Làng nghề truyền thống đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình hiện đại hóa

Tóm tắt Làng nghề truyền thống đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình hiện đại hóa: ...vài ngàn lao động địa phương và mang lại thu nhập cũng trên 4 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, tỉnh cũng đã lồng ghép thực hiện các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề để hỗ trợ máy móc, thiết bị cho các làng nghề. Đã hỗ trợ 48 máy se đay và 34 khung dệt chiếu cho 48 hộ nghèo ở ...thuận tiện. Giao thông nông thôn chỉ mới đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển nhẹ, điện chỉ đáp ứng cho sinh hoạt. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý môi trường cho các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn gặp nhiều khó khăn do đời sống người dân nông thôn còn nghèo, việc huy động vốn...n mang tính cục bộ theo chương trình, dự án. Nội dung đào tạo còn nhiều bất cập, chủ yếu tập trung vào lý thuyết. HỘI THẢO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH - 2014 [Type text] 2.4. Giải pháp, đề xuất Trên cơ sở thực trạng và khó khăn của làng nghề truyền thống, chính quyền các t...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Làng nghề truyền thống đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình hiện đại hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
[6] Còn về nghề bánh Pía ở Sóc Trăng, được biết: “Hiện nay, nhờ biết cách quảng bá, 
nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường, nhiều doanh nghiệp sản xuất bánh pía ở 
Sóc Trăng không chỉ mở rộng thị trường ra phạm vi cả nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. 
HỘI THẢO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH - 2014 
[Type text] 
Điển hình như trường hợp Công ty chế biến thực phẩm bánh pía - lạp xưởng Tân Huê 
Viên, doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn quản lí chất lượng vệ sinh an toàn 
thực phẩm từ năm 2009, đã mở đại lí tại Phnom Penh (Campuchia) và đang xúc tiến mở thêm 
một đại lí ở CHLB Đức. Mới đây, Tân Huê Viên xuất khẩu sang Mỹ 40 tấn bánh pía và dự kiến 
sẽ tiếp tục mở rộng thị trường sang châu Âu, sau khi đầu tư trên 20 tỉ đồng nâng cấp hệ thống 
nhà xưởng và công nghệ sản xuất” [7] 
2.2.2. Nhóm nghề chạm trổ, đan đát, dệt may: 
Nhóm nghề này cũng tận dụng được thời gian lao động nhàn rỗi, lại có thuận lợi là sản xuất tại 
nhà, tiền đầu tư cho công cụ sản xuất không cao nên cũng thu hút được nhiều lao động tham gia. 
Chẳng hạn: 
Với tỉnh Tiền Giang, nghề chạm khắc gỗ ở Lương Hòa Lạc (Chợ Gạo, Tiền Giang) mang lại thu 
nhập khoảng 6 triệu đồng/tháng, cho số người tham gia lên đến vài trăm thợ, trong khi bộ dụng 
cụ phay, đục, chạm, khắc... chỉ vài trăm ngàn đồng. Hay như nghề đan giỏ, nón xuất khẩu đi các 
nước Âu Mỹ bằng nguyên liệu bàng buông ở Thân Cửu Nghĩa (Châu Thành, Tiền Giang), thu 
hút vài ngàn lao động địa phương và mang lại thu nhập cũng trên 4 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, 
tỉnh cũng đã lồng ghép thực hiện các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề để 
hỗ trợ máy móc, thiết bị cho các làng nghề. Đã hỗ trợ 48 máy se đay và 34 khung dệt chiếu cho 
