Du lịch đều hoàn toàn miễn phí. Nhưng, bấy giờ lại có quy định du khách không được vào tham quan nội thất những miếu điện tôn nghiêm thờ phụng các vua chúa và thần Phật như Thái Miếu, Triệu Miếu, Thế Miếu, Hưng Miếu, gian thờ Mẫu ở điện Hòn Chén, điện thờ Phật ở các chùa... Du khách chỉ có thể tham quan ở bên ngoài mà thôi. Đối với những đoàn khách đặc biệt muốn vào bên trong các miếu điện ấy để cúng bái hoặc để nghiên cứu, họ phải có giấy cho phép của Phòng Du lịch hoặc của Hội đồng Trị sự Nguyễn Phước tộc (tức là Phủ Tôn Nhơn cũ) đóng tại 41 đường Đinh Công Tráng, Thành Nội, Huế. Ngoại trừ những đoàn du khách bình thường, chính ông Chủ sự Phòng Du lịch phải đích thân đi hướng dẫn và thuyết minh cho những đoàn khách quan trọng của Toà Đại biểu Chính phủ tại Miền Bắc Trung nguyên Trung phần, của Tòa Hành chánh tỉnh Thừa Thiên, của Bộ Tư lệnh Vùng I Chiến thuật và của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh. Sau một thời gian, chính quyền Sài Gòn nhận thức rằng du lịch cũng là ngành kỹ nghệ có thể hái ra tiền, cho nên, đưa Nha Quốc gia Du lịch qua trực thuộc Bộ Tài chánh. Nghĩa là hoạt động của ngành này có tính khai thác kinh tế nhiều hơn tính chính trị. Đến năm 1973, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập để thay thế cho Nha Quốc gia Du lịch. Tổng cục Du lịch Việt Nam có ngân sách tự trị. Các Phòng Du lịch tại địa phương, trong đó có Phòng Du lịch Huế, đều được đổi tên thành Ban Đặc nhiệm Du lịch, mỗi Ban do một Trưởng ban phụ trách. Ông Nguyễn Văn Diệp là người đã giữ chức vụ Chủ sự Phòng Du lịch Huế từ năm 1962 đến năm 1973, và tiếp tục giữ chức vụ Trưởng ban Đặc nhiệm Du lịch Huế từ năm 1973 đến năm 1975. Sau năm 1975, ông Diệp vẫn được lưu dung tại Công ty Quản lý Di tích Lịch sử và Văn hóa Huế (nay là Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế) với chức năng hướng dẫn viên du lịch tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp cho các đoàn khách cao cấp của chính quyền tỉnh sở tại. Sinh năm 1923, năm nay (2008) ông Diệp đã 86 tuổi, nhưng ông vẫn còn mạnh khoẻ và minh mẫn. Nghỉ hưu vào năm 1983, ông hiện đang thường trú cùng gia đình Du khách Tây tham quan điện Thái Hòa năm 1963. Người hướng dẫn là ông Nguyễn Văn Diệp (người mang cà vạt) 52 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (66). 2008 trong một ngôi nhà cổ tại địa chỉ số 11 đường Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Nhân đây, tôi xin bày tỏ lời cám ơn chân thành đối với ông về việc ông đã cung cấp rất nhiều thông tin quý báu cho tôi khi viết về du lịch Huế thời kỳ 1955-1975. Cũng theo ông Nguyễn Văn Diệp, các hoạt động du lịch ở vùng Huế trong thời kỳ đó đã bị ảnh hưởng và hạn chế không ít vì thời cuộc và nhất là vì chiến tranh. Chỉ trong giai đoạn từ sau hiệp ước đình chiến Genève 1954 đến năm 1959 là ngành du lịch ở đây hoạt động mạnh và phát triển lên đến núi Bạch Mã. Còn từ năm 1960 trở đi thì du khách đến Huế và đi tham quan nhiều hay ít đều tùy thuộc vào tình hình an ninh và chiến sự tại vùng đất này trong từng giai đoạn. Bị ảnh hưởng nặng nề nhất là từ cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968), rồi sau đó chẳng bao lâu là cuộc chiến mùa hè