Lịch sử Triết học

Tóm tắt Lịch sử Triết học: ...ử tạo thành các sự vật trong thế giới. Chân không (không gian trống rỗng) không có kích thước và hình dáng, nhưng vô tận và duy nhất; nó là điều kiện cần thiết cho sự vận động của nguyên tử. Trong chân không, nguyên tử vận động theo nhiều hướng, theo nhiều kiểu: lúc chúng cố kết tụ lại, lúc chún...i hướng vào việc khuyên con người làm theo các chuẩn mực của nhà nước Mặc dù các quan niệm về xã hội và nhà nước của Hốpxơ còn mang nặng tính tự nhiên, nhưng chúng đã thể hiện xu hướng tiến bộ của giai cấp tư sản trong quá trình đấu tranh chống lại thế quyền phong kiến của Nhà nước và thần quyền c...h thuần túy, phải biết kìm chế khát vọng cảm tính của mình, nghĩa là con người phải tuân theo mệnh lệnh đạo đức tuyệt đối: Hãy hành động tới mức tối đa sao cho điều đó trở thành quy luật phổ quát, nghĩa là, điều đó được đưa vào cơ sở luật pháp phổ biến. Mệnh lệnh này được thể hiện thành những 3 quy ...

doc101 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 210 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Lịch sử Triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào đó. Nếu sự xung đột đã xảy ra thì lý luận này là lý luận bị phủ chứng, còn nếu sự xung đột chưa xảy ra thì lý luận này là lý luận vị phủ chứng. Lý luận bị phủ chứng bị đào thải, lý luận vị phủ chứng tạm thời được giữ lại tạo thành nội dung của khoa học. Do cho rằng con người không bao giờ đạt tới chân lý, mọi tri thức đều không đầy đủ, mọi lý luận khoa học đều là những suy đoán giả thuyết khả phủ chứng, mà Pốppơ coi khoa học không truy tìm tính chân lý để xác chứng mà là truy tìm tính sai lầm để phủ chứng lý luận. Theo ông, lý luận được bác bỏ càng nhanh càng tốt, càng làm cho tính tinh xác và tính phổ quát của các trần thuật lý luận ngày càng cao. Còn ngược lại, lý luận hoàn toàn không xung đột với bất kỳ sự kiện nào là lý luận bất khả phủ chứng, nó thuộc về lĩnh vực siêu hình học, tôn giáo.
Như vậy, Pốppơ đã nâng khái niệm phủ chứng lên thành nguyên tắc phủ chứng mang tinh thần lý tính phê phán. Nguyên tắc này đòi hỏi: Một là, phải nêu ra tất cả các giả thuyết có thể có, và buộc chúng phải đối mặt với mọi sự phê phán nghiêm khắc để làm bộc lộ ra những sai lầm khiếm khuyết mà không được dựa vào bất cứ một kết luận quy nạp nào để làm tiền đề cho lý luận; Hai là, phải biết học tập từ trong sai lầm và dũng cảm phạm sai lầm; Ba là, phải dám phê phán và dám phủ định. Theo Pốppơ, khoa học là một sự nghiệp mang tính thể nghiệm nên sai lầm khó tránh khỏi. Muốn khoa học tiến lên chúng ta cần phải biết xử lý để loại bỏ sai lầm một cách nhanh chóng. Do khoa học phát triển trong quá trình cạnh tranh giữa các lý luận khả dĩ nên cần phải phê phán để tuyển lựa lý luận tối ưu, nhằm thúc đẩy sự phát triển khoa học. Khoa học phát triển khi lý luận cũ bị phủ định để tạo tiền đề cho sự ra đời lý luận mới. Nhà khoa học không phải chỉ biết phủ định lý luận của người khác mà phải dám và tìm mọi cách phủ định lý luận của chính mình. Từ đây, Pốppơ cho rằng, khoa học bắt đầu phát triển từ vấn đề khoa học. Nếu gọi: P1 –vấn đề khoa học, TT –các lý luận khoa học cạnh tranh nhau được đưa ra để giải quyết vấn đề, EE -các sự kiện kinh nghiệm phản bác các lý luận khoa học cạnh tranh nhau, P2 -vấn đề mới xuất hiện, thì tri thức khoa học sẽ tăng trưởng theo sơ đồ: P1 ® TT ® EE ® P2. 