48 hộ nghèo ở làng nghề truyền thống dệt chiếu Long Định (đến nay đã thoát nghèo 37 hộ), hỗ 
trợ 40 máy may công nghiệp cho các hộ nghèo ở xã Tân Lý Đông - làng nghề truyền thống bàng 
buông Tân Lý Đông - Đến nay có hơn 08 hộ thoát nghèo. [8] 
Với tỉnh Bến Tre, kết quả sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất làng nghề năm 2005 đạt 
186.701 triệu đồng, năm 2010 đạt 331.665 triệu đồng, năm 2012 đạt 472.297 triệu đồng, tăng 
trưởng bình quân giai đoạn 2006 – 2010 là 12,18%/năm, chiếm 9,94% giá trị sản xuất toàn 
ngành công nghiệp. Sự phát triển của các làng nghề trong thời gian qua đã có đóng góp quan 
trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo 
hướng công nghiệp và dịch vụ, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người 
lao động ở nông thôn. Các làng nghề đã đi vào sản xuất ổn định và đang trên đà phát triển (từ 
năm 2006 đến nay) như: Làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa An Thạnh – Khánh Thạnh Tân, làng 
nghề bánh tráng Mỹ Lồng - bánh phồng Sơn Đốc, làng nghề dệt chiếu An Hiệp (có Công ty 
TNHH Thanh Bình với doanh thu năm 2011 là 73 tỷ, làm đầu tàu để thúc đẩy các làng nghề khác 
phát triển), làng nghề đan giỏ cọng dừa Phước Long, làng nghề đan đát Phú Lễ, Phước Tuy... [9] 
2.2.3. Nhóm ngành nghề được công nhận “Làng nghề truyền thống” 
 Các “Làng nghề truyền thống” như làng kiểng Mai vàng Phước Định (Long Hồ, Vĩnh Long), 
làng Hoa kiểng Vĩnh Thành (Chợ Lách, Bến Tre), làng hoa Sa Đéc (Đồng Tháp), làng nghề tủ 
thờ Gò Công (Tiền Giang), làng dệt chiếu Long Định, làng bàng buông Thân Cửu Nghĩa (Châu 
Thành, Tiền Giang)... Các làng này, ngoài uy tín thương hiệu truyền thống, còn có một lực lượng 
lao động đông đảo có tay nghề cao nên việc duy trì và phát triển làng nghề có được sự phát triển 
ổn định. 
Đánh giá làng kiểng Mai vàng, Ông Nguyễn Văn Mẫn - Phó chủ tịch thường trực HSVC TP 
Vĩnh Long (Vĩnh Long) - cho biết: “Hiện Vĩnh Long có 17 làng nghề. Làng nghề cây kiểng cảnh 
có hội viên HSVC 151 hộ tham gia. Với nhiều sản phẩm kiểng cổ có tuổi cao hàng trăm năm, 
kiểng tuổi dạng trung cũng hơn 50 năm tuổi, kiểng ở tuổi thấp từ 5 năm đến 10 năm tuổi. 
Tổng giá trị làng nghề trên 12 tỷ đồng.”. Ông Mẫn còn cho biết: ”Sắp tới đây HSVC tỉnh sẽ có 
kế hoạch cụ thể để hỗ trợ cho làng nghề mai vàng Phước Định trở thành một làng mai vàng được 
gắn với một thương hiệu mạnh, là làng nghề tiêu biểu nhất của TP Vĩnh Long- tỉnh Vĩnh Long.” 
[10] 
HỘI THẢO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH - 2014 
[Type text] 
Nhận định hoa kiểng Chợ Lách có ý kiến cho rằng: “Trải qua gần trăm năm gây dựng với bao 
thăng trầm, có lúc tưởng như tàn lụi, nhưng giờ đây mỗi năm làng nghề này đang mang về một 
khoản lợi nhuận ước gần 100 tỉ đồng, tạo công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động địa 
phương. Nơi đây còn là địa chỉ du lịch hấp dẫn mang đậm nét miệt vườn Nam Bộ. [11] Còn với 
làng tủ thờ Gò Công, có gần 80 hộ trong xã Tân Trung tham gia Nghiệp đoàn Mộc - Tủ thờ 
truyền thống Gò Công: “Khoảng một nửa thợ đóng tủ ở đây là đời thứ ba, thứ tư, thứ năm của 
nghề gia truyền, vì cha ông họ từng làm công hoặc học nghề những bậc tiền bối khai sinh làng.” 