năm 1972 ở vùng hỏa tuyến Trị Thiên đã làm cho các hoạt động du lịch ở Thừa Thiên Huế hầu như tê liệt cho đến năm 1975. P T A TÀI LIỆU THAM KHẢO (1) Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên..., Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Ngô Đức Thọ và Hoàng Văn Lâu, Nxb KHXH, Hà Nội, 1985, tập II, tr. 84-85. (2) Xem thêm: Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung, Thần kinh thập nhị cảnh, thơ vua Thiệu Trị, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997. (3) Nguyễn Bá Trác, Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, bản dịch của Bửu Cầm và các cộng tác viên, Bộ Quốc gia Giáo dục xb, Sài Gòn, 1963, tr. 361. (4) Richard Orband, Voyage de S.M. Khải Định dans le Nord - Annam et au Tonkin», BAVH, 1918, tr. 139-182. (5) Nguyễn Bá Trác, sđd, tr. 366. (6) A. Salles, “Visite de l’Empereur d’Annam à la Société de Géographie”, BAVH, 1922, tr.321-336. (7) Ngự giá như Tây ký (nguyên bản chữ Hán và bản dịch Việt ngữ), Nhà in Đắc Lập, Huế, 1922. (8) Phan Thuận An, Vua Khải Định, người phát hiện khu du lịch nghỉ mát Lăng Cô, Tạp chí Sông Hương, số 157, tháng 3-2002, tr. 90-92. Xem thêm «Khải Định ngự chế Tĩnh Viêm hành cung bi minh», Lê Nguyễn Lưu-Nguyễn Thanh Thọ dịch, Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ (nay là Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển), số 2/1996. (9) L. Sogny, “Les vasques en bronze du Palais”, BAVH, 1921, tr. 1-13. (10) Về những thông tin liên quan đến Cửu đỉnh, cần tham khảo thêm: - Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử Học, Nxb KHXH, Hà Nội, tập VIII, tr. 171-172; tập XIX, tr. 29 - 31. - Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch của Viện Sử học, Nxb KHXH, Hà Nội, 1969, tập I, tr. 25. (11) Dương Kinh Quốc, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1988, tr. 110, 166. (12) Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (1858 - 1918), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 331, 434. (13), (14), (15) Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr. 37, 57, 143. (16) Cristophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, bản dịch của Hồng Nhuệ - Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị, Nxb TP HCM, 1998. (17) Alexandre de Rhodes, Divers Voyages et Missions (Hành trình và Truyền giáo), bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, Nxb TP HCM, 1994. (18) Dutreuil de Rhins, Le Royaume d’Annam et les Annamites. Journal de Voyage de Dutreuil de Rhins, Hachette, Paris, 1879. 53Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (66). 2008 (19) Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin (Một chiến dịch ở Bắc Kỳ), Nxb Arléa tái bản, Paris, 1999. (20) Marcel Monnier, Le Tour d’Asie: Cochinchine, Annam, Tonkin (Vòng quanh châu Á: Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ), Nxb Plon, Paris, 1899. (21) Nguyễn Đắc Xuân, 100 năm Khách sạn Sài Gòn Morin Huế (1901-2000), Hôtel Sài Gòn Morin xb, Huế, 2000, tr. 3. (22) Nguyễn Đắc Xuân, “Ga Huế 100 năm gắn bó với lịch sử văn hóa Huế”, Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 76, 2006, tr. 64 - 69. (23),(24) P. Eberhardt, Guide de l’Annam (Hướng dẫn du