Khi vạch ra sai lầm cơ bản của chủ nghĩa phủ chứng thô sơ Pốppơ là quá đề cao tính phủ chứng của kinh nghiệm, Lacatốt (Lakatos) đã khắc phục nó bằng chủ nghĩa phủ chứng tinh tế. Ông cho rằng, tính chất cơ bản của lý luận khoa học không phải là tính khả phủ chứng mà là tính mềm dẻo chịu đựng và tính phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, các lý luận khoa học hợp lại tạo thành tri thức bối cảnh của khoa học thống nhất. Khi sự thật kinh nghiệm và lý luận xung đột nhau thì rất khó xác định lý luận sai hay tri thức bối cảnh không đúng. Nếu biết điều chỉnh thích đáng tri thức bối cảnh thì lý luận khoa học có thể sống sót từ sự phản bác kinh nghiệm. Từ đây, ông kết luận: Sự thật kinh nghiệm không thể xác chứng hay phủ chứng một trần thuật lý luận nào. Theo ông, một lý luận T nào đó chỉ bị phủ chứng khi: Một là, xuất hiện lý luận T’ có nội dung kinh nghiệm phong phú hơn nó và cho phép dự kiến hay phát hiện nhiều sự thực mới hơn T; Hai là, T’ nói rõ sự thành công mà T đã đạt được trước đó; Ba là, toàn bộ nội dung chưa phản bác của T đều được bao hàm trong T’; Bốn là, có một số nội dung dư thừa của T’ so với T đã được xác chứng Khi xung đột với sự thật kinh nghiệm, lý luận không nhất thiết phải bị đào thải mà đòi hỏi phải điều chỉnh lại để cứu vãn nó. Muốn đánh giá đúng một lý luận nào đó cần phải đặt nó trong mối liên hệ với những lý luận khác hay với những giả thuyết phụ trợ của nó, phải đặt nó trong điều kiện, hoàn cảnh mà nó xuất hiện, nghĩa là phải có quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể. 
Như vậy, chủ nghĩa phủ chứng tinh tế coi sự tăng trưởng liên tục của tri thức khoa học là do sự sản sinh và cạnh tranh của các hệ lý luận khoa học chứ không phải do sự phản bác dẫn đường hay sự bất thường xảy ra trong khoa học; Coi mỗi kết quả thực nghiệm phải được lý giải trong mối liên hệ phức tạp giữa lý luận với lý luận hay giữa lý luận với kinh nghiệm; Coi mọi giả thuyết hay trần thuật lý luận đã được xác chứng trước đó có thể bị phủ chứng bởi một hệ lý luận hoàn chỉnh hơn chứ không phải bởi một sự thực kinh nghiệm đơn lẻ. Từ đây, Lacatốt cho rằng, tính khoa học chỉ là thuộc tính của một hệ nhiều lý luận liên kết chặt chẽ với nhau mà ông gọi là “Cương lĩnh nghiên cứu khoa học”. Cương lĩnh này được tạo thành từ bốn yếu tố là: hạt cứng, dây bảo hộ, quy tắc gợi ý phản diện và quy tắc gợi ý chính diện.
Hạt cứng là lý luận cơ bản không thay đổi và không cho phép phản bác của cương lĩnh nghiên cứu, còn nếu nó bị phản bác thì toàn bộ cương lĩnh nghiên cứu cũng bị phản bác Dây bảo hộ là tập hợp các giả thuyết phụ trợ được chủ động đưa ra và xếp thành một vành đai xoay quanh hạt cứng, nhằm điều chỉnh sự phản bác của kinh nghiệm hướng vào chính mình để bảo vệ hạt cứng... Quy tắc gợi ý phản diện là những gợi ý hướng sự phản bác vào dây bảo hộ và sửa chữa nó để bảo vệ hạt cứng, để biến những cái bất lợi thành có lợi Quy tắc gợi ý chính diện là những gợi ý hướng đến sự tinh giản, sửa chữa hay đề xuất các giả thuyết bổ trợ để cho cương lĩnh nghiên cứu ngày càng tiến bộ. 
