Impact of the works on the change in coastline of Tra Vinh province
Tóm tắt Impact of the works on the change in coastline of Tra Vinh province: ... Phương pháp bản đồ: Xây dựng cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin địa lý gồm cơ sở dữ liệu nền và ảnh vệ tinh. Dữ liệu nền được xây dựng dựa trên bản đồ địa hình 2001. Các lớp đường bờ 2009, 2014 được trích vẽ trực tiếp từ nền ảnh vệ tinh bằng phần mềm Mapinfo. Việc kiểm tra và hiệu chỉnh đ...giai đoạn trước. Diễn biến thay đổi đƣờng bờ tại các khu vực trọng điểm Từ kết quả nghiên cứu diễn biến thay đổi đường bờ biển từ 1966–2014 đã xác định ba khu vực trọng điểm nơi có các công trình ven biển được xây dựng từ 2009 đến nay gồm xã Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa và Dân Thành. ...o sử dụng năm 2014, kết quả khảo sát cho thấy từ 2014– 2015 đoạn bờ có đê biển không còn xói lở, nhưng đoạn liền kề về phía nam đê biển xói lở nhiều hơn với tốc độ trung bình 30–38 m/năm (hình 6a, 6b). Hình 6a. Diễn biến đường bờ khu vực 3b thuộc xã Trường Long Hòa Hình 6b. Ảnh viễn t...
ăm 2009–2014 đường bờ biển xói lở với tốc độ trung bình 12–24 m/năm, năm 2014–2015 đường bờ biển xói lở mạnh hơn với tốc độ trung bình 36–45 m/năm. Từ khóa: Trà Vinh, đường bờ, xói lở, bồi tụ, công trình ven biển. GIỚI THIỆU Bờ biển tỉnh Trà Vinh dài khoảng 65 km theo hướng đông bắc-tây nam, giữa hai cửa Cung Hầu thuộc sông Cổ Chiên và cửa Định An thuộc sông Hậu, được cấu tạo bởi các trầm tích giồng cát, đầm lầy rừng ngập mặn, bãi triều [1]. Đây là trầm tích bở rời với thành phần chủ yếu là: Cát, cát-bột-sét kém bền vững nên thường biến động khi gặp tác động mạnh của sóng, gió mùa, thủy triều và dòng chảy ven bờ. Ngoài tác động của yếu tố tự nhiên, trong những năm gần đây, việc gia tăng thi công xây dựng các công trình ở ven biển đã góp phần thay đổi đường bờ biển Trà Vinh. Các công trình xây dựng như: Công trình đê biển, kè đá, nhà máy nhiệt điện, dự án đào kênh Quan Chánh Bố, trồng rừng ngập mặn (RNM),... đã ảnh hưởng đến quá trình xói lở và bồi tụ của bờ biển Trà Vinh. Tác động của công trình đến thay đổi đường bờ biển 33 Trên cơ sở phân tích tài liệu đường bờ, các tư liệu ảnh vệ tinh qua các thời kỳ và số liệu đo đạc địa hình bãi biển, bài báo này tổng hợp các kết quả nghiên cứu về quá trình bồi tụ và xói lở bờ biển tỉnh Trà Vinh khoảng thời gian 1966– 2014, tập trung vào một số vị trí bờ biển có các công trình nhằm đánh giá tác động của công trình đến quá trình thay đổi đường bờ biển. CƠ SỞ TÀI LIỆU SỬ DỤNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Cơ sở tài liệu sử dụng Bản đồ địa hình (VN2000) tỷ lệ 1:50.000 của Tổng cục Địa chính được hiệu chỉnh tại Trung tâm Viễn thám năm 2001. Ảnh vệ tinh Landsat, loại và đặc tính của ảnh viễn thám dạng số được thu thập cho mục đích xử lý ảnh số (bảng 1). Bảng 1. Nguồn tư liệu ảnh vệ tinh khu vực ven biển tỉnh Trà Vinh Bộ cảm Số hiệu ảnh Ngày thu Độ phân giải (m) Landsat-5 TM 125/053 09/12/2009 30 Landsat-8 125/053 22/02/2014 30 Ảnh viễn thám Google Earth năm 2015 ở khu vực đê biển Hiệp Thạnh, đê biển ấp Cồn Trứng và khu Trung tâm điện lực Duyên Hải. Tài liệu đường bờ năm 1966, 1989 từ kết quả nghiên cứu thay đổi đường bờ biển của Li, X. et al., (2017) [2]. Tài liệu thủy hải văn (độ dốc đáy, độ cao sóng, dòng chảy ven bờ,...) ở khu vực tỉnh Trà Vinh của Anthony, E. J et al., (2017), Nguyễn Hữu Nhân (2013) [3, 4]. Kết quả đo địa hình bãi triều vào hai thời điểm 9/2014 và 5/2015 tại ấp Bào xã Hiệp Thạnh và ấp Cồn Trứng xã Trường Long Hòa. Phƣơng pháp Phương pháp bản đồ: Xây dựng cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin địa lý gồm cơ sở dữ liệu nền và ảnh vệ tinh. Dữ liệu nền được xây dựng dựa trên bản đồ địa hình 2001. Các lớp đường bờ 2009, 2014 được trích vẽ trực tiếp từ nền ảnh vệ tinh bằng phần mềm Mapinfo. Việc kiểm tra và hiệu chỉnh được tiến hành qua các chuyến khảo sát thực địa. Ảnh viễn thám Google Earth năm 2015 được sử dụng để đánh giá bổ sung thay đổi đường bờ các khu vực có công trình xây dựng trong giai đoạn 2014–2015. Phương pháp đo đạc địa hình bãi triều tại thực địa: Khảo sát và so sánh địa hình bãi biển thay đổi theo mùa trong năm. Đo chi tiết địa hình bãi triều vào mùa mưa 9/2014 và mùa khô 5/2015. Sử dụng máy kinh vĩ, bước đo 5 m dài, mốc chuẩn cố định mỗi tuyến, tọa độ xác định từ GPS, các vị trí mốc chuẩn được cố định trong suốt quá trình đo. Thành lập 2 mặt cắt địa hình theo mùa trên tuyến đo ở ấp Bào xã Hiệp Thạnh và ấp Cồn Trứng xã Trường Long Hòa. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Diễn biến thay đổi đƣờng bờ biển Trà Vinh từ 1966–2014 Trên cơ sở bản đồ địa hình, kế thừa tài liệu đường bờ năm 1966, 1989 và kết hợp với kết quả giải đoán ảnh viễn thám các năm 2009 và 2014 đã xây dựng được sơ đồ thay đổi đường bờ biển Trà Vinh qua các thời kỳ (hình 1). Dựa vào sơ đồ diễn biến thay đổi đường bờ biển tỉnh Trà Vinh qua các năm 1966, 1989, 2009 và năm 2014 cho thấy: Giai đoạn 1966–1989 Trong giai đoạn này quá trình bồi tụ chiếm ưu thế với tốc độ trung bình 6–9 m/năm. Đoạn bờ biển bồi tụ nhiều nhất nằm gần cửa sông Định An, khu vực bờ biển xã Long Vĩnh và xã Đông Hải, với tốc độ lớn nhất 78 m/năm, trung bình 40–50 m/năm. Xen giữa những đoạn bồi tụ là những đoạn xói lở ở ấp Bào đến sông Láng Nước xã Trường Long Hòa, Mù U xã Dân Thành đến Hồ Thùng xã Đông Hải, với tốc độ trung bình 5–10 m/năm, riêng đoạn sông Cồn Lợi và rạch Cái Đôi xã Đông Hải có nơi đến 24 m/năm. Giai đoạn 1989–2009 Trong giai đoạn này có một số công trình được triển khai trên bờ biển Trà Vinh, chủ yếu là 2 dự án trồng RNM nhằm bảo vệ bờ biển, đó là dự án trồng hơn 800 ha rừng phòng hộ dọc theo bờ biển Mỹ Long Nam huyện Cầu Ngang vào năm 1992 [5] và dự án Bảo vệ và phát triển những vùng đất ngập nước ven biển nam Việt Nam vào năm 2001–2006 được thực hiện ở các xã Mỹ Long Nam huyện Cầu Ngang, xã Đông Hải và Long Vĩnh, huyện Duyên Hải (bảng 2). Nguyễn Thị Mộng Lan, Nguyễn Hoàng Nguyên 34 Hình 1. Diễn biến thay đổi đường bờ biển Trà Vinh giai đoạn từ 1966–2014 Bảng 2. Những công trình ven biển Trà Vinh Năm Công trình, dự án Vị trí 1992 800 ha RNM Xã Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang 2001–2006 Dự án “Bảo vệ và phát triển những vùng đất ngập nước ven biển nam Việt Nam” Xã Mỹ Long Nam huyện Cầu Ngang, xã Đông Hải và Long Vĩnh, huyện Duyên Hải 2009–2013 Đê biển bằng bê tông dài 1.315 m Ấp Bào, xã Hiệp Thạnh, thị xã Duyên Hải 2012–2014 Kè biển bằng bê tông dài 750 m Ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải 2009 Dự án xây dựng Trung tâm nhiệt điện Duyên Hải và luồng tàu kênh Quan Chánh Bố Xã Dân Thành, thị xã Duyên Hải Kết quả nghiên cứu thay đổi đường bờ cho thấy đoạn bờ biển xã Mỹ Long Nam từ năm 1989–2009 bồi tụ trung bình 18–20 m/năm (hình 2), khu vực này trước đây khi chưa có RNM do ảnh hưởng triều cường trong năm, nơi này xói lở tốc độ trung bình 10–20 m/năm [2, 6], sau khi dự án trồng rừng được thực hiện cây bần phát triển tốt phát huy dần tác dụng bồi tụ, bảo vệ bờ biển. Khu vực Đông Hải, Long Vĩnh tiếp tục bồi tụ với tốc độ trung bình 27– 30 m/năm. Những đoạn bờ bồi tụ còn lại như đoạn từ sông Bến Chùa đến ấp Bào xã Hiệp Thạnh, Nhà Mát xã trường Long Hòa và Hồ Thùng bồi tụ trung bình 5–12 m/năm. Tác động của công trình đến thay đổi đường bờ biển 35 Quá trình xói lở diễn ra ở đoạn bờ biển từ ấp Bào đến rạch Cạn xã Hiệp Thạnh, từ Cồn Trứng đến gần Vàm Khấu Lầu xã trường Long Hòa, đoạn bờ xã Dân Thành và đoạn gần sông Cồn Lợi xã Đông Hải với tốc độ xói lở trung bình từ 6–10 m/năm. Hình 2. Khu vực bồi tụ tại xã Mỹ Long Nam Giai đoạn 2009–2014 Trong giai đoạn 2009–2014 nhiều công trình và dự án ven biển được thực hiện trên bờ biển tỉnh Trà Vinh như Dự án luồng tàu (kênh Quan Chánh Bố), Trung tâm nhiệt điện Duyên Hải xã Dân Thành, công trình đê biển ấp Bào xã Hiệp Thạnh và đê biển ấp Cồn Trứng xã Trường Long Hòa (bảng 2). Đoạn bờ biển xã Dân Thành có công trình của Trung tâm nhiệt điện và dự án luồng tàu tốc độ xói lở trung bình từ 12–24 m/năm. Các đoạn bờ biển có công trình đê biển như ở ấp Bào, xã Hiệp Thạnh và ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa tốc độ xói lở trung bình từ 6–20 m/năm. Quá trình bồi tụ diễn ra ở đoạn bờ biển Trà Vinh với tốc độ bồi trung bình 10–18 m/năm. Riêng đối với khu vực có RNM ở xã Mỹ Long Nam Đông Hải và Long Vĩnh giai đoạn này bờ biển tương đối ổn định và bồi tụ với tốc độ trung bình từ 9–17 m/năm, thấp hơn so với các giai đoạn trước. Diễn biến thay đổi đƣờng bờ tại các khu vực trọng điểm Từ kết quả nghiên cứu diễn biến thay đổi đường bờ biển từ 1966–2014 đã xác định ba khu vực trọng điểm nơi có các công trình ven biển được xây dựng từ 2009 đến nay gồm xã Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa và Dân Thành. Xã Hiệp Thạnh Đoạn bờ biển khu vực xã Hiệp Thạnh (hình 1) nằm phía ngoài cửa sông Cung Hầu và Cổ Chiên khoảng 8,5 km từ sông Bến Chùa đến cửa Sông Láng Nước biến động như sau: Đoạn từ sông Bến Chùa đến ấp Bào dài 2,5 km với xu thế chung là bồi tụ. Từ năm 1966–2009 đường bờ bồi tụ với tốc độ trung bình 6–8 m/năm. Tuy nhiên, giai đoạn 2009– 2014 đoạn bờ này có xu thế xói lở ở 2 đầu với tốc độ trung bình 11–17 m/năm, đoạn bờ biển ở giữa có tốc độ bồi tụ trung bình 13– 18 m/năm (hình 3a). Hình 3a. Diễn biến đường bờ xã Hiệp Thạnh Đoạn bờ từ ấp Bào đến rạch Cạn dài 3 km có hướng bắc-nam, đường bờ biển xói lở liên tục từ năm 1966–2014. Từ năm 1966–1989 xói lở trung bình từ 4–9 m/năm. Giai đoạn 1989–2009 đường bờ tiếp tục xói lở với tốc độ trung bình 8– 14 m/năm. Từ năm 2009–2014 bờ biển có xu hướng xói lở mạnh hơn tốc độ xói lở trung bình 8–20 m/năm. Đặc biệt sau khi đoạn đê biển Hiệp Thạnh (hình 3c) được đưa vào sử dụng năm 2013, tại khu vực đê bờ biển không còn xói lở Nguyễn Thị Mộng Lan, Nguyễn Hoàng Nguyên 36 nhưng ở hai đoạn liền kề phía Bắc và phía Nam của đê (hình 3a, 3b) bờ biển bị xâm thực mạnh, Khảo sát đường bờ năm 2014–2015 cho thấy phía bắc của đê đường bờ đã lùi sâu vào đất liền khoảng 14 m/năm, còn về phía Nam của đê đường bờ lùi sâu vào đất liền 27 m/năm. Hình 3b. Ảnh viễn thám đường bờ khu vực đê biển Hiệp Thạnh Hình 3c. Đê biển Hiệp Thạnh Kết quả đo địa hình bãi triều tuyến A ở ấp Bào xã Hiệp Thạnh (hình 4) cho thấy, từ mùa mưa 9/2014 đến mùa khô 5/2015, khoảng 400 m đoạn từ bờ hướng ra biển địa hình bãi triều hạ thấp so với mùa mưa, đường bờ biển bị xói lở khoảng 25 – 30 m, đoạn còn lại địa hình thay đổi không đáng kể. Đoạn bờ biển từ ấp Bào tới Rạch Cạn có xu hướng xói lở liên tục do địa hình có hướng nhô ra phía biển, phương bờ biển trùng hướng Bắc-Nam nên vào mùa gió Đông Bắc, nhất là khoảng thời gian có gió chướng với hướng sóng là hướng Đông tác động thẳng góc vào bờ. Hai yếu tố này kết hợp với nhau sinh ra năng lượng sóng rất lớn, vì vậy bờ biển dễ bị xói lở do tác động của sóng [1]. Nhờ có đê biển nên quá trình xói lở tại vị trí đê bị suy giảm, tuy nhiên ở hai đầu đê năng lực sóng mạnh hơn nên xói lở gia tăng. Hình 4. Mặt cắt địa hình tuyến A ấp Bào (xã Hiệp Thạnh) Đoạn từ rạch Cạn-sông Láng Nước dài khoảng 2 km, từ 1966–1989 ở 2 đầu bờ biển chủ yếu là xói lở với tốc độ trung bình 3,5– 5 m/năm, đoạn bờ biển xói lở mạnh nhất gần sông rạch Cạn với tốc độ 8,8 m/năm, xen kẽ giữa 2 đoạn xói lở có đoạn bờ ngắn được xem là tương đối ổn định. Giai đoạn 1989–2014 đoạn bờ gần rạch Cạn xói lở trung bình 2 m/năm, đoạn còn lại đường bờ biẻn tương đối ổn định. Xã Trường Long Hòa Khu vực bờ biển xã Trường Long Hòa có khoảng 13,5 km đường bờ biển, có hướng bắc- nam đến đông bắc-tây nam từ cửa sông Láng Nước đến giáp xã Dân Thành. Đây là đoạn bờ biển dài, thẳng, liên tục không bị chia cắt bởi các cửa sông và có độ ổn định cao. Tác động của công trình đến thay đổi đường bờ biển 37 Kết quả đường bờ biển từ 1966–1989 (hình 5, hình 6a) cho thấy đường bờ biển hầu như bồi tụ với tốc độ trung bình 7–13 m/năm, nơi bồi tụ nhiều nhất ở ấp Nhà Mát với tốc độ 15,4 m/năm. Tuy nhiên, giai đoạn 1989–2014 bờ biển khu vực này bị xói lở. Dựa vào diễn biến thay đổi đường bờ biển xã Trường Long Hòa có thể chia làm 2 đoạn như sau (hình 1, khu vực 3a và 3b): Đoạn bờ nam sông Láng Nước, khu vực Nhà Mát đến Khoán Tiều (hình 5) dài khoảng 6,5 km, giai đoạn 1989–2009 đoạn bờ biển từ sông Láng Nước đến Khoán Tiều có tốc độ bồi tụ trung bình 7–12 m/năm, xen kẽ là đoạn bờ dài khoảng 1 km với tốc độ xói lở trung bình 3 m/năm. Trong giai đoạn 2009–2014 đường bờ biển xói lở với tốc độ trung bình 10– 12 m/năm, xen giữa hai đoạn bờ xói lở là đoạn bờ bồi tụ có tốc độ trung bình 10–20 m/năm, khoảng 1,5 km từ Nhà Mát đến Khoán Tiều đường bờ tương đối ổn định. Hình 5. Diễn biến đường bờ biển khu vực 3a thuộc xã Trường Long Hòa Đoạn phía Nam của xã, từ Khoán Tiều, Cồn Trứng đến giáp xã Dân Thành bờ biển có xu thế lở tốc độ xói lở trung bình 3,5–5 m/năm, đây là đoạn bờ biển xói lở liên tục từ 1989– 2014 năm, năm 2005–2006 khu du lịch biển Ba Động được bảo vệ bằng hệ thống “kè đá”, nhưng từ năm 2009 đến năm 2011, bờ kè ở đây đã bị sóng biển đánh sập hư hỏng nhiều đoạn (hình 6c), còn đoạn không có bờ kè về phía nam của khu du lịch đến giáp xã Dân Thành mức độ xói lở gia tăng. Trong thời gian 2009– 2014 đoạn bờ biển phía nam của xã xói lở trung bình 6–10 m/năm. Sau khi công trình đê biển ấp Cồn Trứng hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 2014, kết quả khảo sát cho thấy từ 2014– 2015 đoạn bờ có đê biển không còn xói lở, nhưng đoạn liền kề về phía nam đê biển xói lở nhiều hơn với tốc độ trung bình 30–38 m/năm (hình 6a, 6b). Hình 6a. Diễn biến đường bờ khu vực 3b thuộc xã Trường Long Hòa Hình 6b. Ảnh viễn thám đường bờ khu vực đê biển ấp Cồn Trứng Nguyễn Thị Mộng Lan, Nguyễn Hoàng Nguyên 38 Hình 6c. Bờ biển bị xói lở Kết quả đo đạc địa hình bãi triều tuyến B ở ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa (hình 7) cho thấy, từ mùa mưa 9/2014 đến mùa khô 5/2015, khoảng cách 350 m từ bờ hướng ra biển xói lở khoảng 40 m, 150 m tiếp theo địa hình tương đối ổn định. Kế tiếp là vùng trũng sâu. Đoạn còn lại địa hình được bồi tụ nâng cao hơn so với 9/2014 từ 0,1–0,3 m, nơi bồi nhiều nhất 12 m, ít nhất 5 m. Điều này cho thấy khu vực gần bờ, địa hình bị hạ thấp chứng tỏ có sự xói lở trong khu vực, phù hợp với sự thay đổi đường bờ theo ảnh viễn thám. Hình 7. Mặt cắt địa hình tuyến B (xã Trường Long Hòa) Do bãi biển khu vực này tương đối dốc, có độ sâu nước lớn và không được che chắn bằng bãi cát ngầm ở phía ngoài như khu vực phía Bắc nên những con sóng có năng lượng lớn dễ dàng tiến sâu và phá hủy đường bờ [3]. Chiều cao sóng tại đây cao hơn các vị trí khác, đặc biệt là khi có gió mùa Đông Bắc. Độ cao sóng trung bình là 1 m tại vị trí cách bờ khoảng 1 km, độ sâu khoảng 3–5 m [4]. Vì vậy, vào kỳ gió chướng kết hợp với chiều cao và năng lượng sóng lớn làm gia tăng tốc độ xói lở bờ biển. Xã Dân Thành Đường bờ biển xã Dân Thành có chiều dài khoảng 5 km. Đường bờ hướng đông bắc-tây nam kéo dài từ ấp Láng Cháo đến ấp Mù U (hình 8a). Trong giai đoạn 1966–1989 sự bồi tụ và xói lở xen kẽ. Đoạn xói lở mạnh nhất thuộc ấp Láng Cháo có tốc độ lớn nhất 9,2 m/năm, trung bình 6–7,3 m/năm. Đoạn ấp Mù U, giáp xã Đông Hải xói lở nhẹ, trung bình 2 m/năm. Xen giữa 2 đoạn xói lở này là đoạn bồi tụ dài khoảng 885 m, có tốc độ trung bình 2 m/năm, lớn nhất 4 m/năm. Hình 8a. Diễn biến đường bờ khu vực xã Dân Thành Hình 8b. Ảnh viễn thám đường bờ khu vực Trung tâm điện lực Duyên Hải Tác động của công trình đến thay đổi đường bờ biển 39 Từ năm 1989–2014 đường bờ xói lở liên tục, với tốc độ trung bình 5–8 m/năm. Đặc biệt cuối năm 2009 ở khu vực xã Dân Thành có hai công trình được xây dựng là Trung tâm nhiệt điện Duyên Hải và luồng tàu “kênh Quan Chánh Bố” nối liền sông Hậu và biển Đông. Năm 1989–2009 đoạn bờ này có xu thế lở nhưng tốc độ xói lở không cao, trung bình 5–11 m/năm. Nhưng từ năm 2009–2014 nơi đây bờ biển bị xâm thực mạnh với tốc độ trung bình 12–24 m/năm. Tài liệu ảnh vệ tinh cho thấy khu vực phía nam Trung tâm nhiệt điện Duyên Hải từ năm 2014–2015 đường bờ lùi vào đất liền trung bình 36–45 m/năm (hình 8b). Do khai thác cát ven biển xây dựng nền của nhà máy nhiệt điện, đã làm hạ thấp địa hình đáy biển ven bờ biển tạo điều kiện cho các yếu tố động lực biển tác động vào bờ tạo thành vùng nước xoáy sát bờ và bờ biển thường xuyên bị xói lở [3] (hình 8c). Hình 8c. Bãi biển bị xâm thực phía bắc công trình Trung tâm nhiệt điện Duyên Hải Đoạn bờ phía nam kênh Quan Chánh Bố đến giáp xã Đông Hải, từ năm 1989–2009 khi chưa có công trình đường bờ xói lở với vận tốc trung bình từ 3–5 m/năm. Từ năm 2009–2014 bờ biển xói lở mạnh hơn, tốc độ xói lở trung bình 11,5–16 m/năm, bờ biển xâm thực lùi sâu vào bên trong đất liền. Bờ biển khu vực này có phương gần trùng với hướng đông bắc nên khi có gió chướng với hướng sóng là hướng đông đã tác động mạnh vào bờ. Trong mùa gió Đông Bắc chiều cao sóng biến đổi từ 0,6–0,9 m kết hợp với dòng ven bờ mạnh đã gây nên xói lở bờ biển [3]. KẾT LUẬN Trên cơ sở kết quả phân tích ảnh vệ tinh kết hợp với khảo sát thực địa và đo địa hình bãi triều diễn biến thay đổi đường bờ biển Trà Vinh qua các giai đoạn 1966–1989, 2009 và 2014 đã được xác định. Sự thay đổi đường bờ biển từ 1966– 2014 khu vực ven biền Trà Vinh có đặc điểm xói bồi xen kẽ, với tốc độ bồi lấn trung bình khoảng 5–10 m/năm, nơi bồi tụ mạnh nhất là khu vực Đông Hải với tốc độ 40 m/năm, trung bình 28–30 m/năm. Các đoạn bờ biển bị xói lở với tốc độ trung bình khoảng 5–8 m/năm. Sự thay đổi của quá trình bồi xói bờ biển chịu tác động chủ yếu của các yếu tố tự nhiên, điều kiện thủy hải văn và các hoạt động của con người qua việc xây dựng và triển khai các công trình ven biển. Hiệu quả của các dự án trồng rừng ngập mặn đã duy trì và gia tăng bồi tụ đường bờ ở Mỹ Long Nam, Đông Hải và Long Vĩnh. Tại các khu vực trọng điểm như Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa và Dân Thành nơi có các công trình xây dựng trên bờ biển, kết quả nghiên cứu cho thấy các công trình đã có tác động thúc đẩy quá trình bồi xói đường bờ biển. Trong thời gian 2009–2014 đoạn bờ biển Hiệp Thạnh xói lở với tốc độ trung bình 8–20 m/năm, đoạn bờ Trường Long Hòa xói lở trung bình 6–10 m/năm. Sau khi công trình đê biển đưa vào sử dụng, giai đoạn 2014–2015 đoạn bờ có đê biển Hiệp Thạnh và ấp Cồn Trứng xã Trường Long Hòa không còn xói lở, nhưng đoạn liền kề đê biển xói lở nhiều hơn với tốc độ trung bình 14–38 m/năm. Ở đoạn bờ xã Dân Thành nơi xây dựng công trình Trung tâm điện lực Duyên Hải và kênh Quan Chánh Bố, từ năm 2009–2014 đường bờ biển xói lở với tốc độ trung bình 12–24 m/năm, năm 2014–2015 đường bờ biển xói lở mạnh hơn với tốc độ trung bình 36–45 m/năm. Để đánh giá đầy đủ hơn về hiệu ứng của công trình đến đường bờ biển, cần tiếp tục mở rộng nghiên cứu thêm. Lời cảm ơn: Bài báo này là một phần kết quả đề tài KHCN Độc lập trẻ mã số VAST.ĐLT.13/14–15. Xin chân thành cảm ơn sự tài trợ của chương trình hỗ trợ cán bộ khoa học trẻ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Viện Địa lý tài nguyên thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện đề tài. Xin cảm ơn TS. Phạm Nguyễn Thị Mộng Lan, Nguyễn Hoàng Nguyên 40 Quang Sơn đã hỗ trợ ảnh vệ tinh khu vực nghiên cứu. Các tác giả xin cảm ơn người nhận xét và ban biên tập đã đóng góp ý kiến nâng cao chất lượng bài báo. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ta Thi Kim Oanh, Nguyen Van Lap, Nguyen Thi Mong Lan, Ta Duy Thong, Vo Thi Hong Quyen, 2018. Natural and environmental characteristics of Tra Vinh coastal area, Mekong Delta Vietnam for the development of hard clam culture, Vietnam. Journal of Biodiversity and Environmental Sciences, 13(2), 58–67. [2] Li, X., Liu, J. P., Saito, Y., and Nguyen, V. L., 2017. Recent evolution of the Mekong Delta and the impacts of dams. Earth-Science Reviews, 175, 1–17. [3] Anthony, E. J., Dussouillez, P., Dolique, F., Besset, M., Brunier, G., Nguyen, V. L., and Goichot, M., 2017. Morphodynamics of an eroding beach and foredune in the Mekong River delta: Implications for deltaic shoreline change. Continental Shelf Research, 147, 155–164. [4] Nguyễn Hữu Nhân, Phan Mạnh Hùng, Hoàng Văn Huân, Quách Đình Hùng, ĐỗThị Hồng Thư, 2013. Tác động của chế độ thủy động lực vùng ven bờ ảnh hưởng đến diễn biến xói bồi bờ biển trà vinh. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Thủy lợi, Viện Kỹ thuật Biển, Số 17. [5] Cổng thông tin điện tử tỉnh Trà Vinh, [6] Lê Hữu Tuấn, Nguyễn Thị Mộng Lan, Tạ Thị Kim Oanh, 2012. Đặc điểm môi trường trầm tích ven biển và thay đổi đường bờ tỉnh Trà Vinh, đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Các Khoa học về Trái đất, 34(3), 350–358.
File đính kèm:
- impact_of_the_works_on_the_change_in_coastline_of_tra_vinh_p.pdf