[12] 
2.3. Khó khăn, thách thức của các làng nghề 
2.3.1. Phần lớn làng nghề hoạt động theo kinh nghiệm cha truyền con nối: 
Các làng nghề hiện nay hoạt động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm cha truyền con nối, người trước 
chỉ người sau bằng cách cầm tay chỉ việc, phụ thuộc vào kỹ năng khéo léo của đôi tay là chính. 
Mức độ đầu tư máy móc thiết bị vào sản xuất còn thấp, việc áp dụng khoa học kỹ thuật rất hạn 
chế. Cụ thể như làng nghề chạm khắc gỗ tại Tiền Giang: khâu vẽ kiểu trên giấy vẫn được vẽ 
bằng tay rất mất thời gian, độ tinh xảo cũng không cao và thường chỉ sử dụng được một lần do 
khó bảo quản và kích cỡ các lần sử dụng cũng không đồng nhất. Trong khi đó, nếu được đưa vào 
xử lý bằng kỹ thuật số thì sẽ rút ngắn được thời gian, lưu trữ và phóng to thu nhỏ dễ dàng cho 
các lần sử dụng sau. Hậu quả của việc làm thủ công là chất lượng thành phẩm không đồng nhất, 
bạn hàng không trả tiền trước mà thường đợi nghiệm thu sản phẩm mới trả công. Thực trạng này 
đẩy các cơ sở đến chỗ thiếu vốn xoay vòng nguyên vật liệu, đầu tư máy móc, nâng cao chất 
lượng sản phẩm. 
2.3.2. Phần lớn các cơ sở sản xuất với quy mô hộ gia đình: 
Phần lớn các cơ sở sản xuất với quy mô hộ gia đình, đặt tại nhà và nằm rải rác trong khu dân cư 
nên việc thu gom và xử lý chất thải của làng nghề rất khó khăn, đa số các chất thải đều thải trực 
tiếp ra môi trường không qua xử lý, môi trường tại các làng nghề bị ô nhiễm, vấn đề xử lý môi 
trường chưa được triển khai triệt để (tiêu chí công nhận làng nghề theo Thông tư 116 [13] không 
đề cập đến vấn đề bảo vệ môi trường). Cộng vào đó là hệ thống giao thông nội bộ của một số 
làng nghề vẫn chưa được quan tâm đầu tư (hầu hết đang còn là đường đất), do đó trong quá trình 
vận chuyển nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và thành phẩm chưa thuận tiện. Giao thông 
nông thôn chỉ mới đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển nhẹ, điện chỉ đáp ứng cho sinh hoạt. 
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý môi trường cho các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề 
nông thôn gặp nhiều khó khăn do đời sống người dân nông thôn còn nghèo, việc huy động 
vốn góp của dân theo tỷ lệ 6/4 khó thực hiện, đặc biệt là các công trình xử lý môi trường. Hai 
thực trạng trên dẫn đến hậu quả là không hấp dẫn được các nhà đầu tư rót vốn vào, làng nghề vì 
thế cũng bị hạn chế khả năng phát triển. 
2.3.3. Tư duy làm ăn manh mún, nhỏ lẻ: 
Phần lớn các ngành nghề có tư duy làm ăn manh mún, nhỏ lẻ, không liên kết chặt chẽ với nhau 
mà hầu không liên kết chặt chẽ với nhau mà hầu như nhà nào biết nhà đó. Điều này khiến cho 
thương hiệu làng nghề không được xây dựng, lương nhân công không nâng cao được do áp lực 
cạnh tranh về giá giữa các hộ gia đình. Đơn cử như trường hợp làng nghề chạm khắc gỗ tại Tiền 
Giang: bình quân thu nhập của nghệ nhân chỉ khoảng 200.000đ/ngày [14] tương đương với 
lương của một phụ hồ, nhưng nếu nâng giá cao hơn thì chủ hàng sẽ giao đơn hàng cho hộ khác, 
dẫn đến mất mối khách. Ở làng nghề bàng buông Tiền Giang thì lương công nhân còn thấp hơn, 
chỉ ở mức 4 triệu – 4,5 triệu đồng/tháng; mặc dù hàng được hợp tác xã [15] (HTX) làm xuất sang 
các nước châu Âu và châu Mỹ, nhưng do chủ cơ sở không trực tiếp làm được công việc xuất 
khẩu mà phải qua trung gian của một công ty khác. 