Lacatốt cho rằng sự điều chỉnh dây bảo hộ sẽ làm cho cương lĩnh nghiên cứu thay đổi theo hướng tiến bộ -khi nội dung kinh nghiệm tăng lên và giải thích, dự đoán được nhiều sự thực kinh nghiệm hơn, hay theo hướng thoái bộ -các trường hợp còn lại. Trong giai đoạn tiến bộ, cương lĩnh nghiên cứu không bị lung lay hay lẩn tránh các sự kiện bất thường, bất lợi mà chủ động thu hút, đồng hóa để biến chúng thành cái bình thường, có lợi. Tuy nhiên, sau giai đoạn tiến bộ, cương lĩnh nghiên cứu sẽ chuyển sang giai đoạn thoái bộ, khi ấy, các sự kiện bất thường, bất lợi sẽ ngày càng tăng và thu hút sự chú ý của các nhà khoa học. Một cương lĩnh nghiên cứu thoái bộ T chỉ bị phủ chứng khi xuất hiện một cương lĩnh nghiên cứu mới T’ tiến bộ hơn.
Dựa trên chủ nghĩa phủ chứng tinh tế, Lacatốt xây dựng lại lịch sử khoa học và thuyết minh quá trình tăng trưởng tri thức khoa học một cách hợp lý. Ngoài ra, ông còn dùng lịch sử khoa học để đánh giá các phương pháp luận cạnh tranh nhau trong trào lưu triết học khoa học bấy giờ. Theo ông, lịch sử khoa học chỉ được xây dựng hợp lý khi biết kết hợp lịch sử bên trong với lịch sử bên ngoài (các yếu tố tâm lý, lịch sử - xã hội) của khoa học, đặc biệt là biết vận dụng lý tính tự do vô hạn để hóa dễ mọi khó khăn 
Như vậy, nếu chủ nghĩa phủ chứng thô sơ chỉ quan tâm đến khía cạnh lôgích, lý tính mà ít hay không chú trọng đến lịch sử, sự kiện hiện thực, thì chủ nghĩa phủ chứng tinh tế đã bàn đến vai trò của lịch sử hiện thực, nhưng lịch sử hiện thực lại bị che đậy kín đáo bởi lý tính tự do vô hạn. Điều này nói rằng, chủ nghĩa phủ chứng cố vượt ra khỏi chủ nghĩa lôgích, nhưng nó vẫn còn bị ràng buộc với lý tính lôgích, trong nó, chủ nghĩa lịch sử mới chỉ nhú mầm chứ chưa bám rễ vững chắc. 
Khi xuất phát từ thực trạng của khoa học và các yếu tố bên ngoài của khoa học như tín niệm tập thể của cộng đồng khoa học, Cun (Kuhn) đã làm cho chủ nghĩa lịch sử xuất hiện với một sức sống mãnh liệt. Ông cho rằng, trong sự nghiệp khoa học luôn tồn tại các khối cộng đồng khoa học độc lập nhau, bị chi phối bởi các kiểu mẫu mực khác nhau. Khối cộng đồng khoa học là một tập hợp các con người cùng làm công tác khoa học, có sự tiếp thụ văn hóa cơ bản giống nhau, có sự giao lưu nội bộ tương đối đầy đủ, có sự nhất trí về quan niệm chuyên môn, có những bài học kinh nghiệm và phong thái tư duy gần nhau... Những khối cộng đồng khoa học khác nhau luôn chú ý đến những vấn đề khoa học khác nhau, hay cùng chú ý đến một vấn đề nhưng theo những cách khác nhau. Vì vậy, giữa các khối cộng đồng khoa học khác nhau khó có sự trao đổi chuyên môn, còn nếu có sự trao đổi chuyên môn thì rất dễ dẫn đến hiểu lầm. Tồn tại nhiều cấp, nhiều khối cộng đồng khoa học khác nhau có kiểu mẫu mực không giống nhau. Kiểu mẫu mực là một khái niệm được Cun dùng để chỉ những tín niệm chung về quan điểm, lý luận, phương pháp cơ bản của một cộng đồng khoa học nào đó. Tín niệm chung của một khối cộng đồng khoa học cho phép thiết lập một loạt vấn đề chung, đưa ra một kiểu mô hình hay phương thức giải quyết tổng quát cho các vấn đề đó. Nó đòi hỏi sự hiện hữu của những điều kiện, phương tiện, phạm vi đối tượng nghiên cứu, phương hướng và triển vọng phát triển chung. Do kiểu mẫu mực trong mỗi cộng đồng khoa học rất bền vững nên một sự thật đơn lẻ không đủ để xác chứng hay phủ chứng nó, mà chỉ có cách mạng khoa học mới làm thay đổi kiểu mẫu mực này bằng kiểu mẫu mực khác. Về mặt nội dung, các kiểu mẫu mực hoàn toàn khác nhau, do đó chúng không thể so sánh được. 
