Lợi ích của mô hình dạy học 2 buổi/ ngày ở bậc tiểu học tại tỉnh Tiền Giang đối với học sinh và giáo viên
Tóm tắt Lợi ích của mô hình dạy học 2 buổi/ ngày ở bậc tiểu học tại tỉnh Tiền Giang đối với học sinh và giáo viên: ... trợ lẫn nhau tìm ra các phương án giải quyết vấn đề và quan trọng hơn cả là rèn luyện cho HS kĩ năng hoạt động tập thể và khẳng định bản thân. Bên cạnh đó, việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày là tăng cường thời gian học tập của HS phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi và đặc điểm nhậ...học tốt hơn nếu trường áp dụng dạy học 2 buổi/ngày là điều mà CBQL đồng ý cao nhất (91,3%), kế đến là PH (74,9%) và thấp hơn nhất là GV (67,1%). Tuy nhiên, vẫn có 20% GV và PH không rõ về lợi ích này. Bên cạnh kết quả khảo sát, kết quả phỏng vấn CBQL và GV cho biết buổi thứ hai HS đư...lí do không có thời gian chăm sóc gia đình, không có thời gian để làm thêm, dạy thêm, thu nhập thấp trong khi phải đi 4 buổi/ngày (lượt đi và về). Tiếp theo, xét về khía cạnh dạy 2 buổi/ngày mang lại ích lợi cho GV, kết quả khảo sát đưa ra những con số khá nổi bật. Trước tiên, chỉ có 8...
tăng cường trong chương trình học này dao động trong khoảng từ 9 tiết đến 12 tiết trong các khối học, trừ khối lớp 5 là không có tăng cường. Riêng khối lớp 3 và lớp 4 có sự khác biệt hơn hai khối lớp 1 và 2 ở chỗ là có số tiết tăng cường (2 - 3 tiết) ở môn Tin học và các hoạt động giáo dục. Tuy nhiên, số lượng tiết tăng cường cho các hoạt động giáo dục lại giảm 2, 3 tiết ở khối lớp 1 và khối lớp 2 so với khối lớp 3 và lớp 4. Trên cơ sở sắp xếp chương trình và thời khóa biểu như trên, những yếu tố liên quan đến việc thực hiện dạy 2 buổi/ngày đòi hỏi các trường phải xem xét một cách kĩ lưỡng. Phần tiếp theo sẽ đi sâu vào phân tích tác động này đối với GV và HS. 3.2. Phân tích lợi ích của mô hình 2 buổi/ngày đối với học sinh Kết quả đánh giá mức độ đồng ý của các đối tượng CBQL, GV, PH về lợi ích của việc thực hiện mô hình 2 buổi/ngày đối với HS được thể hiện trong bảng 2 dưới đây: Bảng 2. Ý kiến của các đối tượng khảo sát về lợi ích của mô hình 2 buổi/ngày Ý kiến Đối tượng Rất đồng ý Đồng ý Không rõ Không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý 1) Học sinh sẽ học tốt hơn nếu trường áp dụng dạy học 2 buổi/ngày CBQL PH GV 43,5 35,0 11,8 47,8 39,9 55,3 8,7 9,9 12,5 0 12,8 16,7 0 2,3 3,6 2) Học sinh được rèn luyện kĩ năng và thái độ tốt hơn khi trường tổ chức dạy 2 buổi/ngày CBQL PH GV 3,4 32,8 12,8 60,9 43,9 58,8 8,7 11,2 11,1 0 10,2 15,4 0 2,0 1,9 3) Học sinh được dạy kiến thức tốt hơn khi trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày CBQL PH GV 39,1 31,7 14,3 52,2 43,8 57,6 8,7 11,5 10,2 0 9,7 14,9 0 1,6 1,7 4) Dạy học 2 buổi/ngày hạn chế tình trạng dạy thêm học thêm CBQL PH GV 30,4 26,6 11,5 52,2 41,7 56,2 17,4 15,0 10,9 0 13,7 16,4 0 3,1 5,0 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 3(68) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ 60 Cả ba đối tượng được khảo sát bao gồm CBQL, GV, PH có một sự nhất trí khá cao với tỉ lệ trên 60% đồng ý những lợi ích của việc thực hiện 2 buổi/ngày. Vấn đề quan trọng được đưa ra trong quá trình tìm hiểu thực trạng của mô hình dạy học 2 buổi/ngày là kết quả học tập, kết quả rèn luyện kĩ năng và thái độ của HS trước và sau khi thực hiện mô hình. HS sẽ học tốt hơn nếu trường áp dụng dạy học 2 buổi/ngày là điều