Một vài suy nghĩ về khái niệm hàng giả trong bối cảnh cuộc chiến chống hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam
Tóm tắt Một vài suy nghĩ về khái niệm hàng giả trong bối cảnh cuộc chiến chống hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam: ... sức khỏe tính mạng. Trong khi đó, đối với những loại hàng giả về hình thức, tức là hàng hóa giả mạo về bao bì, nhãn hàng hóa, sự thiệt hại lại chủ yếu và trước hết thuộc về những thương nhân có hàng hóa thật bị làm nhái, làm giả. Trong trường hợp này, người tiêu dùng cũng có thể là nạ... ra khái niệm về hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ như sau: 1. Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hoá sao chép lậ...ản xuất kinh doanh các mặt hàng khác. Đối với các mặt hàng này, thông thường hoạt động sản xuất, kinh doanh được pháp luật quy định là hoạt động sản xuất, kinh doanh có điều kiện. Pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể về điều kiện sản xuất, kinh doanh đối với nhiều mặt hàng thuộc...
1999/PL-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 27 tháng 4 năm 1999 về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, điều 7. N.T.Q. Anh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 44-53 48 dùng, bản thân hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa khuyết tật không bị coi là hành vi bị xử phạt hành chính. Điều 76 của Nghị định này chỉ xử phạt hành vi vi phạm trách nhiệm thu hồi hàng hóa khuyết tật11. 3. Hàng giả và hàng xâm hại quyền sở hữu trí tuệ Một trong những vấn đề quan trọng khi đề cập đến khái niệm hàng giả trong pháp luật Việt Nam là sự phân biệt giữa hàng giả và hàng xâm hại quyền sở hữu trí tuệ. Như trên đã thấy, khái niệm hàng giả trong pháp luật Việt Nam là rất rộng, bao gồm bốn trường hợp khác nhau. Cách hiểu về hàng giả của Việt Nam có sự khác biệt với cách hiểu về hàng giả ở nước ngoài. Ở nhiều quốc gia, khái niệm hàng giả luôn được hiểu gắn liền với một sự vi phạm về sở hữu trí tuệ. Chẳng hạn, tại Pháp, thuật ngữ được sử dụng là contrefaçon, theo đó: “Xét dưới góc độ pháp lý, hoạt động hàng giả được định nghĩa là hoạt động làm giả, bắt chước hoặc sử dụng toàn bộ hoặc một phần nhãn hiệu, kiểu dáng, mẫu hữu ích sáng chế, phần mềm, quyền tác giả hoặc quyền đối với giống cây trồng mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu”12. Theo cách hiểu của Pháp, hoạt động hàng giả luôn gắn với một sự vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả hay quyền đối với giống cây trồng. Tương tự như vậy, theo khoản 4 điều _______ 11 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng. 12 Định nghĩa của Uỷ ban Quốc gia chống hàng giả của Pháp (CNAC). Xem thêm định nghĩa trong các điều L515-1, l52-, L615-1, L716-9 Bộ luật sở hữu trí tuệ của Cộng hòa Pháp. 1252 BLDS Liên bang Nga: “Trong trường hợp việc sản xuất, phổ biến hoặc những hình thức sử dụng khác cũng như việc nhập khẩu, vận chuyển hay tàng trữ các vật phẩm có chứa đựng các kết quả của hoạt động trí tuệ hoặc các dấu hiệu phân biệt dẫn tới vi phạm độc quyền đối với các đối tượng này thì các vật phẩm trên được coi là giả mạo. Tại Liên bang Nga, theo quyết định của Tòa án, những vật phẩm này sẽ bị đưa khỏi lưu thông và buộc tiêu hủy”13. Trong khi đó, khái niệm hàng giả của Việt Nam bao gồm có 4 trường hợp, trong đó chỉ có trường hợp thứ ba là trường hợp “hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ”. Tuy nhiên, bản thân khái niệm hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 213 của Luật sở hữu trí tuệ cũng có những khác biệt với khái niệm của Pháp và Nga. Trong khái niệm được nêu ở Điểu 213 Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam, hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ chỉ bao gồm hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và hàng hóa sao chép lậu quyền tác giả. Các hàng hóa có chứa đựng yếu tố xâm hại đến sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, kiểu dáng công nghiệp và giống cây trồng không thuộc phạm vi khái niệm hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ. Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ đưa ra khái niệm về hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ như sau: 1. Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hoá sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này. 2. Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, _______ 13 Xem khoản 4 Điều 1252 BLDS Liên Bang Nga. N.T.Q.Anh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 44-53 49 dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý. 3. Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan.” Khái niệm hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ trong Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam tương đồng với khái niệm “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa chứa đựng yếu tố xâm hại quyền tác giả” được quy định trong Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIPS) của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)14 Khái niệm hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ trong Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam cũng tương đồng với khái niệm “Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và hàng hóa sao chép chứa đựng yếu tố xâm phạm quyền tác giả” được quy định trong Điều 5 của Hiệp định chống thương mại hàng giả (Anti- Counterfeiting Trade Agreement - ACTA) 15mới được ký gần đây giữa nhiều nước công nghiệp phát triển, nhưng hiện chưa có hiệu lực [3]. Việc phân biệt giữa khái niệm hàng giả nói chung với khái niệm hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ nói riêng, cũng như với khái niệm hàng hóa có chứa đựng yếu tố xâm hại quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, như trên đã nêu, để đấu tranh chống lại những hàng giả về chất lượng, cần huy động trước hết vai trò của chính người tiêu _______ 14 Xem điều 51 và Chú thích 14 Hiệp định TRIPS. 15 Xem nội dung và các thông tin về Hiệp định này tại trang Web: opportunities/trade-topics/intellectual-property/anti- counterfeiting/ dùng, những người bị thiệt hại đầu tiên và trực tiếp nhất. Đối với những hàng hóa xâm hại quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, vai trò pháp lý của các chủ thể có quyền sở hữu trí tuệ bị xâm hại lại cần được đặt lên hàng đầu. Trên phương diện pháp luật thực định, cả trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và pháp luật xử lý hình sự, các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả được xử lý khác biệt với các hành vi xâm hại quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ. Trong Bộ luật hình sự, tách biệt với các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định tại các điều 156, 157, 158, các hành vi tội phạm liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ được quy định lần lượt tại điều 170 (Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp), điều 170a (Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan) và điều 171 (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp) [4], [5]. Với những quy định như hiện nay của Bộ luật hình sự, có thể thấy những hành vi phạm tội về hàng giả theo các điều 156, 157, 158 sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn rất nhiều so với các hành vi phạm tội liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả trường hợp giả mạo về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sẽ có sự trùng lặp hoặc khó phân biệt về việc áp dụng điều luật khi một hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả (về nội dung) nhưng đồng thời xâm hại quyền sở hữu trí tuệ, chẳng hạn như giả mạo về sở hữu trí tuệ [6]. 