Cun không chỉ liên kết kiểu mẫu mực với cộng đồng khoa học mà còn cố gắng kết hợp lịch sử bên trong với lịch sử bên ngoài của khoa học, cố gắng kết hợp lịch sử khoa học với xã hội học và tâm lý học khoa học nhằm vạch ra và khảo sát các yếu tố chi phối sự phát triển khoa học. Do tình hình phát triển khoa học vào thập niên 50 thế kỷ XX đòi hỏi phải tổng hợp tri thức khoa học chuyên ngành, đòi hỏi phải làm rõ tính chỉnh thể thống nhất, tính tổng hợp của khoa học hiện đại, và do hoạt động của nhà khoa học luôn chịu sự chi phối bởi một kiểu quan điểm, một loại nguyên tắc, một kiểu khuôn mẫu nào đó nhất định mà định hướng nghiên cứu đúng đắn này của Cun đã được giới khoa học phương Tây nhiệt thành hưởng ứng.
Cun coi khoa học là kết quả hoạt động của các khối cộng đồng khác nhau, có sử dụng các kiểu mẫu mực không giống nhau nhưng luôn thay đổi để hoàn thiện chính mình; Coi lịch sử khoa học không chỉ là lịch sử trừu tượng của tư tưởng mà còn là lịch sử của khối cộng đồng khoa học, luôn bị chi phối bởi các quy luật nội tại và những áp lực lớn từ bên ngoài khoa học như các tư tưởng triết học, các yếu tố lịch sử – xã hội, các yếu tố tâm lý cá nhân... Khi khái quát nhận định này ông đưa ra lý luận “Động thái phát triển khoa học”, trong đó khẳng định mỗi chu trình phát triển của khoa học phải trải qua bốn thời kỳ là: tiền khoa học, khoa học bình thường, khủng hoảng khoa học và cách mạng khoa học. 
