Nghiên cứu ảnh hưởng tương tác kết cấu-móng-đất nền đến ứng xử của hệ móng bè cọc khi chịu tác động của động đất
Tóm tắt Nghiên cứu ảnh hưởng tương tác kết cấu-móng-đất nền đến ứng xử của hệ móng bè cọc khi chịu tác động của động đất: ... cốt thép có chiều dày 64 cm đối với vách tầng hầm và hệ vách lõi bên trong công trình chọn tiết diện vách dày 22 cm. 2.3. Kết cấu phƣơng ngang công trình Công trình đƣợc thiết kế theo giải pháp sàn bê tông cốt thép kết hợp với hệ dầm (Hình 3). Trong đó bản sàn có chiều dày 22 cm và hệ... trận động đất Bhuj 2001 H nh 11. Băng gia tốc trận động đất Sikkim 2011 H nh 12. Băng gia tốc trận động đất Loma Prieta 1989 H nh 13. Băng gia tốc trận động đất El-Centro 1979 ảng 4. Thông số các trận ộng đất sử dụng trong ph n t ch số [1] Thông số trận ộng ất Trận ộng đất ...i 15 m đầu tiên tính từ đầu cọc (Hình 21 đến Hình 23). Tuy nhiên, mức độ gia tăng giá trị moment trong cọc phụ thuộc vào vị trí của cọc trong bè (Hình 24). Đối với nhóm cọc ở vị trí giữa đài (chiếm khoảng 50 % diện tích đài), mức độ gia tăng moment trong cọc khi chịu tác động của động đấ...
T LÊ BÁ VINH *,** OÀNG NGỌC TR ỀU*,** Research on influence of the interaction of superstructure, foundation and soils on the behaviour of pile-raft foundation under earthquake loads Abstract: The pile-raft foundation has been widely known as an economic and rational design method for high-rise building partly because of its effectiveness in load sharing by both raft and piles, which results in smaller total and differential settlements of foundation. Up to now, there have been quite a few studies focusing on the behaviour of pile-raft foundation under earthquake load due to the complexities included in the interaction of the superstructures, pile-raft foundation and soil. This study concentrates on investigating the behaviour of pile-raft foundation under pseudostatic load of earthquake conditions in finite-element software. In which, not only foundation and soil system but also superstructures are modelled to consider soil-structure interaction (SSI). The results of moment in piles under SSI analysis method are compared to the results of the method simulating the raft-pile foundation system only, which helps civil engineers to realize the important of soil-structure interaction and choose a suitable one for their study and design. In addition to this, the behavior of the pile foundation system after analysis including internal force in the pile which is compared with the static analysis results to foster the sense of engineers in considering the effect of earthquake in their design concept. Keywords: pile-raft foundation, earthquake load, pseudostatic load, soil- structure interaction, superstructure-foundation-soil system. 