HỘI THẢO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH - 2014 
[Type text] 
2.3.4. Thiếu ý thức tự bảo vệ trong lao động: 
Trong quá trình sản xuất người lao động cũng chưa thật sự quan tâm đến việc tự bảo vệ mình, 
chưa trang bị bảo hộ lao động đầy đủ nên dễ xảy ra tai nạn lao động. Khi tai nạn xảy ra sẽ không 
có chế độ bảo hiểm y tế nào để trang trải chi phí, khiến cho cuộc sống của nghệ nhân đã chật vật 
lại càng thêm eo hẹp. Điều này cũng gây ra tâm lý chán nản cho nghệ nhân, họ dễ bỏ nghề để 
kiếm việc khác có chế độ lương cũng như bảo hiểm tốt hơn. Làng nghề vì thế ngày càng mai một 
do không thể níu chân được lực lượng lao động có tay nghề cao. 
2.3.5. Chưa có quy định cụ thể về hình thức tổ chức đại diện cho tập thể các cơ sở của làng 
nghề: 
Các làng nghề hiện nay chưa có quy định cụ thể về hình thức tổ chức đại diện cho tập thể các cơ 
sở của làng nghề trong các quan hệ đối nội và đối ngoại, làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động, 
phát triển cũng như việc xem xét hỗ trợ kinh phí của Nhà nước cho làng nghề. 
2.3.6. Khả năng xúc tiến thương mại của làng nghề còn yếu: 
Các cơ sở làm nghề chưa có chiến lược phát triển sản phẩm một cách bền vững và cũng chưa xây 
dựng được thương hiệu riêng cho sản phẩm đặc trưng của làng nghề. Các sản phẩm nón bàng 
buông của Tiền Giang hiện vẫn chịu cảnh chủ yếu nhận gia công cho các công ty mua đi bán lại, 
vì thế sản phẩm sẽ được gắn nhãn của công ty trung gian thay vì mang thương hiệu của nơi sản 
xuất ra nó [16]. Như vậy hiển nhiên người tiêu dùng ở khắp nơi trên thế giới sẽ không thể biết 
đến sự tồn tại của một làng nghề nón, giỏ bàng buông Thân Cửu Nghĩa. 
2.3.7. Giá nguyên liệu không ổn định: 
Khó khăn mà các làng nghề truyền thống hiện nay đang phải đương đầu là giá nguyên liệu. Điều 
này dẫn tới giá thành phẩm cũng dao động theo khiến chủ cơ sở không dám ký những hợp đồng 
dài hạn với giá trị lớn. Nhiều chủ cơ sở muốn mua trữ nguyên liệu nhưng lại thiếu vốn. Vòng 
tròn luẩn quẩn ấy khiến cho các cơ sở không thể đảm bảo cho người lao động có việc làm thường 
xuyên và liên tục, công việc tại làng nghề dần trở thành một công việc thời vụ thay vì việc mang 
tính chuyên môn hóa tay nghề cao. 