mà CBQL đồng ý cao nhất (91,3%), kế đến là PH (74,9%) và thấp hơn nhất là GV (67,1%). Tuy nhiên, vẫn có 20% GV và PH không rõ về lợi ích này. Bên cạnh kết quả khảo sát, kết quả phỏng vấn CBQL và GV cho biết buổi thứ hai HS được ôn luyện các kiến thức cơ bản, rèn các kĩ năng, học thêm các môn năng khiếu, tiếng Anh, qua đó có thời gian và điều kiện phát triển tư duy nhiều hơn. Ngoài ra, khi tìm hiểu về sự phù hợp của đặc điểm tâm lí HS đối với mô hình dạy học 2 buổi/ngày, đa số các đối tượng được phỏng vấn đều cho rằng mô hình dạy học này phù hợp với đặc điểm tâm lí của các em. Các CBQL cho rằng việc dạy học một buổi/ngày (các em phải học 5 tiết trong một buổi) là quá tải so với khả năng tiếp thu của HS TH. Theo các GV, HS lứa tuổi này thích được đến trường, vì có nhiều bạn để chơi và học. Do đó, việc học 2 buổi/ngày giúp các em được vừa học vừa vui chơi, củng cố, khắc sâu kiến thức, phát triển năng lực và được rèn các kĩ năng. Tuy nhiên, một số GV lại băn khoăn về vấn đề giờ giấc tổ chức dạy học 2 buổi như hiện nay (HS thường ngủ trong lớp vào những tiết học đầu giờ chiều, tiếp thu bài không bằng buổi sáng). Nhiều GV cũng bày tỏ quan điểm chưa thể đánh giá chất lượng HS của mô hình này so với mô hình truyền thống (dạy học một buổi/ngày) vì cho đến nay vẫn chưa có được Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng HS học 2 buổi/ngày so với học một buổi/ngày. Hiện tại, GV mới chỉ dựa vào điểm số để đánh giá thành tích của HS, song cách này chưa thể đánh giá được chất lượng học tập của HS một cách toàn diện. Từ đó, có thể thấy việc xác định kết quả học tập của HS cũng cần được đánh giá, so sánh, đối chiếu để tìm ra giải pháp hợp lí khi thực hiện mô hình 2 buổi/ngày. Đối với ý kiến “HS được dạy kiến thức tốt hơn khi trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày” có tỉ lệ đồng ý của CBQL cao nhất (91,3%), tiếp theo là PH (75,5%) và sau cùng là GV (71,9%). Tương tự với mức đồng ý này, dạy học 2 buổi/ngày hạn chế tình trạng dạy thêm học thêm cũng được CBQL, PH, GV đồng ý với tỉ lệ khá cao (trên 65%). Về phía PH, các số liệu cho thấy đa số PH ủng hộ nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. Ngoài ra, kết quả phỏng vấn PH về những lợi ích của mô hình dạy học 2 buổi/ngày cũng phản ánh: - Chất lượng học tập của HS được cải thiện đáng kể do HS được dạy nhiều hơn; - Nhu cầu học bán trú của HS trong gia đình có PH những người làm việc ở các nhà máy, xí nghiệp, hay buôn bán, ngành dịch vụ ngày càng lớn; - Các hoạt động vui chơi, giải trí thiếu lành mạnh đã và đang gia tăng trong khi PH không đủ thời gian, điều TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Kim Dung và tgk _____________________________________________________________________________________________________________ 61 kiện kèm cặp con; - Chương trình học ngày nay đã thay đổi nên các PH không thể chỉ dạy con như trước đây; - HS thích đến trường hơn ở nhà vì được học và được chơi. Môi trường học đường an toàn hơn, tốt cho việc giáo dục HS. Kết quả phỏng vấn cũng cho thấy một bộ phận PH, GV cho rằng tuy việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày rất tốt song do vấn đề thời khóa biểu, thời gian nghỉ 2 buổi quá nhiều nên họ đã phải mất nhiều thời gian cho việc di chuyển để đưa rước con em mình, đặc biệt là những trường vùng sâu, vùng ven có giao thông khó khăn (đi đò, thuyền...). Tuy nhiên, vẫn còn một số ý kiến khác cho rằng họ có thể đưa đón trẻ đến trường ngày nhiều lượt vì việc học tập của trẻ là quan trọng và họ sẵn sàng hi sinh vì tương lai con, cháu mình. Thật vậy, những vấn đề trên sẽ được giải quyết ổn thỏa và nhận được sự hưởng ứng của PH nhiều hơn nữa khi nhà trường có sự sắp xếp thời khóa biểu và lấy ý kiến PH cũng như căn cứ điều kiện đi lại tại địa phương. 