1. ẶT VẤN Ề * Ngày này, cùng với sự đô thị hóa, các công trình xây dựng ngày càng phát triển về quy mô và chiều cao. Đối với các tòa nhà cao tầng và siêu cao tầng này thì phƣơng án móng sử dụng đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền tải trọng công trình bên trên xuống nền đất bên dƣới và giảm lún, lún lệch cho công trình. Một trong những phƣơng án móng thƣờng đƣợc lựa * Bộ môn Địa cơ - Nền móng, Khoa Kỹ Thuật Xây dựng, Trường Đại học Bách khoa TP.HCM ** Đại học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả liên hệ: trieuhn@hcmut.edu.vn chọn là móng bè-cọc kết hợp với những ƣu điểm vƣợt trội trong việc giảm số lƣợng cọc, giảm lún lệch và tăng khả năng chịu tải của đất nền. Do đó, rất nhiều nghiên cứu đã đƣợc thực hiện nhằm đề xuất các phƣơng pháp ứng dụng trong thiết kế móng bè cọc, trong đó có nghiên cứu của Poulos (2001) và Randolph (1994). Tuy nhiên, các nghiên cứu này tách riêng ứng xử của nhóm cọc và bè độc lập thông bằng việc xác định hệ số phân chia tải giữa bè và cọc mà chƣa xét đến sự làm việc đồng thời của cả hệ móng bè-cọc. Sau đó, nhiều nghiên cứu của các tác giả Clancy và Randolph (1993), Cooke (1996), ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 66 Cunha (2001) đã sử dụng phân tử lò xo để phân tích tƣơng tác bè-cọc và tƣơng tác giữa cọc với đất dƣới tác động của tải trọng tĩnh. Năm 2003, Horikoshi và cộng sự [3] đã sử dụng thí nghiệm bàn rung để nghiên cứu ứng xử của hệ móng bè- cọc dƣới tác động của tải động. Năm 2014, Banerjee và cộng sự [6] đã khảo sát tác động của động đất đến ứng xử đầu cọc ngàm vào đài bằng thí nghiệm máy ly tâm kết hợp với phƣơng pháp mô phỏng số. Đến năm 2015, Zheng và cộng sự [8] đã thực hiện thí nghiệm bàn rung để phân tích tƣơng tác giữa cọc và đất dƣới tác động của động đất cho công trình xây dựng trên nền đất yếu. Cùng năm đó, Kumar và cộng sự đã nghiên cứu ứng xử động của cọc cho móng của bể chứa dầu bằng phần mềm phần tử hữu hạn PLAXIS 3D. Sau đó, Kumar và Choudhury đã thực hiện nghiên cứu phân tích tƣơng tác đất nền kết cấu cho móng cọc dƣới tác động của tải trọng động bằng phần mềm FLAC3D 4.0. Rất nhiều nghiên cứu đƣợc thực hiện nhằm phân tích ứng xử móng bè cọc dƣới tác động tải trọng tĩnh và tải trọng động [1,3,6,8]. Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu chỉ mô phỏng hệ móng và nhóm cọc riêng lẻ hoặc chỉ mô phỏng hệ móng bè-cọc độc lập còn kết cấu bên trên thì chƣa xét đến. Do đó, nghiên cứu này tiến hành phân tích ứng xử của cọc dƣới tác động của động đất khi xét đến sự làm việc chung của hệ kết cấu bên trên, móng bè cọc và đất nền bên dƣới. Ở đây, phần mềm phần tử hữu hạn PLAXIS 3D sẽ đƣợc sử dụng để mô phỏng công trình Messestum và sự tác động của động đất đƣợc mô phỏng nhƣ một lực tĩnh ngang tƣơng đƣơng tác dụng lên đài cọc theo phƣơng pháp giả tĩnh. Trong đó, giá trị lực ngang giả tĩnh do động đất đƣợc tính toán từ 4 trận động đất Bhuj 2001, Sikkim 2011, Loma Prieta 1989 và El- Centro 1979. Sau đó, để nhận thấy sự cần thiết của việc mô phỏng cả hệ kết cấu bên trên, hệ bè cọc và đất nền cùng làm việc đồng thời, ứng xử của hệ móng bè-cọc dƣới tác động của động đất đƣợc phân tích và so sánh giữa phƣơng pháp mô phỏng hệ khung- móng- đất nền làm việc đồng thời (SSI) và phƣơng pháp chỉ mô phỏng hệ móng bè- cọc theo nghiên cứu của tác giả Ashutosh Kumar [1]. 