Tiền khoa học là thời kỳ hình thành dần các quan điểm, lý luận, phương pháp cơ bản thống nhất đưa đến sự ra đời kiểu mẫu mực Khoa học bình thường là thời kỳ cả khối cộng đồng khoa học công nhận và kiên định sử dụng kiểu mẫu mực để tập trung tinh lực vào giải quyết các vấn đề nảy sinh trong nghiên cứu mà không cần kiểm tra, phê phán hay thay đổi nó. Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu phức tạp bị gò ép theo một kiểu mẫu mực đơn điệu, nên những sự kiện bất thường xuất hiện. Để biến sự kiện bất thường thành bình thường cần phải nhanh chóng điều chỉnh lý luận và phương pháp, mà kết quả là lý luận phong phú thêm, phương pháp hiệu quả hơn và tri thức tinh xác thêm... Khủng hoảng khoa học là thời kỳ mà sự kiện bất thường xuất hiện ngày càng nhiều và càng gay gắt, còn sự điều chỉnh bổ sung lý luận và phương pháp không còn tác dụng nữa. Lúc này, lý luận trở nên mơ hồ, phương pháp trở nên kém hiệu quả, khoa học mất phương hướng, kiểu mẫu mực hiện hành bị nghi ngờ. Những quan điểm, lý luận, phương pháp mới cạnh tranh nhau làm cho kiểu mẫu mực này đứng trên bờ vực sụp đổ. Một số thành viên của khối cộng đồng tiếp tục cố giữ kiểu mẫu mực cũ và cự tuyệt kiểu mẫu mực mới. Một số thành viên khác chủ trương từ bỏ kiểu mẫu mực cũ và ra sức xây dựng kiểu mẫu mực mới. Khối cộng đồng khoa học bị phân hóa, chia rẽ và tan rã khi hai xu hướng này xung đột mạnh mẽ. Đây là thời kỳ tinh thần phê phán sáng tạo dâng cao nhất Cách mạng khoa học là thời kỳ phá bỏ kiểu mẫu mực cũ, xây dựng kiểu mẫu mực mới đầy sức sống, và cơ cấu lại khối cộng đồng khoa học. Nhờ vậy mà các sự kiện bất thường nhất cũng biến thành bình thường. Trong cách mạng khoa học, lực lượng tiến bộ chủ yếu là các nhà khoa học trẻ, ít chịu ảnh hưởng bởi kiểu mẫu mực cũ, có niềm tin vào nó không sâu, nên dễ hoài nghi và nhanh chóng từ bỏ nó. Còn lực lượng bảo thủ là các nhà khoa học thuộc thế hệ già, được rèn luyện lâu dài và chịu ảnh hưởng sâu bởi kiểu mẫu mực cũ, nên họ khó từ bỏ nó để chấp nhận kiểu mẫu mực mới. Nhiều kiểu mẫu mực mới cạnh tranh nhau mãnh liệt. Để một kiểu mẫu mực nào đó có cơ may được khối cộng đồng khoa học thừa nhận thì nó phải hội đủ những tiêu chuẩn khách quan và có được những nhân tố chủ quan như tính tinh xác, tính hiệu quả, tính đơn giản, tính bao quát... Ngoài ra, kinh nghiệm lịch sử, cá tính cá nhân của nhà khoa học cũng góp phần không nhỏ vào sự chọn lựa này. Khi kiểu mẫu mực mới được khẳng định, tín niệm mới được hình thành, củng cố và mở rộng trong khối cộng đồng khoa học thì cuộc cách mạng khoa học chấm dứt. Một thời kỳ khoa học bình thường mới được xác lập. 
Do kiểu mẫu mực không phản ánh tính quy luật của thế giới khách quan, mà chỉ là một tín niệm tâm lý chung của một khối cộng đồng khoa học được hình thành dưới những điều kiện lịch sử khác nhau, nên sản phẩm do nó mang lại cũng chỉ là cái ước định mang tính tâm lý chủ quan, chứ không phải là tri thức mang tính chân lý khách quan. Sự thay đổi của kiểu mẫu mực không làm sâu sắc thêm nhận thức khoa học mà chỉ là một sự biến đổi tâm lý. Thế giới trong tâm khảm của các nhà khoa học thuộc các khối cộng đồng khác nhau là không như nhau. Từ đây, ông kết luận, thế giới mà các nhà khoa học nhận thức không phải là thế giới tồn tại khách quan bên ngoài mà là thế giới ước định tồn tại chủ quan bên trong đời sống tâm lý của một cá nhân hay một cộng đồng các nhà khoa học. Dựa trên quan niệm này, Cun coi chân lý chỉ là phương tiện chủ quan được dùng để loại bỏ những vấn đề nan giải trong nghiên cứu khoa học. Đối với ông, nói về chân lý khách quan là một việc làm ấu trĩ, khẳng định sự phát triển khoa học sẽ tiếp cận chân lý là hồ đồ. Do kiểu mẫu mực của Cun không khác gì kiểu niềm tin thần thoại hay tín ngưỡng tôn giáo nên trong triết học của ông, giữa khoa học và thần thoại - tôn giáo khó tìm thấy một sự phân biệt rõ ràng. 