4. Hàng giả thông thường và hàng giả gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng Về nguyên tắc, mọi hàng giả đều gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Bảo vệ người tiêu dùng là một trong những mục đích cao nhất N.T.Q. Anh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 44-53 50 của công cuộc chống hành giả. Tuy nhiên, có một số hàng giả mà việc sử dụng có thể gây hại hoặc đe dọa gây hại trực tiếp cho sức khoẻ, thậm chí tính mạng của người người tiêu dùng. Nhóm những hàng giả này có một số đặc điểm chung sau đây: Thứ nhất, tính gây hại trực tiếp cho người tiêu dùng. Sử dụng nhóm hàng giả này, người tiêu dùng ngoài việc phải gánh chịu những thiệt hại về kinh tế, còn phải chịu những rủi ro, thiệt hại trực tiếp hay lâu dài về sức khỏe, thậm chí là an toàn tính mạng. So với các mặt hàng giả khác, các mặt hàng giả này tác động một cách trực tiếp đến người tiêu dùng, là đối tượng đông đảo nhất, có vị thế yếu nhất trong phòng tránh, đối phó với các rủi ro so với các doanh nghiệp cũng như Nhà nước nói chung. Thứ hai, tính phổ biến, thường xuyên. Do đối tượng hướng đến là người tiêu dùng, nên những loại hàng giả này xuất hiện một cách phổ biến, thường xuyên hơn các loại hàng giả khác. Chúng có thể bao gồm các loại hàng hóa là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, đồ dùng, phương tiện sinh hoạt ... Trong nhiều trường hợp, sản xuất những sản phẩm này không đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao nên sự xuất hiện của chúng phổ biến hơn các loại hàng giả khác. Đồng thời, những mặt hàng này đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của người dân nên những rủi ro, thiệt hại chúng có thể gây ra cũng mang tính thường xuyên hơn so với các mặt hàng khác. Thứ ba, tính nghiêm trọng. Các loại hàng giả gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng là những loại hàng giả gây ra những hậu quả nghiêm trọng nhất. Ngoài những mặt hàng làm giả về chất lượng mang tính truyền thống như lương thực, thực phẩm..., hiện nay nhiều loại hàng giả khác cũng xuất hiện phổ biến hơn, mang theo những mối nguy hại lớn hơn cho người tiêu dùng. Những mặt hàng này bao gồm chẳng hạn: Mũ bảo hiểm xe máy, phụ tùng ô-tô, xe máy, vật liệu xây dựng, đặc biệt là thuốc chữa bệnh, hóa mỹ phẩm, dược phẩm chức năng và các loại dụng cụ y tế đặc thù. Việc tiêu dùng các sản phẩm hàng giả này có thể gây ra những thiệt hại lớn về sức khỏe, tính mạng của nhiều người một cách tức thì hay trong dài hạn. Do các đặc trưng trên đây của nhóm hàng giả gây hại cho sức khỏe của người tiêu dùng so với các loại hàng giả nói chung, các quy định pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chúng cũng có những đặc thù. Một mặt, trong phòng ngừa, ngăn chặn hàng giả gây hại cho người tiêu dùng, các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh các mặt hàng này có sự chặt chẽ, cụ thể hơn so với hoạt động sản xuất kinh doanh các mặt hàng khác. Đối với các mặt hàng này, thông thường hoạt động sản xuất, kinh doanh được pháp luật quy định là hoạt động sản xuất, kinh doanh có điều kiện. Pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể về điều kiện sản xuất, kinh doanh đối với nhiều mặt hàng thuộc diện này, sớm hơn so với các loại mặt hàng khác. Chẳng hạn, cho đến nay, Chính phủ đã có những Nghị định riêng biệt về sản xuất, kinh doanh đối với các mặt hàng như: Thực phẩm nói chung, rượu, thuốc chữa bệnh, hóa mỹ phẩm, phân bón, thuốc bảo vệ thực - động vật, thuốc lá Trong các chiến dịch, chương trình hành động phòng chống hàng giả, mục tiêu, nội dung các biện pháp chống hàng giả gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng đều được đặt lên hàng đầu, được ưu tiên về khâu đầu tư tài chính hay tổ chức thực hiện. Mặt khác, trong việc xử lý các vi phạm, pháp luật áp dụng đối với hành vi sản xuất, kinh doanh, xuất hay nhập khẩu hàng giả gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng cũng có những đặc thù. N.T.Q.Anh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 44-53 51 Thứ nhất, các biện pháp chế tài hành chính thông thường được áp dụng ở mức độ nghiêm khắc, có tính răn đe cao hơn. Chẳng hạn, Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng, nhóm các hành vi sản xuất, kinh doanh hàng giả gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng đều chịu khung xử phạt ở mức cao nhất hoặc mức xử phạt cao hơn so với các hành vi sản xuất, kinh doanh hàng giả khác. Thứ hai, bên cạnh các biện pháp chế tài chính, các hành vi sản xuất, kinh doanh