Lew Tolstoi và quan niện của ông về tôn giáo
Tóm tắt Lew Tolstoi và quan niện của ông về tôn giáo: ... học) của Tolstoi khẳng định ba giá trị cơ bản và tuyệt đối : 2. Lev Tolstoi. Tôn giáo là gì và bản chất của nó ở đâu, in trong sách Đ−ờng sống - Văn th−, nghị luận chọn lọc. (Phạm Vĩnh C− tuyển chọn, dịch giới thiệu và chú giải), Nxb. Tri thức, 2010, tr. 544. 3. Lev Tolstoi. Tôn giáo và...n thứ hai liên quan đến việc ông nhận ra một số tín điều mang tính phi lí trong Kinh Thánh. Giống nh− Martin Luther, ông đã mạnh dạn lên tiếng bác bỏ hai tín điều cơ bản của Kitô giáo: Tín điều về Chúa Ba Ngôi và tín điều về sự nhập thể của Thiên Chúa thành Jesus Christ. Theo ông, Jesu...ứ hai); không lo lắng về t−ơng lai, sống bằng giờ phút hiện tại, không thề nguyện, hứa tr−ớc với ai bất cứ điều gì (điều răn thứ ba); không dùng bạo lực, đừng lấy ác trả ác, chịu đựng sự xúc phạm và xâm hại, chia sẻ miếng cơm manh áo với ng−ời (điều răn thứ t−)”(16). Mối quan hệ giữa t...
n b−ớc h−ớng tới mục đích đ−ợc định tr−ớc cho nó”(6). Nh− vậy, có thể nói Tolstoi đã đ−a thần học (Theology) đến gần với Nhân Bản học (Anthropology), đ−a Th−ợng Đế đến gần với con ng−ời. Bàn về quan niệm tôn giáo của Tolstoi, Phạm Vĩnh C− trong bài Hành trình t− t−ởng của Tolstoi nhìn từ hôm nay đã nhận xét khá xác đáng rằng: “Có thể nói Thần học (nó cũng là Nhân học) của Tolstoi khẳng định ba giá trị cơ bản và tuyệt đối : 2. Lev Tolstoi. Tôn giáo là gì và bản chất của nó ở đâu, in trong sách Đ−ờng sống - Văn th−, nghị luận chọn lọc. (Phạm Vĩnh C− tuyển chọn, dịch giới thiệu và chú giải), Nxb. Tri thức, 2010, tr. 544. 3. Lev Tolstoi. Tôn giáo và đạo đức, Đ−ờng sống, tr. 402. 4. Lev Tolstoi. V−ơng quốc của Thiên Chúa ở trong ta, Đ−ờng sống, tr. 334 - 335. 5. Lev Tolstoi. Tôn giáo là gì và bản chất của nó ở đâu, Đ−ờng sống, tr. 535. 6. Lev Tolstoi. Tôn giáo là gì và bản chất của nó ở đâu, Đ−ờng sống, tr. 543 - 544. 14 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2013 14 Th−ợng Đế - Con ng−ời - Loài ng−ời đ−ợc sắp xếp theo hình tam giác, đỉnh là Th−ợng Đế, hai góc đồng đẳng là Con ng−ời và Loài ng−ời, còn các cấp trung gian giữa con ng−ời cá thể và loài ng−ời chỉ là những giá trị rất t−ơng đối mà con ng−ời không đ−ợc tuyệt đối hóa để không mất đi nhân cách và nhân phẩm của mình”(7). Về nguồn gốc hay cơ sở tồn tại của tôn giáo, nhà t− t−ởng Nga cũng có quan niệm không giống với các bậc tiền bối. Nếu các nhà khai sáng Pháp coi tôn giáo là sản phẩm sai lầm của nhận thức, Feurbach khẳng định tôn giáo là sản phẩm t− duy trừu t−ợng con ng−ời, các nhà kinh điển Mác - Lênin xem tôn giáo nh− là một hình thái ý thức xã hội phản ánh sự bất lực của con ng−ời tr−ớc những thế lực tự nhiên và xã hội, thì Tolstoi lại có quan điểm hoàn toàn khác. Kế thừa t− t−ởng của nhà triết học cổ điển ng−ời Đức - I. Kant, ông cho rằng, sự tồn tại của Th−ợng Đế là không thể chứng minh đ−ợc, nên cần có một niềm