3.3. Phân tích các lợi ích của mô hình 2 buổi/ngày đối với giáo viên Có 5 yếu tố quan trọng liên quan đến GV khi thực hiện khảo sát được thể hiện ở bảng 3 dưới đây: Bảng 3. Ý kiến của các đối tượng khảo sát liên quan đến GV trong mô hình dạy học 2 buổi/ngày Ý kiến Đối tượng Rất đồng ý Đồng ý Không rõ Không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý 1) Năng lực đội ngũ giáo viên hiện nay của trường phù hợp với việc dạy học 2 buổi/ngày CBQL GV 0 11,9 82,6 68,3 13,0 9,9 4,3 7,6 0 1,0 2) Giáo viên của trường thích dạy học 2 buổi/ngày CBQL GV 4,3 9,5 52,2 50,1 43,5 5,7 0 24,6 0 8,7 3) Dạy học như truyền thống (ngày một buổi) phù hợp đối với giáo viên hơn là dạy 2 buổi/ngày CBQL PH GV 0 11,3 8,7 8,7 24,6 33,2 17,4 31,2 14,5 69,6 28,8 39,6 4,3 4,1 4,0 4) Giáo viên có thời gian tập trung vào phát triển chuyên môn hơn khi dạy như truyền thống CBQL GV 0 11,5 13,0 41,7 26,1 11,6 52,2 31,8 8,7 2,3 5) Giáo viên được hưởng chế độ tốt hơn khi dạy học 2 buổi/ngày CBQL GV 13,0 9,4 43,5 33,4 39,1 17,9 29,8 4,3 9,6 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 3(68) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ 62 Khi đề cập vấn đề năng lực đội ngũ GV hiện nay của trường có phù hợp với việc dạy học 2 buổi/ngày hay không, thì có 81,2% GV và 82,6% CBQL đồng ý điều này. Năng lực GV là một trong những yếu tố góp phần mang lại chất lượng giảng dạy cao. Vì vậy, tỉ lệ đồng ý cao trên đây của CBQL và chính bản thân GV mang ý nghĩa hết sức tích cực. Tuy nhiên, khi xem xét hồ sơ GV, kết quả cho thấy hiện nay, đa số GV các trường đều đạt chuẩn (9+3 cho vùng khó khăn và 12+3 cho vùng thuận lợi) và trên chuẩn nhưng tỉ lệ có sự khác nhau giữa các trường và huyện. Do đó, để đáp ứng cho mục tiêu của việc dạy học 2 buổi/ngày thì chuẩn trên đã không còn phù hợp. Kết quả khảo sát hồ sơ cũng cho thấy nhiều trường chưa đảm bảo đủ số lượng GV cho việc thực hiện mô hình dạy học 2 buổi/ngày. Mặt khác vẫn còn tồn tại hai điểm nổi bật về chuyên môn của GV, đó là: hiện nay, GV tuy có đổi mới phương pháp giảng dạy so với trước đây, song việc sử dụng phương pháp giảng dạy theo truyền thụ kiến thức một chiều vẫn là chủ đạo. Kết quả này đặt ra yêu cầu là tỉnh Tiền Giang cần đẩy nhanh kế hoạch nâng cao trình độ cho GV để đảm bảo cung cấp đủ số lượng GV đạt chuẩn (trình độ cử nhân sư phạm), có năng lực chuyên môn và khắc phục được sự chênh lệch trình độ GV giữa các vùng khi sắp xếp GV dạy 2 buổi/ngày. Kế đến, với tỉ lệ xấp xỉ 60%, cả hai đối tượng CBQL và GV đều đồng ý rằng GV của trường thích dạy học 2 buổi/ngày. Theo kết quả này, nguyên nhân CBQL và người giảng dạy trực tiếp không rõ và không thích chiếm tỉ lệ gần 40% là cần được làm rõ. Khi được phỏng vấn về điều này, GV bày tỏ rằng họ thích dạy một buổi/ngày với lí do lớn nhất là chế độ thù lao chưa tương xứng, bên cạnh đó là các lí do không có thời gian chăm sóc gia đình, không có thời gian để làm thêm, dạy thêm, thu nhập thấp trong khi phải đi 4 buổi/ngày (lượt đi và về). Tiếp theo, xét