hàng giả gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng thường còn phải chịu các biện pháp bổ sung nghiêm khắc hơn. Các văn bản pháp luật hiện hành quy định các biện pháp này gồm: Đình chỉ hoạt động kinh doanh, thu hồi giấy phép kinh doanh, tiêu hủy, tịch thu tang vật, hàng giả, buộc tái xuất hàng giả đã nhập khẩu từ nước ngoài. Đặc biệt, đối với những loại hàng giả này, biện pháp tiêu hủy là bắt buộc, không thể áp dụng biện pháp tịch thu rồi sử dụng vào mục đích xã hội hay nhân đạo như đối với một số loại hàng giả khác. Thứ ba, việc xử lý nghiêm khắc hơn các hành vi sản xuất kinh doanh hàng giả gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng còn thể hiện ở việc dùng các quy định của Bộ luật hình sự. Trước hết, Bộ luật hình sự có ít nhất hai điều riêng biệt quy định riêng về các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc loại này (Điều 157, 158). Mặt khác, mức khung hình phạt được áp dụng là rất nghiêm khắc, có thể lên đến tù chung thân hoặc tử hình. Thứ tư, trong hoạt động tổ chức phòng, chống hàng giả, đối với các loại hàng giả gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng, pháp luật quy định trách nhiệm chủ động của cơ quan nhà nước, mà không cần yêu cầu của người bị hại là doanh nghiệp hay cá nhân người tiêu dùng. Các cơ quan như công an, quản lý thị trường, hải quan, kiểm sátcó thể phải chủ động áp dụng các biện pháp hành chính hoặc tư pháp nhằm xử lý hành vi sản xuất, kinh doanh hàng giả gây hại cho người tiêu dùng, mà không cần có yêu cầu của chủ thể có quyền như trong trường hợp nếu hàng giả là hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ. Thuật ngữ hàng giả gây hại đến sức khoẻ và an toàn của người tiêu dùng xuất hiện trong pháp luật Việt Nam từ khá sớm. Ngay trong Pháp lệnh 07/LCT/HDNN7 ngày 10/7/1982 về trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, tại khoản 3 Điều 5 đã quy định hành vi phạm tội «làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả có chất độc hại hoặc các chất khác có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng» là hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, bị xử lý hình sự ở mức độ nghiêm khắc hơn so với hành làm hàng giả, buôn bán hàng giả thông thường khác. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác chống hàng giả không có một định nghĩa mang tính khái quát về hàng giả gây hại đến sức khỏe, an toàn tính mạng của người tiêu dùng. Phương pháp phổ biến được sử dụng là phương pháp liệt kê. Theo đó, đối với một số loại hàng giả được nêu tên riêng biệt, do gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng mà hành vi sản xuất, buôn bán chúng sẽ phải chịu những chế tài nghiêm khắc hơn. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự, những hàng hóa này bao gồm lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh. Trong khi đó, Nghị định 185 mới đây của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng lại liệt kê nhóm hàng hóa này với phạm vi rộng hơn, bao gồm lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh cho người, phụ gia thực phẩm, chất bảo N.T.Q. Anh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 44-53 52 quản thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, thực phẩm chức năng, chất tẩy rửa, diệt côn trùng, trang thiết bị y tế, xi măng, sắt thép xây dựng, mũ bảo hiểm16. Thực trạng trên đây cho thấy việc hoàn thiện các quy định pháp luật trong ngăn ngừa, xử lý hàng giả gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng trước hết là việc xác định những mặt hàng giả thuộc đối tượng này. Việc không thống nhất trong cách hiểu về hàng giả gây hại cho sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng sẽ dẫn đến sự không thống nhất trong quy định chế tài, biện pháp xử lý. Để tránh hiện tượng bỏ sót hoặc xử lý không thống nhất, cần có quy định pháp luật quy định cách hiểu thống nhất về loại hàng giả đặc thù này hoặc bằng phương pháp khái quát hóa tương tự cách mà Pháp lệnh 07/LCT/HDNN7 ngày 10/7/1982 trước đây đã tiến hành, hoặc liệt kê đầy đủ nhất ở mức có thể