tin tuyệt đối vô điều kiện vào Đấng Tối cao. Khảo sát đời sống tinh thần con ng−ời, ông cho rằng, “có ba dạng nhân sinh quan: cá thể luận, vũ trụ luận và th−ợng đế luận. Theo nhân sinh quan thứ nhất, cuộc sống con ng−ời nằm toàn bộ trong cá thể của nó; mục đích sống của nó là thỏa mãn ý chí của cá thể ấy. Theo nhân sinh quan thứ hai, cuộc sống con ng−ời nằm không chỉ trong một cá thể của nó, mà trong hợp quần và trật tự của các cá thể: trong gia đình, gia tộc, quốc gia; mục đích sống là thỏa mãn ý chí của hợp quần cá thể ấy. Theo nhân sinh quan thứ ba, thì cuộc sống con ng−ời không nằm trong cá thể nó mà cũng không trong hợp quần và trật tự của các cá thể, mà trong bản nguyên và nguồn gốc của sự sống - trong Th−ợng Đế. Ba kiểu nhân sinh quan ấy làm cơ sở cho tất cả các tôn giáo đã và đang tồn tại”(8). ở đây chúng ta thấy, theo Tolstoi, nguồn gốc phát sinh và cơ sở tồn tại của tôn giáo không liên quan đến thế giới tự nhiên mà chủ yếu là thế giới nội tâm con ng−ời và đời sống nhân quần mà trọng tâm là việc con ng−ời có nhu cầu h−ớng tới một mục đích tối cao, một lí t−ởng sống tuân thủ nguyên tắc Chân - Thiện - Mĩ, tức là h−ớng tới Th−ợng Đế, vì Ngài là đại diện cho chân lí và sự hoàn thiện, hoàn mĩ. Tại sao đại văn hào - nhà t− t−ởng Nga lại nhìn nhận tôn giáo theo cách nhìn riêng, không giống ai nh− vậy? Trả lời đ−ợc câu hỏi này sẽ cho chúng ta đáp án giải mã tính mâu thuẫn trong t− t−ởng ông. Nếu nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống, chúng ta thấy, thời niên thiếu Tolstoi tin Kitô giáo với một niềm tin nh− bao tín đồ ngoan đạo khác. Nh−ng đến tuổi tr−ởng thành, khi đã có sự chín chắn trong suy nghĩ, ông nhận ra rằng, những tín điều tôn giáo đ−ợc các nhà truyền giáo răn dạy có cái gì đó cần phải nhận thức và thẩm định lại. Trong “Tự bạch” (Thú tội), ông thổ lộ cùng độc giả: “Tôi đ−ợc giáo dục theo đạo Kitô chính thống. Từ thơ ấu qua suốt thiếu niên, ng−ời ta dạy tôi tin theo đạo ấy. Nh−ng ở tuổi 18, sau khi bỏ học, không học hết năm thứ hai đại học, thì 7. Phạm Vĩnh C−. Hành trình t− t−ởng Tolstoi nhìn từ hôm nay, Đ−ờng sống, tr. xlv. 8. Lev Tolstoi. V−ơng quốc của Thiên Chúa ở trong ta, Đ−ờng sống, tr. 335. Lê Công Sự. Lev Tolstoi và quan niệm 15 15 tôi đã không còn tin vào bất cứ cái gì mà tôi đ−ợc dạy bảo”(9). Lí do nào đã khiến Tolstoi có một b−ớc ngoặt cơ bản về nhận thức trong vấn đề tôn giáo nh− vậy? Theo sát hành trình diễn tiến t− t−ởng Tolstoi, chúng ta thấy b−ớc ngoặt t− t−ởng này có liên quan mật thiết với ba sự kiện: Sự kiện thứ nhất liên quan đến việc Tolstoi nhận thức về sự khác biệt giữa tôn giáo và tín ng−ỡng. Theo Tolstoi, dù biểu hiện d−ới những dạng (form) khác nhau, nh−ng tôn giáo nói chung (religion) chỉ có một, còn tín ng−ỡng (belief) thì có nhiều dạng khác nhau, nói cách khác một loại hình biểu hiện khác nhau của tôn giáo (đạo Phật, đạo Islam..) chính là một dạng tín ng−ỡng. Và sự nhầm lẫn của các