2. CÔNG TRÌN NG ÊN CỨU MESSETURM TOWER 2.1. Tổng quan công trình Messeturm Tower là tòa nhà chọc trời ở thành phố Frankfurt am Main nƣớc Đức. Công trình đƣợc xây dựng năm 1990 và là tòa nhà cao thứ hai của Đức với tổng chiều cao 257 m gồm 63 tầng nổi và 2 tầng hầm. Hình 1. Công trình Messeturm Tower Hình 2. Mặt cắt đứng công trình [4] ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 67 2.2. Kết cấu phƣơng đứng công trình Công trình sử dụng giải pháp kết cấu hình ống đƣợc cấu tạo bằng một ống bao xung quanh nhà gồm hệ thống cột, dầm và phía trong nhà là hệ lõi, vách cứng (Hình 2). Trong đó hệ cột đƣợc bố trí xung quanh cách nhau 3,6 m có kích thƣớc 0,8x0,8 m tại tầng 7 và thay đổi tiết diện 5 cm đến kích thƣớc 0,3x0,3 m ở tầng trên cùng. Đối với hệ vách chịu lực sử dụng vách bê tông cốt thép có chiều dày 64 cm đối với vách tầng hầm và hệ vách lõi bên trong công trình chọn tiết diện vách dày 22 cm. 2.3. Kết cấu phƣơng ngang công trình Công trình đƣợc thiết kế theo giải pháp sàn bê tông cốt thép kết hợp với hệ dầm (Hình 3). Trong đó bản sàn có chiều dày 22 cm và hệ dầm chính, dầm phụ có kích thƣớc lần lƣợt 40 x 80 cm và 20x40 cm. Hình 3. Kết cấu vách và hệ cột xung quanh công trình [4] Hình 4. Mặt bằng kết cấu công trình tầng trệt đến tầng 6 [4] Hình 5. Mặt bằng kết cấu công trình tầng đi n hình tầng 7 đến tầng 58 [4] Hình 6. Mặt bằng kết cấu công trình tầng 59 đến tầng 60 [4] ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 68 2.3. Kết cấu móng công trình Giải pháp nền móng đƣợc sử dụng là giải pháp móng bè cọc kết hợp với phần bè có kích thƣớc 58,8 m x 58,8 m (Hình 7) và chiều dày thay đổi từ 3 m ở biên đến 6 m ở khu vực tâm móng. Phần cọc sử dụng phƣơng án cọc khoan nhồi có đƣờng kính 1,3 m với ba loại chiều dài cọc giảm dần từ tâm móng đến biên đƣợc thể hiện trên Hình 7. Ở khu vực tâm móng bố trí 16 cọc với chiều dài mỗi cọc 34,9 m, trong khi đó ở khu vực xung quanh phần tâm móng bố trí 20 cọc với chiều dài 30,9 m và phần biên ngoài cùng bố trí 28 cọc với chiều dài mỗi cọc 26,9 m. 2.4. ịa chất công trình Công trình đƣợc xây dựng ở khu vực có mặt cắt địa chất nhƣ Hình 8, gồm lớp đất đá san lấp dày 8-10 m ở trên mặt. Bên dƣới lớp san lấp là lớp đất sét Frankfurt đến độ sâu khoảng 70 m. Mực nƣớc ngầm khu vực ở độ sâu khoảng 4,5- 5,0 m so với mặt đất tự nhiên. Hình 7. Mặt bằng bố trí cọc trong bè công trình Messeturm Tower [1] Hình 8. Mặt cắt địa chất khu vực Frankfurt am Main (Katzenbach et al. [2]) 3. PHÂN TÍCH ỨNG XỬ HỆ MÓNG BÈ CỌC KHI CHỊU TÁC ĐỘNG CỦA ĐỘNG ĐẤT Trong nghiên cứu này, hệ kết cấu-móng-đất nền công trình Messesturm Tower đƣợc mô phỏng trong PLAXIS 3D (Hình 14) dựa trên các thông tin về kết cấu, địa chất và hệ móng bè cọc nhƣ đã trình bày ở mục 2. Sau khi phân tích, kết quả ứng xử trong cọc đƣợc so sánh với phƣơng pháp chỉ mô phỏng hệ móng bè-cọc theo nghiên cứu của tác giả Ashutosh Kumar (Hình 15) [1] để thấy đƣợc sự khác biệt giữa hai phƣơng pháp mô phỏng. 