lịch Trung Kỳ), Nxb Augustin Challamel, Paris, 1914, tr. 7, 135. (25) Gouvernement Général de l’Indochine, Office Indochinois du Tourisme, Hué, ville impériale, IDEO, Hanoi, 1931. (26) Bureau Officiel du Tourisme en Annam de la Résidence Supérieure de Hué, Province de Thua Thien, IDEO, Hanoi, 1935. (27) Bureau Officiel du Tourisme en Annam de la Résidence Supérieure de Hué, Annam, Itinéraire de la Route Mandarine, 1937. (28) Bureau Officiel du Tourisme de Hué, Notice sur le Tombeau de Gia Long (Bản tiểu dẫn về lăng Gia Long), 1938; Notice sur le Tombeau de Tu Duc (Bản tiểu dẫn về lăng Tự Đức), 1939; Notice sur le Tombeau de Khai Dinh (Bản tiểu dẫn về lăng Khải Định), 1939. (29) Đây nguyên là một “villa” rất xinh xắn được xây dựng dưới thời Pháp thuộc. Đến thời Quốc trưởng Bảo Đại, ngôi biệt thự ấy được dùng làm tư dinh của Đại tá Trần Văn Xương, Tư lệnh Đệ nhị Quân khu. Còn Tổng hành dinh của Đệ nhị Quân khu thì đóng tại Phủ Nội Vụ cũ, nằm bên trong cửa Hiển Nhơn của Hoàng Thành. (30) Phòng Du lịch Huế, Chú dẫn về Đại Nội, tái bản lần thứ hai, in tại Sài Gòn ấn quán, không đề năm ấn hành, tr. 1. (31) Phòng Du lịch Huế, Huế, cố đô Việt Nam, in tại Huế; hai bản tiếng Anh và tiếng Pháp đều có chung một tiêu đề: Huế, Vietnam, in tại Sài Gòn. Cả 3 tập đều không ghi năm xuất bản. Nhưng, theo ông Nguyễn Văn Diệp, thì cả 3 tập sách đều do ông biên soạn và được ấn hành vào năm 1963. TÓM TẮT Ở Đông Dương nói chung, Thừa Thiên Huế nói riêng, hoạt động chính thức của ngành du lịch xuất hiện khá muộn. Nó chỉ bắt đầu từ khi người Pháp thiết lập xong nền đô hộ tại đây vào đầu thế kỷ XX. Từ đó trở đi, chính quyền thuộc địa ngày càng thấy rõ đây là vùng đất có nhiều tiềm năng về du lịch: lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, danh lam, thắng cảnh... Để khai thác những tiềm năng đó, người Pháp đã tổ chức và hoàn thiện dần bộ máy phục vụ du lịch từ trung ương đến các tỉnh thành. Bấy giờ, kinh đô Huế và vùng phụ cận là một địa bàn du lịch hấp dẫn nhất đối với du khách mà tuyệt đại đa số là người Tây phương. Từ năm 1955 đến năm 1975, dưới chế độ Việt Nam Cọng hòa, ngành du lịch ở vùng Huế cũng đã được tổ chức một cách có bài bản, nhưng hoạt động bị giới hạn và ngắt quãng vì chiến tranh. ABSTRACT TOURIST ACTIVITIES IN HUE BEFORE 1975 In Indochina in general, and in Thưà Thiên Huế in particular, the official tourism service began quite late.It was started only since the French completed its colonialist reign in the region in the early 20th century. From then on the colonialist government realized more and more that this region owned great potential for tourism as to history, culture, arts, scenery... To put to use this potential the French or- ganized and step by step enhanced the tourist service mechanism at central and provincial levels. At the time the Royal Citadel of Huế and its vicinity proved to be an attractive area for tourists, mostly Westerners as it were. From 1955 to 1975, under the administration of the Republic of Vietnam, the tourist service in Hue was managed methodically. However it was subject to interruptions due to the war.
File đính kèm:
- hoat_dong_du_lich_vung_hue_truoc_nam_1975.pdf