học giả, các nhà truyền giáo từ tr−ớc đến nay là ở chỗ đã đồng nhất tôn giáo với tín ng−ỡng. “Ngoài tri thức thuần lí mà tr−ớc đây tôi cho là duy nhất, - Tolstoi công nhận - tôi đ−ợc dẫn dắt một cách tất yếu đến sự thừa nhận rằng loài ng−ời đ−ơng sống còn có một tri thức khác, phi lí tính - đó là tín ng−ỡng, cái tín ng−ỡng cho ta khả năng sống chỉ trong tín ng−ỡng mới có thể tìm thấy ý nghĩa và khả năng cho sự sống... Tín ng−ỡng là sự hiểu biết ý nghĩa của cuộc sống con ng−ời, mà nhờ hiểu biết ấy con ng−ời sống chứ không tiêu diệt mình. Tín ng−ỡng là sức mạnh cuộc sống”(10). Theo quan niệm này thì sự tồn tại của tôn giáo gắn liền với không gian vật lí thờ tự thánh Thần nh− nhà thờ, nhà chùa, đền đài, miếu mạo... còn tín ng−ỡng thì không cần thiết, không cần biết đến những không gian vật lí đó, tín ng−ỡng chỉ tồn tại trong không gian tâm lí, tức trong tâm thức, trong thế giới nội tâm con ng−ời mà thôi. Sự kiện thứ hai liên quan đến việc ông nhận ra một số tín điều mang tính phi lí trong Kinh Thánh. Giống nh− Martin Luther, ông đã mạnh dạn lên tiếng bác bỏ hai tín điều cơ bản của Kitô giáo: Tín điều về Chúa Ba Ngôi và tín điều về sự nhập thể của Thiên Chúa thành Jesus Christ. Theo ông, Jesus Christ không phải là Thần (Thần Thánh) mà là Ng−ời (Thần Nhân), vì không thể có “một Thiên Chúa đã sinh ra tr−ớc mọi thời đại một Chúa Con, rồi từ Chúa Con ấy đã phát sinh ra tất cả. Chúa Con ấy đ−ợc phái xuống trần gian cứu rỗi loài ng−ời và ở đấy một lần nữa lại đ−ợc sinh ra từ một trinh nữ, rồi bị hành hình trên cây thập tự, rồi phục sinh, rồi bay lên Trời và ngồi trên ấy bên phải cha mình”(11). Ông khẳng định rằng, những tín điều t−ơng tự nh− vậy trong Kinh Thánh có nhiều và đa số là không tin đ−ợc theo quan điểm khoa học đ−ơng thời, và từ tr−ớc đến nay, giáo hội đã rao giảng các tín điều ấy nh− một phép thôi miên hay ám thị làm cho các tín đồ ngoan ngoãn nghe theo. Sự kiện thứ ba liên quan đến việc ông nhận rõ bản tính đích thực của Giáo hội Chính Thống giáo nói chung, Giáo hội Chính Thống giáo Nga đ−ơng thời nói riêng. Nghiên cứu lịch sử hình thành giáo hội, Tolstoi có cơ sở thực tiễn để khẳng định rằng, tín ng−ỡng ra đời 9. Lev Tolstoi. Tự bạch, Đ−ờng sống, tr. 63. 10. Lev Tolstoi. Tự bạch, Đ−ờng sống, tr. 99 - 100. 11. Lev Tolstoi. Về khoan dung tín ng−ỡng, Đ−ờng sống, tr. 550. 16 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2013 16 tr−ớc tôn giáo, còn giáo hội thì có lịch sử muộn hơn tôn giáo nhiều. Với t− cách là một tổ chức trung gian đ−ợc lập ra nhằm xác định, tuyên truyền các giáo lí và tổ chức hành lễ, giáo hội ban đầu làm rất tốt chức năng của mình, nh−ng dần dần tổ chức này bị tha hóa, phẩm chất và lối sống các giáo sĩ bị nhạt dần trong tâm thức cộng đồng. Với tính cách c−ơng trực của mình, ông lên án: “Học thuyết Kitô đã ấp ủ và sinh ra thế giới của chúng ta. Giáo hội - một trong những cơ quan của học thuyết Kitô - đã làm xong nhiệm vụ của mình và trở nên không cần thiết nữa, trở thành một cản trở lỗi thời Giáo hội đ−ợc hợp thành từ những ng−ời mang ảo t−ởng thống hợp loài ng−ời bằng cách dùng phù phép khẳng định mình ở trong chân lí - giáo hội ấy đã chết từ lâu”(12). Cái chết của giáo hội không phải do yếu tố bên ngoài từ phía dân chúng mà do căn bệnh phát sinh chính trong lòng nó quy định, bởi vì “hiện nay cũng nh− tr−ớc đây, sự thừa nhận và truyền tin công khai đạo Chính Thống đa phần đ−ợc thấy ở những con ng−ời đần độn, tàn bạo và vô đạo đức, nh−ng lại xem mình là những nhân vật rất quan trọng. Còn trí tuệ, sự trung thực, ngay thẳng, lòng tốt và đạo đức thì đa phần lại đ−ợc bắt gặp ở những ng−ời coi mình là vô đạo”(13). Nhìn nhận một cách cụ thể việc làm của giáo hội đ−ơng thời, Tolstoi thấy rằng “trên lời nói thì giáo hội công nhận học thuyết của Kitô nh−ng trong đời sống thì lại trực tiếp phủ định nó Tất cả các giáo hội - Công giáo, Chính Thống giáo, Tin Lành giáo - đều giống những ng−ời lính kh− kh− canh giữ một tù nhân mà không biết rằng ng−ời tù đã tẩu thoát từ lâu và đang đi lại giữa những ng−ời lính canh và thậm chí đánh nhau với họ... trong thời đại ngày nay cuộc sống của thế giới diễn tiến theo b−ớc đi của nó, hoàn toàn độc lập với học thuyết của giáo hội”(14). Lập luận này của Tolstoi không phải mang tính hàn lâm, lí thuyết mà thực ra ông dựa trên những bằng chứng sự thật lịch sử. Thực tế cho thấy, trong mọi thời đại, điển hình là thời trung cổ, giáo hội luôn là ng−ời biện hộ, bảo trợ hay bà đỡ cho nhà n−ớc, mà nhà n−ớc trong quan niệm của ông là tổ chức trung gian, can thiệp quá sâu rộng đến đời sống nhân dân, làm cho đời sống của họ trở nên mất tự do; hơn thế, khi giải quyết mọi vấn đề xung đột xã hội, nhà n−ớc th−ờng dùng bạo lực, làm cho vấn đề càng trở nên phức tạp, vì bạo lực này sẽ đ−ợc đáp trả bạo lực khác, cứ nh− vậy thì bạo lực trở thành một vòng tuần hoàn vô tận, chẳng bao giờ chấm dứt. Do vậy, chỉ có hòa bình mới có khả năng chấm dứt bạo lực. Từ những cơ sở lập luận nh− vậy, Tolstoi đi đến quan điểm xây dựng một thế giới quan tôn giáo mới, đó là một tôn giáo gắn liền với đạo đức. Ông cho rằng, “đạo đức không thể độc lập với tôn giáo bởi vì nó không chỉ là hệ quả của tôn giáo, tức là của cái quan hệ đ−ợc thừa nhận giữa con ng−ời và thế giới, mà còn đ−ợc hàm chứa ngay trong tôn giáo”. Do vậy, “mọi m−u toan xác lập đạo đức bên ngoài tôn giáo đều giống nh− điều mà 12. Lev Tolstoi. Tín ng−ỡng của tôi, Đ−ờng sống, tr. 138 - 140 - 155. 13. Lev Tolstoi. Tự bạch, Đ−ờng sống, tr. 64. 14. Lev Tolstoi. Tín ng−ỡng của tôi, Đ−ờng sống, tr. 131. Lê Công Sự. Lev Tolstoi và quan niệm 17 17 trẻ con làm, khi mà muốn trồng sang chỗ khác một loài cây mà chúng ta −a thích, chúng rứt nó khỏi bộ rễ mà chúng không thích và cho là không cần và cắm cây không gốc rễ ấy xuống đất”(15). Thật ra niềm tin Kitô giáo mới của Tolstoi không hề xa rời giáo lí cơ bản của Kitô giáo mà trái lại, niềm tin đó dựa trên “Bài giảng trên núi” (Sermon on the Mount) của Jesus Christ. Theo Tolstoi, “trong Bài giảng trên núi, Đức Jesus đã diễn đạt cả lí t−ởng vĩnh hằng mà sự h−ớng tới của nó là thuộc tính của con ng−ời, cả mức độ đạt lí t−ởng mà trong thời đại chúng ta, loài ng−ời có thể v−ơn tới”. Lí t−ởng đó là “yêu th−ơng tất cả mọi ng−ời, không xúc phạm ng−ời khác bằng lời nói (điều răn thứ nhất); thanh sạch trong đời sống hôn nhân, kiêng kị tà dâm (điều răn thứ hai); không lo lắng về t−ơng lai, sống bằng giờ phút hiện tại, không thề nguyện, hứa tr−ớc với ai bất cứ điều gì (điều răn thứ ba); không dùng bạo lực, đừng lấy ác trả ác, chịu đựng sự xúc phạm và xâm hại, chia sẻ miếng cơm manh áo với ng−ời (điều răn thứ t−)”(16). Mối quan hệ giữa tôn giáo và đạo đức thể hiện cụ thể trong sự khoan dung tín ng−ỡng - một trong những nét độc đáo của t− t−ởng tôn giáo Tolstoi. Nh− chúng ta thấy, lịch sử hình thành và phát triển của tôn giáo đi từ đa thần (Politheism) đến độc thần (Monotheism), lịch sử này phản ánh đời sống xã hội từ đời sống bộ tộc, bộ lạc (có nhiều thủ lĩnh) đến việc hình thành nhà n−ớc (có một đế chế đứng đầu quốc gia), và khi tín đồ đã theo một tôn giáo nào đó thì không đ−ợc tôn thờ th−ợng đế tôn giáo khác, giống nh− quan niệm của Nho giáo: “Trung thần bất sự nhị quân”. Nh−ng theo Tolstoi, trong lịch sử đã từng diễn ra những cuộc thánh chiến, điển hình là thời Trung cổ, trong đó giáo hội Kitô đã dùng bạo lực để c−ỡng bức những ng−ời ngoại đạo phải theo đạo của mình. Không chỉ có vậy, giáo hội đã từng trừng phạt các nhà khoa học nh− Copernic, Bruno, Galileo, v.v và ngay chính bản thân Tolstoi cũng bị giáo hội khép vào tội tà đạo; làm nh− vậy, giáo hội Thiên Chúa đã vô tình chạm phải lòng khoan dung tôn giáo. Do có lòng khoan dung tôn giáo, nên ông không chỉ tin đạo Kitô mà còn bàn luận và ca ngợi các tôn giáo khác - đây là một điều tối kị của tín đồ tôn giáo độc thần. Nói về t− t−ởng tôn giáo của Tolstoi, không thể bỏ qua việc ông lên tiếng phê phán khoa học (Science) Ph−ơng Tây đ−ơng thời. Theo Tolstoi, khoa học đ−ơng thời cũng mang tính áp đặt tri thức giống nh− tôn giáo đã từng áp đặt niềm tin cho dân chúng trong quá khứ, bởi vì “tất cả những gì đ−ợc gọi là khoa học chỉ là chân lí không thể hồ nghi”. Ông phê phán chủ nghĩa thực chứng (Positivism), cho rằng chủ nghĩa này chỉ công nhận những gì hiện hữu, trong lúc đó “mục đích của khoa học chân chính là nhận biết những chân lí cần thiết cho hạnh phúc loài ng−ời”(17). Do vậy, ông yêu cầu khoa học phải h−ớng tới cuộc sống đích thực: “Trong tất cả các khoa học mà con ng−ời có thể biết và cần biết chính yếu 15. Lev Tolstoi. Tôn giáo và đạo đức, Đ−ờng sống, tr. 404 - 412. 16. Lev Tolstoi. V−ơng quốc của Thiên Chúa ở trong ta, Đ−ờng sống, tr. 345 -346. 17. Lev Tolstoi. Lời nói đ? ghi âm, Đ−ờng sống, tr. 887. 18 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2013 18 nhất là khoa học về việc cần phải sống thế nào để làm thật ít điều ác và làm thật nhiều điều thiện” và lẽ dĩ nhiên “muốn trở thành khoa học và thật sự hữu ích, chứ không có hại cho nhân loại, nền khoa học của chúng ta phải từ bỏ ph−ơng pháp thực chứng” vì “đối t−ợng của khoa học là nghiên cứu xem nhân loại phải sống nh− thế nào”(18). Hơn thế, khoa học đ−ơng thời đã sáng tạo nên các vũ khí tối tân nh− súng đạn, bom mìn, chất độc hóa học... tiếp tay cho con ng−ời gây những tội ác mà không hề có cảm giác ghê sợ về việc làm của mình vì việc đó đã khuất mắt trông coi đối với những kẻ gây tội ác; ông lên án: “Nguyên nhân chính của sự tàn nhẫn khủng khiếp giữa ng−ời và ng−ời trong thời đại chúng ta, ngoài sự thiếu vắng tôn giáo, còn nằm ở tính phức tạp tinh vi của đời sống che khuất khỏi mắt con ng−ời hậu quả của những hành vi của họ”(19). Không chỉ có lòng khoan dung tôn giáo, Tolstoi còn kêu gọi mọi ng−ời sống theo chủ nghĩa khổ hạnh (Asceticism), ép xác tu thân, giảm thiểu đến tận cùng những ham muốn xác thịt và phải yêu lao động, sống bằng mồ hôi n−ớc mắt của mình chứ không ăn bám ng−ời khác, đúng nh− lời dạy của Thiên Chúa: “Hãy đổ mồ hôi trán để có đ−ợc miếng ăn, cho đến khi ng−ơi trở về với đất, bởi từ đất ng−ơi đ−ợc lấy ra”(20). Sống theo ph−ơng châm đó, ông đã từ bỏ mọi sở hữu tài sản và ruộng đất, tự cày lấy ruộng nhà mình. Nh− một nhà truyền giáo thực thụ, ở hầu hết mọi tác phẩm viết về đề tài tôn giáo, Tolstoi đã không mệt mỏi nhắc đi nhắc lại luận điểm có nội dung: “Mọi ng−ời đều b−ớc vào thế gian này theo ý chí của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã tạo ra con ng−ời nh− một sinh linh có thể sát hại linh hồn mình hoặc cứu sống nó. Nhiệm vụ của con ng−ời trong cuộc đời là cứu sống linh hồn mình; để cứu sống linh hồn mình, phải sống theo ý Chúa; để sống theo ý Chúa, cần phải chối từ mọi lạc thú cuộc sống, phải lao động, phải quy phục, phải kiên nhẫn chịu đựng và phải nhân từ”(21). Toàn bộ quan niệm về tôn giáo của Tolstoi cộng h−ởng, hội tụ lại tạo thành triết lí nhân sinh ngắn gọn, giản đơn nh−ng có ý nghĩa thực tiễn to lớn: Không dùng bạo lực chống lại cái ác (Non - resistance). Bởi theo ông, “mọi thứ bạo lực nh− chiến tranh, c−ớp bóc, hành hình đ−ợc làm không bởi những sức mạnh vô tri của tự nhiên, mà bởi những con ng−ời lầm lạc, không hiểu biết chân lí”(22). T− t−ởng không dùng bạo lực chống lại cái ác của Tolstoi ảnh h−ởng lớn đến phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân ấn Độ mà đứng đầu là Mahatma Gandhi và phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, dân quyền, chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Mỹ của Martin Luther King, Jr. Quan niệm về tôn giáo của Tolstoi nh− nêu trên đã ảnh h−ởng lớn đến đời sống chính trị xã hội đ−ơng thời, vì những lời chỉ trích, phỉ báng, thóa mạ 18. Lev Tolstoi. Lời tựa cho bài viết của Eduard Carpenter, “Khoa học ngày nay”, Đ−ờng sống, tr. 465. 19. Lev Tolstoi. Tôn giáo là gì và bản chất của nó ở đâu, Đ−ờng sống, tr. 519. 20. Sách Sáng thế III, tr. 19. 21. Lev Tolstoi. Tự bạch, Đ−ờng sống, tr. 112. 22. Lev Tolstoi. Tín ng−ỡng của tôi, Đ−ờng sống, tr. 154. Lê Công Sự. Lev Tolstoi và quan niệm 19 19 giáo hội mà Giáo hội Chính Thống giáo Nga (Russian Orthodox Church) đã quy cho ông tội tà giáo và quyết định rút phép thông công (Excommunicated the author), còn Nga hoàng Nicolai Alecxandre II thì cho mật vụ khám xét nhà ông; các bài viết của ông đều bị chính quyền Nga hoàng kiểm duyệt, cắt xén, không cho in, nên phần lớn phải chuyển bản thảo ra n−ớc ngoài in ấn. Tuy bị chính thể nhà n−ớc đ−ơng thời coi th−ờng, thậm chí còn khinh rẻ, nh−ng nhân loại đ−ơng thời đã không quay l−ng lại với ông; hai thập niên cuối đời, khắp nơi trên thế giới, rất nhiều ng−ời từ những bậc học giả, chính khách, văn nghệ sĩ cho đến ng−ời dân th−ờng hoặc đến thăm viếng ông, hoặc viết th− trao đổi ý kiến, chia sẻ tâm t− về nhân tình thế thái với ông, không hẹn mà gặp, điền trang Yasnaya Polyana trở thành một Jerusalem mới; còn hậu thế coi ông nh− một đại văn hào, một nhà cải cách tôn giáo lớn có thể sánh vai với các bậc hiền tài nhân loại nh− Home, Phật Thích Ca, Shakespeare, Martin Luther(23), Goethe. Không phải ngẫu nhiên mà Lênin đã không ngần ngại gọi ông “là tấm g−ơng phản chiếu cách mạng Nga”(24). Thời đại Tolstoi đã lùi xa vào dĩ vãng, nh−ng t− t−ởng của ông nói chung, quan niệm về tôn giáo của ông nói riêng vẫn còn nguyên giá trị, bao trùm nhân loại suốt hai thế kỉ nay, và vẫn là nh− thế khi loài ng−ời vẫn còn yêu chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh và bạo lực./. 23. Martin Luther hay Martinus Luther (1483 -1546) - nhà thần học ng−ời Đức, tu sĩ Dòng Augustine, nhà cải cách tôn giáo. Theo Luther, con ng−ời chỉ có thể đ−ợc cứu rỗi bởi sự ăn năn thật, và bởi đức tin tiếp nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, mà không cần vai trò trung gian của giáo hội. Sau khi từ chối thần phục thẩm quyền Hoàng đế Karl V của đế quốc La Mb Thần thánh và bị Giáo hội Công giáo Rôma dứt phép thông công, Luther bị đặt ngoài vòng pháp luật. Những bài Thánh ca do ông sáng tác làm thay đổi cung cách thờ phụng tại các nhà thờ. Cuộc hôn nhân của ông với Katherina von Bora năm 1525 đb khởi đầu thông lệ cho phép các chức sắc giáo hội cộng đồng Kháng Cách kết hôn. 24. Lênin đb viết 13 bài báo về Tolstoi, đánh giá cao t− t−ởng của Tolstoi và cho rằng đại văn hào, nhà t− t−ởng, ng−ời truyền giáo Tolstoi đb làm rạng danh n−ớc Nga tiền cách mạng (Xem: Lênin, Tuyển tập các tác phẩm, Nxb. Văn kiện Chính trị, Matxcơva, 1974). Còn A. Suvorin thì nhận xét: “ở Nga có hai Nga hoàng: Nicolai II và Tolstoi. Tolstoi đb làm lung lay ngai vàng của Nicolai, mà Nicolai thì lại không làm gì đ−ợc Tolstoi” (Xem Đ−ờng sống, tr. xii).
File đính kèm:
- lew_tolstoi_va_quan_nien_cua_ong_ve_ton_giao.pdf