3.1. Thông số kết cấu mô phỏng Kết cấu cột, vách, lõi sử dụng vật liệu bê tông mác B45 và dầm, sàn sử dụng bê tông mác B35 với các thông số trình bày trong Bảng 1. Kết cấu móng sử dụng vật liệu bê tông với các thông số mô phỏng trình bày trong Bảng 2. 3.2. Thông số địa chất mô phỏng Địa chất công trình đƣợc mô phỏng dựa trên mặt cắt địa chất khu vực Frankfurt am Main nhƣ Hình 8 và các thông số địa chất đƣợc tóm tắt trong Bảng 3. ảng 1. Thông số vật liệu cột vách lõi dầm sàn trong mô phỏng Các thông số Ký hiệu Bê tông B45 Bê tông B35 Module đàn hồ i E (MN/m2) 37500 34500 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 69 Hệ số Poisson 0,2 0,2 Trọng lượng riêng (kN/m3) 25 25 ảng 2. Thông số vật liệu bè và cọc trong mô phỏng (Reul 2000) [5] Các thông số Ký hiệu Bè Cọc Module đàn hồ i E (MN/m2) 34000 25000 Hệ số Poisson 0,2 0,2 Trọng lượng riêng (kN/m3) 25 25 Bảng 3. Bảng tổng hợp các thông số địa chất [7] Lớp đất 1. Sand and Gravel 2. Frankfurt clay 3. Frankfurt limestone Type HSM HSM MCM (kN/m3) 18 18,7 22 E50 ref (kN/m2) 75000 50000 2000000 Eoedref (kN/m2) 75000 50000 Eurref (kN/m2) 225000 150000 Pref (kN/m2) 100 100 m 1,0 0,85 c' (kN/m2) 0 20 1000 ' (o) 30 20 15 3.3. Thông số động đất trong mô phỏng Giá trị lực ngang giả tĩnh do động đất đƣợc tính toán từ số liệu ghi nhận đƣợc của 4 trận động đất Bhuj 2001, Sikkim 2011, Loma Prieta 1989 và El-Centro 1979 (Hình 9 đến Hình 13) và các giá trị lực tĩnh sau khi tính toán đƣợc trình bày trong Bảng 3.8. Sau đó, các lực tĩnh này đƣợc gán vào đài cọc và phân tích bằng phần mềm PLAXIS 3D. H nh 9. Bi u đồ phổ gia tốc động đất ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 70 H nh 10. Băng gia tốc trận động đất Bhuj 2001 H nh 11. Băng gia tốc trận động đất Sikkim 2011 H nh 12. Băng gia tốc trận động đất Loma Prieta 1989 H nh 13. Băng gia tốc trận động đất El-Centro 1979 ảng 4. Thông số các trận ộng đất sử dụng trong ph n t ch số [1] Thông số trận ộng ất Trận ộng đất Bhuj 2001 Sikkim 2011 Loma Prieta 1989 El-Centro 1979 Gia tốc nền (g) 0,106 0,201 0,279 0,43 Thời gian xảy ra Động đất (giây) 12,44 25,35 15,17 17,64 Lực cắt đáy lớn nhất (MN) 192,7 365,5 1635,6 2520,8 3.4. Kết quả moment trong cọc Các kết quả moment trong cọc dƣới tác động của bốn trận động đất khác nhau phân tích từ mô hình mô phỏng hệ kết cấu - móng - đất nền làm việc đồng thời (SSI) đƣợc so sánh với kết quả phân tích của tác giả Ashutosh Kumar [1] (Hình 17 đến Hình 19). Trong đó ba cọc P1, P2, P3 ứng với chiều dài cọc và vị trí cọc trong bè khác nhau đƣợc khảo sát (Hình 16). ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 71 H nh 14. Mô h nh hệ kết cấu-móng-đất nền (SSI) trong PLAXIS 3D H nh 15. Mô h nh phân tích của tác giả Ashutosh Kumar [1] Hình 16. Vị trí cọc P1, P2, P3 Hình 17. Kết quả moment trong cọc P1 (Inner Pile) ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 72 Hình 18. Kết quả moment trong cọc P2 (Middle Pile) Hình 19. Kết quả moment trong cọc P3 (Outer Pile) (a) (b) (c) H nh 20. Giá trị moment chênh lệch giữa phương pháp SSI và phương pháp phân tích của Ashutosh Kumar [1]: (a). Cọc P1, (b). Cọc P2, (c). Cọc P3 Dựa trên kết quả so