về khía cạnh dạy 2 buổi/ngày mang lại ích lợi cho GV, kết quả khảo sát đưa ra những con số khá nổi bật. Trước tiên, chỉ có 8,7% CBQL, 35,9% PH, 41,9% GV đồng ý dạy học như truyền thống (ngày một buổi) phù hợp đối với GV hơn là dạy 2 buổi/ngày. Như vậy, có các đối tượng khảo sát thiên về sự lựa chọn mô hình dạy học 2 buổi/ngày hơn. Sự khác biệt về tỉ lệ đồng ý, trong đó CBQL đồng ý rất cao đối với mô hình 2 buổi/ngày nhưng khoảng xấp xỉ 40% PH, GV lại khá xem trọng dạy học truyền thống. Đây là một kết quả đáng phải đề cập và các nhà lãnh đạo chính sách giáo dục cần chú ý vì cả ba đối tượng này liên quan đến những điều quan trọng nhất khi thực hiện, đó là người thi hành (CBQL và GV), người tác động quan trọng lên người thụ hưởng (PH, HS). Tương tự như vậy, tỉ lệ 53,2% GV và 13% CBQL đồng ý GV có thời gian tập trung vào phát triển chuyên môn hơn khi dạy như truyền thống. Tỉ lệ đồng ý này không cao, vì vậy rất cần được làm rõ vì vấn đề chuyên môn, bằng cấp của GV như đã đề cập ở trên là chưa thật sự thỏa mãn điều kiện để phát triển 2 buổi/ ngày, trong khi đó, CBQL và GV lại không có nhiều thời gian phát triển chuyên môn khi thực hiện mô hình này. Đa số GV, nhất là GV trẻ, khi được phỏng vấn đều có mong muốn được các cấp quản lí tạo điều kiện cho mình tiếp tục học lên cao và được tham gia nhiều khóa học, chuyên đề để TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Kim Dung và tgk _____________________________________________________________________________________________________________ 63 nâng cao trình độ chuyên môn, học tập kinh nghiệm và đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, nhưng hiện tại họ chưa có thời gian tập trung phát triển chuyên môn như nguyện vọng. Ngoài ra, không có nhiều sự khác biệt ý kiến giữa CBQL và GV khi đồng ý rằng GV được hưởng chế độ tốt hơn khi dạy học 2 buổi/ngày, tuy nhiên tỉ lệ này chỉ khoảng 45%. Nhìn từ góc độ quản lí của các trường và tự đánh giá của GV, tỉ lệ này cho thấy lợi ích của chế độ chính sách dành cho GV đang dạy 2 buổi/ngày chưa thật thỏa đáng. 4. Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức đối với việc dạy 2 buổi/ngày Từ kết quả trên, chúng tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn, cơ hội, thách thức của việc áp dụng dạy 2 buổi/ngày đối với GV và HS, cụ thể như sau: 4.1. Thuận lợi Đối với HS - HS không phải học thêm, học nhiều hơn. - HS có thời gian nghỉ ngơi vì đã nắm vững bài và thực hành nhiều trong lớp. - HS được học đầy đủ các môn, có điều kiện phát triển ở các môn năng khiếu như nhạc, mĩ thuật... - HS nhanh nhẹn hơn, gần gũi với GV hơn. - Được học với nhiều thầy, cô sẽ giúp HS tiếp thu kiến thức nhiều hơn, thầy cô đánh giá HS chính xác hơn, không cảm tính, HS được phát huy về mọi mặt. Trong một số trường hợp, không bị GV có thành kiến. - Phát huy tính tự lập, tự chủ của HS: tự học, tự ăn, sống kỉ luật, nề nếp và tôn trọng người xung quanh. - Đảm bảo công bằng trong giáo dục, giúp giảm tải chương trình. - Giảm gánh nặng chi phí học thêm của HS cho các PH. Đối với GV - Giúp GV có thêm thời gian để hỗ trợ cho HS yếu và phát triển HS khá giỏi. - GV linh hoạt hơn trong việc thực hiện giáo án dựa trên điều kiện thời gian 2 buổi/ngày. - GV đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với việc thực hiện 2 buổi/ngày. - Nâng cao kĩ năng sư phạm và năng lực chuyên môn hơn. 4.2. Khó khăn Bên cạnh