những loại hàng giả này theo cách của Nghị định 185 gần đây. Kết luận Làm rõ nội hàm của khái niệm hàng giả theo quy định của pháp luật hiện nay là một trong những điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và chống hàng giả. Dưới góc độ pháp lý, điều này không chỉ có ý nghĩa xác định giới hạn, phạm vi của hoạt động chống hàng giả, mà còn có ý nghĩa trong việc huy động, phát huy vai trò của các chủ thể tham gia vào cuộc chiến chống hàng giả, bao gồm cả các lực lượng chống hàng giả là các cơ quan nhà nước lẫn các doanh nghiệp, các cá nhân. Đặc biệt, việc làm rõ khái niệm hàng giả cũng có ý nghĩa lớn trong việc quyết định các _______ 16 Xem điểm a) và c) khoản 2 điều 14 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng. biện pháp hợp lý trong ngăn ngừa, phát hiện và áp dụng các biện pháp chế tài một cách đồng bộ, hợp lý đối với các hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả. Thực tế áp dụng pháp luật hiện nay cho thấy khái niệm hàng giả trong pháp luật Việt Nam còn cần được hoàn thiện. Khái niệm hàng giả hiện được hiểu rất rộng, có những khác biệt với thông lệ quốc tế. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp có những khó khăn trong việc phân biệt hành vi sản xuất buôn bán hành giả với các hành vi vi phạm pháp luật khác, khó khăn trong việc phân biệt các loại hàng giả với nhau. Những khó khăn này thực tế tạo ra những lực cản, hạn chế hiệu quả của công tác đầu tranh phòng và chống hàng giả. Tài liệu tham khảo [1] Trần Văn Hải, Một số phân tích về tình trạng xâm phạm và tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, Tạp chí Thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số 31 - 7/2008. [2] Trần Ngọc Việt, Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về hàng giả và về đấu tranh phòng, chống sản xuất và buôn bán hàng giả, Tạp chí NN&PL số 8/2001. [3] Sean Flynn, Intelectual property law enforcement and the Anti-counterfeiting Trade Agreement (ACTA): ACTA's Constitutional Problem: The Treaty Is Not a Treaty, American University International Law Review, 26 (2011) 903. [4] Nguyễn Thị Quế Anh, Hiệp định TRIPS: những tác động tới quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật hình sự 1999, Kỷ yếu Hội thảo « Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 trước yêu cầu cải cách tư pháp », Khoa Luật ĐHQGHN và Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên, tháng 12 năm 2013. [5] Nguyễn Thụy Phương, Quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Tạp chí Thông tin Khoa học Xét xử, 5 (2007), 20. [6] Thành Vinh, Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về các tội xâm hại quyền sở hữu trí tuệ, Tạp chí Thông tin Khoa học Xét xử, 5 (2007), 2. N.T.Q.Anh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 44-53 53 Some Opinions on the Concept of Fake Goods in the Context of the Combat against Fake Goods and the Protection of Intellectual Property in Vietnam Nguyễn Thị Quế Anh VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam Abstract: In this article, the author mentions the development of the concept of fake goods in the Vietnamese law system, analyzes the concept of fake goods in accordance with the current law.and shows the differences as well as the correlation among several concepts about fake goods such as: fake goods in content and in form; common fake goods and fake goods doing harm to the consumers’ health and safety. The author also pays attnetion to the analysis of the correlation between fake goods and the goods that infringe the intellectual property. On that basis, the author points out the discrepancies in the current law and determines the base for the application of the law with a view to treating the different behaviors of making fake goods and pointing out the necessity to perfect the concept of fake goods in the Vietnam law. Key words: Definition of fake goods; fake goods in content and in form; the goods that infringe on intellectual property.
File đính kèm:
- mot_vai_suy_nghi_ve_khai_niem_hang_gia_trong_boi_canh_cuoc_c.pdf