Như trên đã nói, hầu hết làng nghề truyền thống đều mang tính hộ gia đình, vì thế luôn tồn tại 
tình trạng thiếu người có kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh giỏi. Sản phẩm làm ra không 
được PR tốt nên luôn chịu mức giá thiệt thòi. Một chiếc nón bàng buông xuất xưởng chỉ với giá 
khiêm tốn là 6.000đ, nhưng nó sẽ gấp 20 lần giá ấy khi đến tay người tiêu dùng và hiển nhiên 
phần lợi nhuận chênh lệch ấy sẽ rơi vào tay lái buôn. [17] 
 Các cơ sở thuộc lĩnh vực ngành nghề nông thôn luôn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận 
nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, do không đáp ứng được một số yêu cầu trong quan hệ tín 
dụng. Nhiều cơ sở không có Giấy phép kinh doanh nên khó lòng tiếp cận được với nguồn vốn 
vay, hoặc có thì số tiền vay cũng không được nhiều. Thiếu vốn để đầu tư phát triển sản xuất nên 
cơ sở gặp nhiều khó khăn, tốc độ phát triển chưa theo kịp với tốc độ phát triển của xã hội. Thực 
tế cho thấy nhiều cơ sở vừa làm nghề truyền thống, đồng thời lại vừa phải chăn nuôi trồng trọt 
thêm mới đủ đảm bảo kinh tế gia đình. 
Đơn vị chủ trì việc thực hiện Quy hoạch Phát triển ngành nghề nông thôn liên quan đến nhiều sở, 
ngành và địa phương (nguồn vốn phân bổ trực tiếp về cho các sở, ngành và địa phương) nhưng 
Ủy ban nhân dân các tỉnh lại giao Sở NN -PTNT là cơ quan đầu mối tổng hợp, phối hợp thực 
hiện. Sở NN - PTNT chỉ đôn đốc, nhắc nhở thực hiện, không chủ động trong công việc này nên 
rất khó khăn để hoàn thành nếu không có sự chủ động thực hiện của các sở, ngành và địa 
phương, đặc biệt là vai trò của Ủy ban nhân dân các huyện, thị, thành. 
Công tác đào tạo nghề còn mang tính cục bộ theo chương trình, dự án. Nội dung đào tạo còn 
nhiều bất cập, chủ yếu tập trung vào lý thuyết. 
HỘI THẢO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH - 2014 
[Type text] 
2.4. Giải pháp, đề xuất 
Trên cơ sở thực trạng và khó khăn của làng nghề truyền thống, chính quyền các tỉnh, thành phố 
cần tìm ra giải pháp kịp thời để bảo tồn và phát triển các làng nghề hiện có. Mặt khác, nhóm tác 
giả xin có một số đề xuất: 
2.4.1. Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình Bảo tồn và Phát triển làng nghề, xây 
dựng thương hiệu làng nghề tiến tới hình thành làng nghề văn hóa - du lịch: 
 Bằng chương trình này, giá trị sản phẩm sẽ được nâng lên, thương hiệu sản phẩm sẽ 
được quảng bá và quan hệ thương mại sẽ bớt “vòng vèo” gây thiệt hại cho cơ sở và người sản 
xuất. 
Ngoài ra, qua du lịch văn hóa - sinh thái, nó sẽ làm tăng được lợi nhuận cho người dân 
địa phương và làm thay đổi thái độ đối với việc bảo tồn. Cụ thể, khi sự hài lòng của du khách 
tăng lên, thì họ sẽ đến nhiều hơn. Kết quả là du khách chi tiền nhiều hơn, người dân trong cộng 
đồng địa phương được hưởng lợi nhuận lớn hơn và họ sẽ nhận ra tầm quan trọng để quản lí tốt 
hơn những giá trị địa phương dựa trên mối liên hệ với tiền thu được. Điều đó sẽ làm du khách 
càng hài lòng hơn. [18] 
2.4.2. Hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở trong làng nghề ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải 
tiến thiết bị từ nguồn kinh phí khuyến công của tỉnh: 
Đổi mới công nghệ, cơ khí hóa, hợp lý hóa dây chuyền sản xuất để nâng cao chất lượng 
và hạ giá thành sản phẩm. Hỗ trợ cải tiến mẫu mã bao bì, tăng cường công tác tiếp thị, quảng bá 
sản phẩm. Trong thời đại hội nhập kinh tế toàn cầu, nếu không hạ giá thành sản phẩm và làm cho 
sản phẩm ngày càng tinh xảo hơn bằng sự trợ giúp của khoa học-kĩ thuật thì các ngành nghề 
truyền thống khó có điều kiện phát triển, đứng vững. 
2.4.3. Bổ sung điều kiện về bảo vệ môi trường làng nghề vào tiêu chí công nhận làng 
nghề: 
Chỉ đạo để các địa phương thực hiện thống nhất việc xây dựng đề án phát triển làng nghề 
lồng ghép trong đề án xây dựng nông thôn mới. Nhà nước hỗ trợ 100% vốn đầu tư đối với các 
chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý môi trường làng nghề. Tập trung hỗ 
trợ nâng cao năng lực phát triển các làng nghề trọng điểm thuộc thế mạnh của tỉnh; phát triển hạ 
tầng phục vụ cho làng nghề đi đôi với việc bảo vệ môi trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực 
phẩm. 
2.4.4. Các chính sách về tài chính cần đơn giản hơn để các hộ kinh doanh cá thể, các 
doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn được hưởng các ưu đãi 
đầu tư: 
 Triển khai các chương trình, dự án và nguồn vốn thực hiện: 
+ Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề; 
+ Chương trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển ngành nghề nông thôn; 
+ Chương trình ứng dụng, đổi mới khoa học công nghệ trong các lĩnh vực ngành nghề 
nông thôn; 
+ Chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm ngành 
nghề, làng nghề nông thôn; 
+ Chương trình phát triển kinh tế hợp tác, HTX, kinh tế tập thể trong lĩnh vực ngành nghề 
nông thôn. 
2.4.5. Hỗ trợ chi phí cho làng nghề xây dựng, xác lập quyền và phát triển chỉ dẫn địa 
lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận: 
Bên cạnh đó, cần tăng thu nhập, nâng cao ý thức và trang bị đồ phòng hộ lao động, hướng 
dẫn các cơ sở tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đầy đủ cho người lao động. Giải quyết 
HỘI THẢO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH - 2014 
[Type text] 
nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là ở các vùng nông thôn; 
góp phần phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công 
nghiệp và dịch vụ, góp phần xây dựng nông thôn mới. 
2.4.6. Nhà nước cần ban hành chính sách khuyến khích phát triển thành lập các 
doanh nghiệp ở nông thôn, làng nghề với quy mô lớn, sản xuất tập trung để làm đòn bẩy thúc 
đẩy ngành nghề nông thôn phát triển: 
Chính sách mới đặc biệt ưu đãi (hỗ trợ 80-100%) trong lĩnh vực xúc tiến thương mại đối 
với các cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn, làng nghề để tạo điều kiện cho các cơ sở này mở 
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. [19] 
2.4.7. Cần quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu chuyên canh để đảm bảo nguyên 
liệu đầu vào: 
Đồng thời, có giải pháp mô hình quản lý Nhà nước về làng nghề: Sở Nông nghiệp và 
Phát triển nông thôn thống nhất quản lý nhà nước về làng nghề theo Nghị định 66/2006/NĐ-CP 
ngày 07 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, Sở Công Thương 
quản lý chuyên ngành; hỗ trợ hình thành Ban quản lý các làng nghề. Phân bổ 01 cán bộ cho cấp 
xã chuyên phụ trách ngành nghề nông thôn, làng nghề để triển khai các quy định của pháp luật 
về ngành nghề nông thôn, làng nghề, bảo vệ môi trường làng nghề cũng như thực hiện công 
tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này. 
2.4.8. Công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho làng nghề, thành lập 
các hợp tác xã có quy mô gọn, nhẹ, năng động trong các làng nghề để làm đầu mối tổ chức 
quản lý làng nghề: 
 Tổ chức các chuyến giao lưu tham quan giữa các làng nghề để học tập kinh nghiệm 
trong và ngoài địa phương cũng là hoặt động cần được xem trọng. 