sánh Hình 17, Hình 18 và Hình 19, nhận thấy kết quả moment trong cọc khi chịu tác động của động đất giữa phƣơng pháp phân tích hệ kết cấu - móng - đất nền làm việc đồng thời (SSI) và phƣơng pháp phân tích của Ashutosh Kumar [1] chỉ mô phỏng hệ móng bè - cọc có sự giống nhau về hình dạng của biểu đồ. Tuy nhiên, các giá trị này có sự chênh lệch đáng kể, trong đó giá trị moment phân tích theo phƣơng pháp phân tích SSI có xu hƣớng nhỏ hơn so với kết quả phân tích của Ashutosh Kumar chỉ mô phỏng hệ móng bè-cọc. Tại vị trí đầu cọc, giá trị moment chênh lệch giữa hai phƣơng pháp lớn nhất, đặc biệt là nhóm cọc ở vị trí trung gian (Middle Pile) và nhóm cọc ngoài cùng (Outer Pile) với sự chênh lệch lên đến 3600 kN.m (Hình 20 (b) và (c)) tƣơng ứng với phần trăm chênh lệch là 35 %. Đối với nhóm cọc ở vị trí trung tâm đài (Inner Pile) thì giá trị moment chênh lệch nhỏ hơn với chỉ khoảng 1150 kN.m (Hình 20 (a)) tƣơng ứng với phần trăm chênh lệch 31 %. Tuy nhiên, càng xa vị trí đầu cọc thì các giá trị chênh lệch này có xu hƣớng giảm dần đến khoảng nhỏ hơn 300 kN.m tại vị trí mũi cọc (Hình 20). Qua kết quả phân tích này có thể thấy rõ sự cần thiết của việc mô phỏng đúng ứng xử thực tế của công trình gồm hệ khung-móng-đất nền làm việc đồng thời khi phân tích công trình chịu tác động của động đất. So với phƣơng pháp chỉ mô phỏng hệ bè-cọc thì phƣơng pháp mô phỏng cả hệ khung-móng-đất nền không chỉ mô phỏng đúng ứng xử thực tế mà còn đem lại hiệu quả về mặt kinh tế trong thiết kế với kết quả moment trong cọc nhỏ hơn đáng kể lên đến 35%, giúp tiết kiệm vật liệu làm cọc. 3.5. Khảo sát mức độ tác động của động đất ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 73 Hình 21. Kết quả moment trong cọc P1 (Middle Pile) Hình 22. Kết quả moment trong cọ c P2 (Outer Pile) Hình 23. Kết quả moment trong cọ c P3 (Middle Pile) Hình 24. Phần trăm gia tăng moment trong cọc khi chịu tác động của động đất so vớ i giá trị tĩnh Các giá trị moment trong cọc khi phân tích tĩnh và khi chịu tác động của 4 trận động đất với cƣờng độ khác nhau đƣợc so sánh để khảo sát mức độ tác động của động đất đến moment trong cọc. Dựa vào kết quả moment Hình 21, Hình 22 và Hình 23 nhận thấy giá trị moment lớn nhất tại đầu cọc do liên kết cứng giữa đài và cọc, càng xa vị trí đầu cọc các giá trị moment này giảm dần đến khoảng nhỏ hơn 300 kN.m ở mũi cọc. Khi cƣờng độ trận động đất gia tăng thì giá trị moment trong cọc cũng tăng lên đáng kể đặc biệt là trong phạm vi 15 m đầu tiên tính từ đầu cọc (Hình 21 đến Hình 23). Tuy nhiên, mức độ gia tăng giá trị moment trong cọc phụ thuộc vào vị trí của cọc trong bè (Hình 24). Đối với nhóm cọc ở vị trí giữa đài (chiếm khoảng 50 % diện tích đài), mức độ gia tăng moment trong cọc khi chịu tác động của động đất lớn, lên đến gần 390 % so với kết quả tĩnh khi chịu tác động trận động đất El-Centro (ag = 0,43g). Trong khi đó, đối với nhóm cọc ở ngoài cùng (khoảng 50 % diện tích đài bè), mức độ gia tăng moment trong cọc khi chịu tác động của động đất là nhỏ hơn. Cũng dƣới tác động của trận động đất El- