Khảo sát khả năng ức chế enzyme α-Amylase và α-glucosidase của một số cây thuốc dân gian trong điều trị bệnh đái tháo đường

Tóm tắt Khảo sát khả năng ức chế enzyme α-Amylase và α-glucosidase của một số cây thuốc dân gian trong điều trị bệnh đái tháo đường: ... ban đầu). A 1 : Giá trị quang của dung dịch sau phản ứng (lượng tinh bột còn lại). Tiến hành dựng đường chuẩn biểu diễn mối tương quan giữa % enzyme bị ức chế và nồng độ mẫu. Dựa vào phương trình đường chuẩn xác định được giá trị IC 50 . * IC50 và cách xác định: IC50 là một giá trị ...hanol từ các mẫu lá đến khả năng ức chế enzyme α-amylase Trong cơ thể, enzyme α-amylase có vai trò thủy phân các liên kết α-1,4-glucoside của tinh bột, glycogen và các polysaccharide khác tạo thành glucose và maltose. Enzyme α-amylase xúc tác thủy phân tinh bột tạo ra nhiều glucose, làm t...ả năng ức chế enzyme α-glucosidase của các loại cao chiết ethanol, tiến hành dựng đường chuẩn biểu diễn khả năng ức chế α-glucosidase của các loại cao chiết ethanol giữa các nồng độ khác nhau. Kết quả vẽ được các phương trình đường thẳng như sau: Phương trình đường thẳng của cao chiết et...

pdf9 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 110 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Khảo sát khả năng ức chế enzyme α-Amylase và α-glucosidase của một số cây thuốc dân gian trong điều trị bệnh đái tháo đường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 việc bổ sung 1000 
μL Na
2
CO
3
 0,2M. Hoạt động ức chế của enzyme 
α-glucosidase được xác định bằng cách đo quang 
phổ (Thermo, Mỹ) ở bước sóng λ = 405 nm. Song 
song, tiến hành đánh giá hiệu quả ức chế enzyme 
α-glucosidase với đối chứng dương là Acarbose ở 
các mức nồng độ tương ứng. Phần trăm enzyme 
α-glucosidase bị ức chế (%) được tính dựa vào 
lượng p-nitrophenol tạo thành từ pNPG trong phản 
ứng thông qua giá trị đo độ hấp thu quang phổ.
 Phần trăm enzyme α-glucosidase bị ức 
chế (%) = (B – A)/Bx 100
Trong đó: 
A: Giá trị quang của mẫu thật.
B: Giá trị quang của mẫu đối chứng.
2.2.4. Đánh giá khả năng kháng oxy hóa của cao 
chiết ethanol từ các mẫu lá
Phản ứng khử gốc tự do của cao chiết ethanol 
từ các mẫu lá bằng phương pháp DPPH được thực 
hiện theo phương pháp của Shirwaikar và cộng sự. 
(2006) và có điều chỉnh như sau: cao chiết của các 
mẫu lá được pha trong DMSO để được 50 - 300 
µg/mL. DPPH được pha trong ethanol để được 
dung dịch gốc có nồng độ 0,2 mg/mL. Phản ứng 
được thực hiện với 500 μL cao chiết ở các nồng độ 
khác nhau được cho vào ống nghiệm, sau đó thêm 
vào mỗi ống nghiệm 500 μL DPPH và lắc đều. Các 
ống nghiệm được giữ ổn định trong tối, ở nhiệt độ 
phòng trong thời gian 30 phút, sau đó tiến hành đo 
142
142
Nông nghiệp – Thủy sản
 Số 22, tháng 7/2016
độ hấp thu quang phổ (Thermo, Mỹ) ở bước sóng λ 
= 517 nm. Vitamin C được thực hiện tương tự cao 
chiết, với 8 mức nồng độ là 0 - 70 (μg/mL).
2.3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel, 
thống kê bằng phần mềm Statgraphics Centurion 
16.0. Kiểm định sự khác biệt giữa các nghiệm thức 
theo phép thử LSD và Duncan. 
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Định tính một số hợp chất thiên nhiên trong 
cao chiết ethanol từ các mẫu lá
Kết quả phân tích định tính cho thấy, trong cao 
chiết ethanol của các mẫu lá (mãng cầu Xiêm, 
mãng cầu ta, bình bát, xoài và ổi) có sự hiện diện 
của các hợp chất như flavonoid, tannin, saponin và 
alkaloid (Bảng 2).
* Alkaloid: là các hợp chất hữu cơ trong thực 
vật có chứa một hay nhiều nguyên tử nitơ trong 
phân tử và có tính kiềm. Alkaloid có tác dụng sinh 
học rất đa dạng, chủ yếu alkaloid được sử dụng 
làm thuốc như ức chế hoặc kích thích thần kinh 
trung ương, điều trị bệnh tim, cao huyết áp, chống 
sốt rét, chống ung thư, (Phan Quốc Kinh, 2011).
* Tannin: Tannin là nhóm duy nhất trong nhóm 
chất chuyển hóa phenolic với trọng lượng phân 
tử từ 500-30.000 Dalton, được phân bố rộng rãi 
trong các thức ăn và đồ uống từ thực vật. Tannin 
có nhiều đặc tính sinh học cao như hiệu quả chống 
oxy hóa, kháng khuẩn, kháng virus, chống gây đột 
biến, chống ĐTĐ và ngăn ngừa bệnh mãn tính. 
Trong hiệu quả ức chế ĐTĐ, tannin có khả năng 
ức chế 2 enzyme α-amylase và α-glucosidase. 
Tannin có hoạt tính chống ĐTĐ bằng 2 cách: (i) 
làm giảm mức độ glucose bằng cách trì hoãn sự 
hấp thu glucose ở ruột và đóng vai trò như insulin; 
(ii) trì hoãn sự khởi đầu của bệnh ĐTĐ type 2 bằng 
việc điều tiết môi trường chống oxy hóa của tế bào 
β tuyến tụy (Serrano et al., 2009).
* Saponin: dưới tác dụng của các enzyme 
thực vật, saponin bị thuỷ phân thành genin 
và glucid. Saponin cung cấp nhiều loại thuốc 
quan trọng với tác dụng bổ, tăng cường sinh 
lực (saponin có trong họ nhân sâm); tác dụng 
long đờm, dịu ho (có trong cam thảo, viễn chí); 
giảm đau nhức khớp xương, hạ cholesterol 
trong máu (Hoàng Sầm và cộng sự, 2009).
* Flavonoid: là chất có cấu tạo với khung 
stilben và khung flavonoid. Flavonoid được biết là 
chất có tác dụng hạ đường huyết và phục hồi tế bào 
β của tuyến tụy, kháng khuẩn và virus, thoái hóa 
thần kinh, chống oxy hóa, (Gopinath và cộng 
sự, 2013).
Bảng 2: Kết quả phân tích một số hợp chất thiên nhiên trong cao chiết từ các mẫu lá
Nguyên liệu Hợp chất Hiện tượng Kết quả
Lá mãng cầu Xiêm Tannin Kết tủa xanh dương đen +
Lá mãng cầu ta
Tannin Kết tủa xanh dương đen +
Flavonoid Xuất hiện màu vàng +
Lá bình bát
Alkaloid Kết tủa màu nâu +
Tannin Kết tủa xanh dương đen +
Lá xoài
Tannin Kết tủa xanh dương đen +
Flavonoid Xuất hiện màu vàng +
Saponin Xuất hiện bọt +
Lá ổi
Tannin Kết tủa xanh dương đen +
Flavonoid Xuất hiện màu vàng +
Saponin Xuất hiện bọt +
3.2. Khảo sát ảnh hưởng của nồng độ cao chiết 
ethanol từ các mẫu lá đến khả năng ức chế 
enzyme α-amylase
Trong cơ thể, enzyme α-amylase có vai trò thủy 
phân các liên kết α-1,4-glucoside của tinh bột, 
glycogen và các polysaccharide khác tạo thành 
glucose và maltose. Enzyme α-amylase xúc tác 
thủy phân tinh bột tạo ra nhiều glucose, làm tăng 
lượng glucose trong máu dẫn đến nguy cơ dễ mắc 
bệnh ĐTĐ. Do đó, ức chế α-amylase có thể được 
xem là một cơ chế để làm giảm glucose trong máu 
và hạn chế nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ. Các chất ức 
chế (Acarbose, Tannin) có tác động mạnh đến khả 
năng hoạt động của α-amylase bằng cách kìm hãm 
theo hướng cạnh tranh hay phi cạnh tranh, kết quả 
làm ảnh hưởng đến sự liên kết giữa trung tâm hoạt 
động của enzyme với cơ chất. Vì vậy, Acarbose 
được sử dụng như nghiệm thức đối chứng trong 
143
143
Nông nghiệp – Thủy sản
 Số 22, tháng 7/2016
các nghiên cứu ức chế α-amylase. 
Khi tăng nồng độ Acarbose từ 20-100 (µg/
mL), phần trăm α-amylase bị ức chế tăng tuyến 
tính với nồng độ Acarbose và khác biệt có ý nghĩa 
về mặt thống kê ở mức 5%. Cụ thể, ở nồng độ 
Acarbose 100 µg/mL, khả năng ức chế α-amylase 
đạt 53,03%; 39,04% ở nồng độ Acarbose 80 µg/
mL và thấp nhất là 14,95% ở nồng độ Acarbose 20 
µg/mL (Hình 1).
Khả năng ức chế α-amylase được tính dựa vào 
sự chênh lệch lượng tinh bột ban đầu và lượng tinh 
bột còn lại sau phản ứng thủy phân để đánh giá 
mức độ thủy phân của α-amylase. Lượng tinh bột 
còn lại sau phản ứng càng nhiều thì khả năng ức 
chế α-amylase càng mạnh. Kết quả, hiệu quả ức 
chế α-amylase tăng tuyến tính khi tăng nồng độ cao 
chiết và có sự khác biệt giữa các mẫu nguyên liệu. 
Cao chiết ethanol từ các mẫu lá cho hiệu quả ức 
chế α-amylase cao nhất ở mức nồng độ là 100 µg/
ml. Cụ thể, hiệu quả ức chế α-amylase đạt 87,11% 
(lá ổi); 78,13% (lá mãng cầu ta); 67,73% (lá xoài); 
67,07% (lá mãng cầu xiêm) và 56,20% (lá bình 
bát). Trong khi đó, hiệu quả ức chế α-amylase thấp 
nhất của cao chiết ethanol từ các mẫu lá ở nồng độ 
là 20 µg/ml: lá ổi đạt 34,88%; lá xoài đạt 30,52%; 
lá bình bát đạt 22,77%; lá mãng cầu Xiêm đạt 
19,52% và lá mãng cầu ta đạt 15,49% (Hình 2).
Dựa vào kết quả phân tích khả năng ức chế 
enzyme α-amylase của các loại cao chiết ethanol, 
tiến hành dựng đường chuẩn biểu diễn khả năng 
ức chế α-amylase của các loại cao chiết ethanol 
giữa các nồng độ khác nhau. Kết quả vẽ được các 
phương trình đường thẳng như sau: 
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá mãng cầu Xiêm là y = 0,599x + 4,262, với hệ số 
tương quan R2 = 0,9778 và giá trị IC
50
 là 76,35 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá mãng cầu ta là y = 0,785x - 1,1321, với hệ số tương 
quan R2 = 0,981 và giá trị IC
50
 là 64,85 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá bình bát là y = 0,4181x + 12,82, với hệ số tương 
quan R2 = 0,9817 và giá trị IC
50
 là 88,93 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá xoài là y = 0,4554x + 19,865, với hệ số tương 
quan R2 = 0,9805 và giá trị IC
50
 là 66,17 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá ổi là y = 0,6943x + 20,185, với hệ số tương quan 
R2 = 0,978 và giá trị IC
50
 là 42,92 µg/mL.
Hình 1: Hiệu quả ức chế enzyme α-amylase của Acarbose
144
144
Nông nghiệp – Thủy sản
 Số 22, tháng 7/2016
Hình 2: Hiệu quả ức chế enzyme α-amylase của các cao chiết ethanol
Hiệu quả ức chế α-amylase của cao chiết 
ethanol từ các mẫu lá tốt hơn so với Acarbose, thể 
hiện qua giá trị IC
50
 của các mẫu cao chiết thấp hơn 
so với Acarbose. Cụ thể, hiệu quả khử α-amylase 
giảm dần theo thứ tự: lá ổi (IC
50
 = 42,92 µg/mL) 
> lá xoài (IC
50
 = 66,17 µg/mL) > lá mãng cầu ta 
(IC
50
 = 64,85 µg/mL) > lá mãng cầu Xiêm (IC
50
= 76,35 µg/mL) > lá bình bát (IC
50
 = 88,93 µg/
mL) > Acarbose (IC
50
 = 98,83 µg/mL). Kết quả 
cho thấy, các mẫu cao chiết có hoạt tính ức chế 
α-amylase hiệu quả hơn so với Acarbose, đặc biệt 
là cao chiết từ lá ổi có hiệu quả gấp 2,3 lần so với 
đối chứng. Mặc dù, các cao chiết còn lẫn nhiều 
tạp chất, chưa được tinh sạch nhưng hiệu quả ức 
chế cao hơn Acarbose - một loại thuốc thương mại 
đã được tinh sạch. Điều này cho thấy, tiềm năng 
của các mẫu lá nguyên liệu trong điều trị ĐTĐ 
thông qua hoạt tính ức chế α-amylase. Enzyme 
α-amylase là một enzyme thực hiện bước đầu tiên 
trong quá trình thủy phân tinh bột, việc làm ức chế 
enzyme này sẽ dẫn tới một loạt các enzyme biến 
dưỡng carbohydrate hoạt động sau đó cũng đình 
trệ, hạn chế sự tạo thành glucose sau bữa ăn, giúp 
người bệnh ĐTĐ ổn định đường huyết. 
3.3. Khảo sát ảnh hưởng của nồng độ cao chiết 
ethanol từ các mẫu lá đến khả năng ức chế 
enzyme α-glucosidase
Enzyme α-glucosidase của ruột non ở người 
có vai trò thủy phân các liên kết α-1,4 của 
oligosaccharide thành glucose và sau đó được hấp 
thu qua niêm mạc ruột non và thẩm thấu vào máu. 
Bên cạnh đó, nồng độ glucose trong máu cao là biểu 
hiện của bệnh ĐTĐ, do đó, ức chế α-glucosidase 
sẽ điều khiển được lượng đường huyết trong máu, 
góp phần điều trị hiệu quả ĐTĐ. Acarbose được 
biết đến như một chất ức chế α-glucosidase và 
đang được sử dụng phổ biến cho bệnh nhân ĐTĐ 
type 2. Acarbose cũng được sử dụng như một đối 
chứng dương trong các nghiên cứu về khả năng ức 
chế α-glucosidase của các cao chiết thực vật. Hoạt 
tính ức chế α-glucosidase tăng dần 14,11; 22,03; 
28,23; 34,86; 44,58 và 53,63 (%) và khác biệt ý 
nghĩa thống kê ở mức 5% giữa các mức nồng độ, 
tương ứng với sự gia tăng nồng độ Acarbose 40 - 
140 (µg/mL) (Hình 3).
Khi tăng nồng độ cao chiết ethanol của các mẫu 
lá, hiệu quả ức chế α-glucosidase tăng tuyến tính 
và có sự khác biệt giữa các mẫu nguyên liệu. Cao 
chiết ethanol từ các mẫu lá cho hiệu quả ức chế 
α-glucosidase cao nhất ở mức nồng độ là 100 µg/
ml. Cụ thể, hiệu quả ức chế enzyme đạt 78,48% 
(lá bình bát), 71,41% (lá mãng cầu ta), 70,45% (lá 
xoài), 64,23% (lá mãng cầu Xiêm) và 52,72% (lá 
ổi). Trong khi đó, hiệu quả ức chế α-glucosidase 
của cao chiết ethanol từ các mẫu lá thấp nhất ở 
mức nồng độ là 20 µg/ml: lá bình bát đạt 45,71%, 
lá xoài đạt 44,32%; lá mãng cầu Xiêm đạt 38,12%; 
lá mãng cầu ta đạt 23,87% và lá ổi đạt 9,66% 
(Hình 4). 
Dựa vào kết quả phân tích khả năng ức chế 
enzyme α-glucosidase của các loại cao chiết 
ethanol, tiến hành dựng đường chuẩn biểu diễn 
khả năng ức chế α-glucosidase của các loại cao 
chiết ethanol giữa các nồng độ khác nhau. Kết quả 
vẽ được các phương trình đường thẳng như sau: 
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá mãng cầu Xiêm là y = 0,286x + 36,989, với hệ số 
tương quan R2 = 0,9804 và giá trị IC
50
 là 45,49 µg/mL.
145
145
Nông nghiệp – Thủy sản
 Số 22, tháng 7/2016
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá mãng cầu ta là y = 0,504x + 22,11, với hệ số tương 
quan R2 = 0,9787 và giá trị IC
50
 là 55,73 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá bình bát là y = 0,3736x + 43,207, với hệ số tương 
quan R2 = 0,9841 và giá trị IC
50
 là 18,18 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá xoài là y = 0,2934x + 40,264, với hệ số tương 
quan R2 = 0,9928 và giá trị IC
50
 là 33,18 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá ổi là y = 0,4649x + 4,4853, với hệ số tương quan 
R2 = 0,9887 và giá trị IC
50
 là 97,47 µg/mL.
Hiệu quả ức chế α-glucosidase của cao chiết 
ethanol từ các mẫu lá tốt hơn so với Acarbose, thể 
hiện qua giá trị IC
50
 của các mẫu cao chiết thấp 
hơn so với Acarbose. Cụ thể, hiệu quả ức chế 
α-glucosidase giảm dần theo thứ tự: lá bình bát 
(IC
50
 = 18,18 µg/mL) > lá xoài (IC
50
 = 33,18 µg/
mL) > lá mãng cầu Xiêm (IC
50
 = 45,49 µg/mL) > 
lá mãng cầu ta (IC
50
 = 55,73 µg/mL) > lá ổi (IC
50
 = 
97,47 µg/mL) > Acarbose (IC
50
 = 134,02 µg/mL). 
Kết quả phân tích cho thấy, các mẫu cao chiết có 
hoạt tính ức chế α-glucosidase hiệu quả hơn so với 
Acarbose, đặc biệt là cao chiết từ lá bình bát có 
hiệu quả gấp 7,37 lần so với đối chứng. Mặc dù, 
các cao chiết ethanol còn lẫn nhiều tạp chất, chưa 
được tinh sạch nhưng hiệu quả ức chế của cao chiết 
cao hơn Acarbose – một loại thuốc thương mại đã 
được tinh sạch. Điều này cho thấy rằng, tiềm năng 
của các mẫu lá nguyên liệu trong điều trị đái tháo 
đường thông qua hoạt tính ức chế α-glucosidase.
Hình 3: Hiệu quả ức chế α-glucosidase của Acarbose
Hình 4: Hiệu quả ức chế α-glucosidase của các cao chiết ethanol
146
146
Nông nghiệp – Thủy sản
 Số 22, tháng 7/2016
Khả năng ức chế α-glucosidase của Acarbose 
không mạnh là do cấu trúc hóa học của Acarbose. 
Acarbose có cấu trúc tương tự một tetrasaccharide, 
ức chế α-glucosidase theo kiểu chất kìm hãm cạnh 
tranh. Tuy nhiên, trong 2 tiểu đơn vị xúc tác của 
α-glucosidase, Acarbose chỉ liên kết với một tiểu 
đơn vị xúc tác và liên kết rất yếu với tiểu đơn 
vị còn lại. Tác dụng ức chế α-glucosidase của 
Acarbose cũng tùy thuộc vào nguồn enzyme, 
Acarbose ức chế rất mạnh α-glucosidase ly trích từ 
ruột non của động vật có vú, trong khi ức chế rất 
thấp α-glucosidase ở nấm men (Sim et al., 2008).
3.4. Đánh giá khả năng kháng oxy hóa của cao 
chiết ethanol từ các mẫu lá
Gốc tự do là các nguyên tử có ít nhất một 
electron chưa ghép cặp trong vỏ ngoài cùng và có 
khả năng tồn tại độc lập. Gốc tự do được sản xuất 
trong quá trình trao đổi chất bình thường của cơ 
thể, stress sinh lý và là nguyên nhân gây ra nhiều 
bệnh như ung thư, bệnh tim mạch, bệnh Alzheimer, 
Parkinson, xơ vữa động mạch,... Vitamin C là chất 
có hoạt tính mạnh đối với gốc tự do được sử dụng 
làm chất chuẩn trong nhiều tài liệu tham khảo. 
Hiệu quả ức chế gốc tự do DPPH tăng khi gia tăng 
nồng độ vitamin C và khác biệt có ý nghĩa ở mức 
độ 5%. Hiệu quả khử gốc tự do của vitamin C đạt 
cao nhất ở nồng độ 70 µg/ml, đạt 88,98%. Kế đến 
là nồng độ 60 µg/ml với hiệu suất 81,05% và nồng 
độ 10 µg/ml, với hiệu suất 6,02% (Hình 5). 
Cao chiết từ các mẫu lá ở các nồng độ khác 
nhau, khả năng loại bỏ gốc tự do DPPH khác nhau. 
Cao chiết có hiệu quả khử gốc tự do DPPH cao 
nhất ở nồng độ cao chiết 300 µg/mL: lá mãng cầu 
Xiêm (63,24%), kế đến là lá ổi (57,91%), lá xoài 
(57,70%), lá bình bát (54,15%) và thấp nhất là lá 
mãng cầu ta (52,37%). Trong khi đó, ở nồng độ 
cao chiết 50 µg/mL, hiệu quả gốc tự do DPPH đạt 
thấp nhất: lá xoài (15,81%), lá mãng cầu Xiêm 
(15,81%), lá mãng cầu ta (13,04%), lá ổi (11,66%) 
và lá bình bát (8,89%) (Hình 6).
Dựa vào kết quả phân tích khả năng khử gốc tự 
do DPPH của các loại cao chiết ethanol, tiến hành 
dựng đường chuẩn biểu diễn khả năng khử gốc tự 
do DPPH của các loại cao chiết ethanol giữa các 
nồng độ khác nhau. Kết quả vẽ được các phương 
trình đường thẳng như sau: 
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá mãng cầu Xiêm là y = 0,205x + 4,2602, với hệ số 
tương quan R2 = 0,9854 và giá trị IC50 là 223,12 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá mãng cầu ta là y = 0,1792x + 3,7304, với hệ số 
tương quan R2 = 0,9805 và giá trị IC
50
 là 267,61 
µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá bình bát là y = 0,1739x + 0,4195, với hệ số tương 
quan R2 = 0,9852 và giá trị IC
50
 là 285,11 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá xoài là y = 0,1876x + 4,6405, với hệ số tương 
quan R2 = 0,9808 và giá trị IC
50
 là 241,79 µg/mL.
Phương trình đường thẳng của cao chiết ethanol 
lá ổi là y = 0,1992x + 1,2032, với hệ số tương quan 
R2 = 0,9811 và giá trị IC
50
 là 244,96 µg/mL.
Giá trị IC
50 
của cao chiết ethanol của các mẫu 
lá cao hơn so với đối chứng dương vitamin C và 
giảm dần theo thứ tự lá bình bát (IC
50 
= 285,11 µg/
mL) > lá mãng cầu ta (IC
50 
= 267,61 µg/mL)> lá 
ổi (IC
50 
= 244,96 µg/mL) > lá xoài (IC
50 
= 241,79 
µg/mL) > lá mãng cầu Xiêm (IC
50 
= 223,12 µg/
mL) > Viatmin C (IC
50 
= 39,63 µg/mL). Giá trị IC
50
của cao chiết gấp lần lượt 7,19; 6,75; 6,18; 6,10 
và 5,63 lần so với Vitamin C. Điều này cho thấy 
rằng, hiệu quả khử gốc tự do của cao chiết ethanol 
từ các mẫu lá thấp hơn so với vitamin C. Nguyên 
nhân của sự khác biệt là do cao chiết từ các mẫu lá 
được trích bằng phương pháp ngâm dầm rồi đem 
lọc và cô quay, trong quá trình lọc có thể chưa loại 
bỏ được hết các tạp chất nên sản phẩm chưa được 
tinh sạch. So với vitamin C là một chất chống oxy 
hóa cao và là sản phẩm thương mại nên sẽ có độ 
tinh sạch cao hơn nên cho hiệu quả ức chế gốc tự 
do cao hơn cao chiết từ các mẫu lá.
147
147
Nông nghiệp – Thủy sản
 Số 22, tháng 7/2016
Hình 5: Hiệu quả khử gốc tự do DPPH của Vitamin C Hình 6: Hiệu quả khử gốc tự do DPPH của các cao 
chiết ethanol
4. Kết luận
Phân tích định tính các hợp chất thiên nhiên 
có trong các cao chiết ethanol từ các mẫu lá bao 
gồm các hợp chất như tannin, flavonoid, saponin 
và alkaloid.
Cao chiết ethanol từ các mẫu lá (lá ổi, xoài, 
mãng cầu ta, mãng cầu Xiêm và bình bát) đều có 
khả năng ức chế hoạt tính của enzyme α-amylase 
với giá trị IC
50
 tương ứng là 42,92; 66,17; 64,85; 
76,35 và 88,93 µg/mL
Cao chiết ethanol từ các mẫu lá (bình bát, xoài, 
mãng cầu Xiêm, mãng cầu ta, và lá ổi) đều có khả 
năng ức chế hoạt tính của enzyme α-glucosidase 
với giá trị IC
50
 tương ứng là 18,18; 33,18; 45,49; 
55,73 và 97,47 µg/mL
Cao chiết ethanol từ các mẫu lá (bình bát, mãng 
cầu ta, ổi, xoài và mãng cầu Xiêm) có khả năng 
khử gốc tự do DPPH với giá trị IC
50
 lần lượt là 
285,11; 267,61; 244,96; 241,79 và 223,12 µg/mL.
Tài liệu tham khảo
Đái, Thị Xuân Trang, Phạm, Thị Lan Anh, Trần, Thanh Mến và Bùi, Tấn Anh. 2012. “Khảo sát khả năng điều 
trị bệnh tiểu đường của cao chiết lá ổi (Psidium guajava L.)”. Tạp chí khoa học, 2012: 22b, trang 163-171.
Gopinath, S.M., P. Priyanka, K.S. Dayananda, J.M. Reddy, G.M. Ashwini and D.V. Nair. 2013. “In vitro 
Inhibitory Effect of Polyherbal Formulation on alpha-amylase”. International Journal of Innovative Research in 
Science, Engineering and Technology, Vol. 2, No. 9, pp 4556-4566.
Habeeb, M.N., R.N. Prakash and S.M. Fahmi. 2012. “Inhibition of α-glucosidase and α-amylase by Morus alba 
Linn leaf extracts”. Journal of Pharmacy Research, Vol. 5, No. 1, pp 285-289.
Hoàng Sầm, Hứa, Văn Thao, Phạm, Văn Khang và Nguyễn, Anh Tuấn. 2009. Góp phần nghiên cứu thành phần 
hóa học của cây Lược vàng. Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Miura T., S. Takagi and T. Ishida, 2012. “Management of diabetes and its complications with Banaba 
(Lagerstroemia speciosa L.) and corosolic acid”. Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine, Vol 
5, pp 321-329. 
Phan, Quốc Kinh. 2011. Giáo trình các hợp chất thiên nhiên có hoạt tính sinh học. Hà Nội: Giáo dục Việt Nam.
Serrano, J., R. Puupponen-Pimia, A. Dauer, A. Aura and F. Saura-Calixto. 2009. “Tannins: Current knowledge 
of food sources, intake, bioavailability and biological effects”. Mol. Nutr. Food Res., Vol 53, pp 310-329.
Shirwaikar, A., K. Rajendran and I.S. Punithaa, 2006. “In vivo antioxidant studies on the benzyl tetra 
isoquinoline alkaloid berberine”. Biol Pharm Bull, Vol 29, pp 1906-1910.
Sim, L., R. Quezada-Calvillo, E.E. Sterchi, B.L. Nichols and D.R. Rose. 2008. “Human intestinal maltase-
glucoamylase: crystal structure of the N-terminal catalytic subunit and basis of inhibition and substrate specificity”. 
J. Mol. Biol, Vol. 375, No. 3, pp 782-792.
Yadav, M., S. Chatterji, S.K. Gupta and G. Watal. 2014. “Preliminary phytochemical screening of six medicinal 
plants used in traditional medicine’. International Journal of Pharmacy and Pharmaceutical Sciences, Vol. 6, 
No.5, pp 539-542.

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_kha_nang_uc_che_enzyme_amylase_va_glucosidase_cua_m.pdf