3. Làng nghề ở Việt Nam, các tỉnh ĐBSCL nói riêng, cần có được những thuận lợi 
cho sự duy trì và phát triển lâu dài: 
Tuy nhiên, tất cả không thể tiến lên sản xuất lớn và hội nhập kinh tế thị trường, nhất là thị 
trường thế giới, nếu không có giải pháp đồng bộ cho những vấn đề đòi hỏi cấp bách hiện nay 
như: nguồn vốn, cơ sở hạ tầng, kĩ thuật trang thiết bị, đào tạo tay nghề và tính hợp lí của nguyên 
liệu đầu vào cũng như thành phẩm đầu ra. Trên hết là những chủ trương, chính sách thiết thực 
của nhà nước trong việc hỗ trợ cho cơ sở sản xuất và người lao động ngành nghề truyền thống. 
Một điểm không kém phần quan trọng nữa là cần khắc phục điểm yếu của Việt Nam về chính trị, 
kinh tế và môi trường kinh doanh, đó là phải mạnh tay với “vấn đề tham nhũng” vì “tham nhũng 
vẫn là một vấn nạn của đất nước”. 
Tài liệu tham khảo 
1. Sở NN-PTNT, báo cáo kết quả 05 năm thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 
07/7/2006. 
2. Sở Công thương, báo cáo chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực sản sản xuất kinh doanh 
các làng nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre Giai đoạn (2013 – 2020). 
3. www.nguoinhaque.com 
4. www.dulichvn.org.vn. 
5. Xem thêm, nhiều tác giả, Nghề truyền thống tỉnh Vĩnh Long, Sở VV-TT và DL Vĩnh 
Long, 2009. 
6. www.dost-bentre.gov.vn. 
7. www.vietnam.vnanet.vn. 
8. Sở NN-PTNT. TG, báo cáo đã dẫn. 
HỘI THẢO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH - 2014 
[Type text] 
9. Sở Công thương. BT, báo cáo đã dẫn. 
10. www.vinhlong.mard.gov.vn 
11. www.dacsan-bente.mov.mn 
12. www.doanhnhansaigon.vn 
13. Thông tư số: 116/2006/TT-BNN của Bộ NN-PTNT ban hành 18/12/2006 Hướng dẫn 
thực hiện một số nội dung của nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của chính 
phủ về phát triển ngành nghề nông thôn 
14. Cơ sở chạm khắc gỗ của ông Lê Văn Hùng (Ba Nữ), xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo, 
tỉnh Tiền Giang. 
15. 17. Hợp tác xã bàng buông Thống Nhất, xã Thân Cửu Nghĩa, huyện Châu Thành, tỉnh 
Tiền Giang. 
16. Xem thêm Cẩm nang xây dựng thương hiệu điểm đến du lịch, phần 2, Hội đồng khoa học 
kỹ thuật - Tổng cục Du lịch, Bản tin Du lịch, Hà Nội, tháng 12/2010 (quý IV/2010). 
17. Du lịch sinh thái và bảo tồn môi trường ĐBSCL, Sở VV-TT và DL An Giang - Tiền 
Giang, 2009, tr. 48. 
18. Hiện tại đang áp dụng theo Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 03/11/2005 của Thủ 
tướng Chính phủ về Quy chế xây dựng thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại 
quốc gia giai đoạn 2006 – 2010 đã hết hiệu lực. 
19. Theo báo cáo của Business Monitor International về Du lịch Việt Nam (quý 2II/2010, dự 
báo đến 2014), Hội đồng khoa học kỹ thuật - Tổng cục Du lịch, Bản tin Du lịch, Hà Nội, 
năm 2010 (quý II/2010), tr. 9, 10, 11. 

File đính kèm:

  • pdflang_nghe_truyen_thong_dong_bang_song_cuu_long_trong_qua_tri.pdf