Sự phủ nhận tính kế thừa của các kiểu mẫu mực đã buộc Cun phải coi khoa học tiến triển không theo hướng tiến bộ mà là theo hướng tuỳ cơ mà diễn biến. Còn nếu buộc phải thừa nhận có sự tiến bộ trong tiến trình phát triển khoa học thì ông hiểu tiến bộ theo tinh thần của thuyết tiến hóa sinh học, nghĩa là lý luận tiến bộ hơn là lý luận đối phó tốt hơn với sự thay đổi của hoàn cảnh, hay giải quyết các vấn đề nan giải hiệu quả hơn.
Tóm lại, sai lầm cơ bản của chủ nghĩa lịch sử Cun là coi kiểu mẫu mực chỉ là một loại tín niệm tâm lý chung của khối cộng đồng khoa học. Điều này đã phủ nhận tính chân lý của lý luận khoa học, phủ nhận tính tiến bộ của nhận thức khoa học. Dù chủ nghĩa lịch sử đã đưa Cun đến thuyết bất khả tri, chủ nghĩa quy ước, chủ nghĩa tương đối, nhưng các lý luận về cách mạng khoa học, về vai trò của yếu tố lịch sử - tâm lý - xã hội tác động đến việc xác lập kiểu mẫu mực (hay lý luận khoa học), về vai trò của kiểu mẫu mực quy định quan điểm - lý luận - phương pháp cơ bản của một khối cộng đồng khoa học, về sự cạnh tranh giữa các kiểu mẫu mực trong quá trình phát triển khoa học luôn là những giá trị to lớn của triết học Cun. Ông xứng đáng là người khởi xướng chủ nghĩa lịch sử và làm cho nó tuôn ra mạnh mẽ trong trào lưu triết học khoa học. Chủ nghĩa lịch sử được Phâyeraban (Feyerabend) tiếp tục phát triển trong “Phương pháp luận đa nguyên”.
Khi đề cao phương pháp lựa chọn, ông cho rằng: Nhà khoa học năng động sáng tạo là người biết sử dụng phương pháp này để thu hút, kết hợp các kiến giải khác với kiến giải của mình, biết so sánh tư tưởng của mình với tư tưởng của người mà không nhất thiết phải đối chiếu với kinh nghiệm; Mỗi cá nhân đều có thể và cần phải đóng góp càng nhiều, càng tốt vào sự nghiệp văn hóa chung của nhân loại; Mỗi ý tưởng, mỗi lý luận đều góp phần tạo nên đời sống tinh thần mênh mông của con người mà giá trị của chúng là tính hiệu quả, là sự gia tăng không ngừng số lượng lý luận và nội dung kinh nghiệm của mình; Sự thực kinh nghiệm không thể xác chứng hay phủ chứng một lý luận nào cả 
Với phương pháp khôi phục lại lịch sử, ông coi lịch sử khoa học tiến lên phía trước nhưng cũng lùi về phía sau, bởi vì một lý luận khoa học vững chắc nhất phải là lý luận có bề dầy lịch sử và thấm sâu vào lịch sử. Khi coi sự phát triển tiến lên của khoa học đòi hỏi chúng ta phải quay trở về thời kỳ đầu của nó với những lý luận mơ hồ có nội dung kinh nghiệm ít ỏi, ông yêu cầu phải chỉ rõ bằng cách nào mà những thần thoại hoang đường hôm qua lại biến thành những lý luận khoa học vững chắc hôm nay, và những tri thức khoa học vững chắc hôm nay sẽ biến thành thần thoại buồn cười của ngày mai. Với quan điểm này, ông kêu gọi con người phải giữ lấy mọi ý tưởng, quan niệm, lý luận đã được phát hiện ra để cân nhắc, bổ sung, hoàn chỉnh lý luận, quan điểm, ý tưởng mới của mình, mà không có cái gì phải vứt vào sọt rác của lịch sử cả.
Với phương pháp phi lý tính, ông coi lý tưởng thời đại, điều kiện xã hội, tâm lý quần chúng, lợi ích giai - tầng, sự nhạy bén của cá tính cá nhân, bối cảnh tri thức và sự tuyên truyền của khoa học... là những yếu tố phi lý tính thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học. Theo ông, nếu không có sự hỗn độn thì sẽ không có tri thức, nếu không có sự mất đi thường xuyên của lý tính cùng sự tác động của phi lý tính thì cũng sẽ không có sự tiến bộ trong khoa học. Vì vậy, cần phải hạn chế, thậm chí xóa bỏ lý tính để tạo điều kiện cho các yếu tố phi lý tính trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy khoa học tiến bộ. Khoa học và các hình thức phi khoa học như thần thoại, tôn giáo, siêu hình học không cô lập mà là thẩm thấu vào nhau, cùng thúc đẩy nhau phát triển. 
Bằng nguyên tắc “thế nào cũng được”, ông chủ trương tạo ra một bầu không khí thật dân chủ tự do để khai thác triệt để tính năng động sáng tạo của giới khoa học làm cho lý luận không ngừng tăng trưởng, để mỗi nhà khoa học được phép lựa chọn lý luận tối ưu nhất mà không bị cưỡng bức tiếp thu một lý luận, một phương pháp hay một quy tắc nào cả. Dựa trên nguyên tắc này, ông phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm giáo điều, chủ nghĩa lý tính hẹp hòi, đồng thời chủ trương coi trọng các yếu tố phi lý tính, phi truyền thống. Tại đây, ông đã đưa chủ nghĩa lịch sử đến với chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cơ hội. 
“Phương pháp luận đa nguyên” là định hướng để ông xây dựng lý luận về khoa học tự do trong một xã hội tự do. Theo ông, trong xã hội tự do, không có một tiêu chuẩn tuyệt đối nào để phân giới khoa học và các hình thái ý thức phi khoa học, mà chúng đan xen thâm nhập vào nhau, vì vậy, không nên dành cho khoa học một quyền uy trước các hình thái ý thức khác. Hơn nữa, mục tiêu của khoa học cũng không phải là mục tiêu quan trọng nhất, và khoa học không chi phối mọi sinh hoạt của con người, mà mỗi con người đều có một điều kiện để sống, một niềm tin để theo đuổi, một cơ hội để sáng tạo. Trong xã hội hiện đại, sở dĩ khoa học nổi bật hơn so với các hình thái ý thức khác là do khoa học khéo léo và biết kết hợp chặt chẽ với nhà nước để can thiệp mạnh mẽ vào mọi hoạt động khác của con người. Tình hình này đã tạo ra chủ nghĩa sôvanh khoa học, coi khoa học là thiêng liêng bất khả bài xích, nhưng bản thân khoa học lại được phép bài xích, xâm phạm các hình thái ý thức khác. Từ đây, ông khẳng định chủ nghĩa sôvanh khoa học không củng cố sức mạnh và ưu thế cho khoa học mà là trói buộc tính sáng tạo và tự do lựa chọn của nó. Và khi nào khoa học còn có quá nhiều quy tắc, chuẩn mực cứng nhắc thì khi đó tính thích ứng của nó với hoàn cảnh lịch sử càng ít, tính giáo điều của nó càng nhiều, khi đó nó đang tự giết chết chính mình, vì vậy, cần phải phấn đấu xây dựng khoa học tự do trong một xã hội tự do.
ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Chủ biên: TS Bùi Văn Mưa - TS Nguyễn Ngọc Thu
Chịu trách nhiệm xuất bản:
TRẦN ĐÌNH VIỆT
Biên tập	:
Sửa bản in	:
Trình bày	:
Bìa	:
NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
62 Nguyễn Thị Minh Khai – Quận 1
Điện thoại : 8225340 – 8296764 – 8220405 – 8296713 – 8223637
Fax : 84.8.8222726 l Email : nxbtphcm@bdvn.vnd.net
In 2000 cuốn, Khổ 14,5 x 20,5 cm, tại Công ty In 
GP số: 834–10/XB-QLXB ngày 31-7- 2003
In xong và nộp lưu chiểu tháng 10 năm 2003

File đính kèm:

  • doclich_su_triet_hoc.doc