những lợi ích trên của mô hình dạy học 2 buổi/ngày ở cấp TH tỉnh Tiền Giang thì vẫn tồn tại những khó khăn liên quan đến HS và GV. Cụ thể là: Đối với HS - HS ở vùng ven, vùng sâu, vùng xa sẽ mệt mỏi do PH phải đưa rước giữa 2 buổi vì chưa có bán trú cho HS. - HS ít được chọn lựa và ít được học các môn ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ, môn năng khiếu. - HS chưa được sử dụng trang thiết bị học tập đúng với những gì mô hình đề ra. Đối với GV - GV còn cứng nhắc, thụ động trong việc chấp hành tổ chức dạy học thay vì linh hoạt bám sát thực tế của trường và HS để chủ động thực hiện tốt mô hình, góp phần đảm bảo đúng các mục tiêu giáo dục và lợi ích của mô hình, tạo hiệu quả cho mô hình. - Nhiều GV chưa mạnh dạn đề xuất ý kiến với cấp trên về việc nâng cao hiệu quả tổ chức 2 buổi/ngày. - Nhiều GV chậm đổi mới phương pháp dạy học. - GV được trả lương, thưởng còn ít TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 3(68) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ 64 so với công sức mà họ bỏ ra. - Quá trình nâng cao và tự nâng cao năng lực chuyên môn của đại bộ phận GV trước sự thay đổi nhanh chóng của khoa học giáo dục còn hạn chế. - Nhiều GV thích dạy 1 buổi/ngày hơn vì ít công sức hơn so với 2 buổi/ngày. 4.3. Cơ hội - Mô hình dạy học 2 buổi/ngày được các cấp quản lí Sở, Phòng, nhà trường (Ban giám hiệu, GV) và xã hội (PH) đồng tình, ủng hộ, nhất là các bậc PH. - Lợi ích của mô hình dạy học 2 buổi/ngày đối với HS được xã hội công nhận. - Sự tin tưởng và kì vọng từ phía PH HS đối với nhà trường, thầy cô là rất lớn. - Sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của tất cả các cấp, ngành giúp cho GV nâng cao trình độ và chế độ lương, thưởng. 4.4. Thách thức - Cơ sở vật chất nghèo nàn, không đủ điều kiện để tổ chức dạy 2 buổi/ngày cho HS, như: thiếu nhà vệ sinh sạch, thiếu phòng học, phòng thiết bị, phòng chuyên môn... - GV và HS chưa sử dụng hiệu quả hệ thống thư viện. - Tiền chi trả cho buổi dạy thứ 2 thấp, chậm; có nơi chậm đến một năm. - Phần lớn GV thích dạy một buổi/ngày với lí do lớn nhất là chế độ thù lao chưa tương xứng. Bên cạnh đó là còn có những lí do như: không có thời gian chăm sóc gia đình, không có thời gian để làm thêm, dạy thêm, thu nhập thấp trong khi phải đi 4 buổi/ngày (lượt đi và về). - Tính thụ động, ỷ lại còn diễn ra ở đội ngũ GV. - Phương pháp giảng dạy của GV còn cứng nhắc, mang tính hình thức và rập khuôn. GV hoặc áp dụng máy móc hoặc chưa hiểu đúng phương pháp và lợi ích của đổi mới phương pháp dạy học (các môn học khác nhau, đối tượng HS khác nhau, GV khác nhau nhưng phương pháp dạy học được sử dụng lại giống nhau). 5. Kết luận và kiến nghị 5.1. Kết luận Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đưa ra một số kết luận về lợi ích của việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày ở cấp TH tại tỉnh Tiền Giang như sau: Đối với HS - HS sẽ học tốt hơn nếu trường áp dụng dạy học 2 buổi/ngày là điều mà CBQL đồng ý cao nhất (91,3%), kế đến là PH (74,9%) và thấp hơn nhất là GV (67,1%). - Tỉ lệ khá cao với trên 70% CBQL, GV, PH đồng ý rằng “HS được rèn luyện kĩ năng và thái độ tốt hơn khi trường tổ chức dạy 2 buổi/ngày”. - “HS được dạy kiến thức tốt hơn khi trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày” có tỉ lệ đồng ý của CBQL (91,3 %), PH (75,5%) và GV (71,9%). - Tương tự như mức đồng ý này, dạy học 2 buổi/ngày hạn chế tình trạng dạy thêm học thêm cũng được CBQL, PH, GV đồng ý với tỉ lệ khá cao (trên 65%). Đối với GV - Năng lực đội ngũ GV hiện nay của trường phù hợp với việc dạy học 2 buổi/ngày, có 81,2% GV và 82,6% CBQL đồng ý điều này. - Với tỉ lệ xấp xỉ 60%, cả hai đối tượng CBQL và GV đều đồng ý rằng GV của trường thích dạy học 2 buổi/ngày. Theo kết quả này, nguyên nhân CBQL và người giảng dạy trực tiếp không rõ và không thích chiếm tỉ lệ gần 40% là cần TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Kim Dung và tgk _____________________________________________________________________________________________________________ 65 được làm rõ. - Có sự khác biệt về tỉ lệ đồng ý, trong đó CBQL đồng ý rất cao đối với mô hình 2 buổi/ngày, nhưng cũng có khoảng 40% PH, GV lại khá xem trọng dạy học truyền thống. - Tỉ lệ 53,2% GV và 13% CBQL đồng ý GV có thời gian tập trung vào phát triển chuyên môn hơn khi dạy như truyền thống. - Không có nhiều sự khác biệt ý kiến giữa CBQL và GV khi đồng ý rằng GV được hưởng chế độ tốt hơn khi dạy học 2 buổi/ngày; tuy nhiên, tỉ lệ ở hai đối tượng này chỉ khoảng 45%. 5.2. Kiến nghị Đối với các vấn đề liên quan đến GV - Tăng cường và tạo điều kiện cho GV nâng cao trình độ chuyên môn. - Tổ chức bồi dưỡng phương pháp dạy học thông qua tập huấn, tham quan, giao lưu và kết nghĩa với các trường bạn, các địa phương khác. - Bổ nhiệm, phân công GV theo nhu cầu của cơ sở. - Có chính sách cho GV về lương, thưởng; phụ cấp kịp thời phù hợp với năng lực khi thực hiện dạy 2 buổi/ngày. - Tăng cường bồi dưỡng kinh nghiệm cho CBQL, kinh nghiệm giảng dạy cho GV trong việc thực hiện mô hình trên. Đối với các vấn đề liên quan HS - Xem xét tổ chức 2 buổi/ngày phù hợp với tâm sinh lí của HS TH, nhất là thời tiết, khí hậu ở Việt Nam (miền Nam) vì dễ ảnh hưởng đến sức khỏe của HS khi di chuyển từ nhà đến trường nhiều lần trong ngày. - Xây dựng cơ sở vật chất phải đồng bộ từ trường, lớp đến phòng chức năng, phòng chuyên môn, trang thiết bị dạy học, phòng ngủ, nhà ăn cho HS. - Phổ biến mục đích, nội dung và kế hoạch tổ chức đến từng PH HS. Nên mời PH tham quan trường (phòng ốc, thư viện, nhà ăn, nhà vệ sinh, phòng học và phòng ngủ của HS. - Lưu ý đến đối tượng HS có PH làm ăn xa, nghèo, ít học, lao động chân tay, vì đa số PH này thường khoán trắng việc học của con em mình cho nhà trường. - Hiểu và lắng nghe ý kiến của PH vì nhu cầu và nguyện vọng của PH là rất lớn khi cho HS theo học 2 buổi/ngày. - Phân phối, tổ chức chương trình hợp lí các môn tự chọn, giáo dục ngoại khóa trên cơ sở tham khảo nguyện vọng, ý kiến của HS, PH. - Có hình thức bồi dưỡng HS giỏi - năng khiếu, HS yếu nhiều hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Hướng dẫn dạy học 2 buổi/ngày đối với các trường trung học, số: 7291/BGDĐT-GDTrH, Hà Nội. 2. Ngô Minh Oanh (2013), Đánh giá hiệu quả việc dạy và học 2 buổi/ngày ở cấp tiểu học tại tỉnh Tiền Giang, Đề tài cấp Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Tiền Giang. 3. SEQAP (2011), Hướng dẫn sư phạm xây dựng nội dung chương trình và thời khóa biểu dạy học cả ngày, Hà Nội. 4. SEQAP (2011), Sổ tay hướng dẫn lập kế hoạch dạy học cả ngày, Hà Nội. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 04-10-2013; ngày phản biện đánh giá: 21-10-2013; ngày chấp nhận đăng: 23-3-2015)
File đính kèm:
- loi_ich_cua_mo_hinh_day_hoc_2_buoi_ngay_o_bac_tieu_hoc_tai_t.pdf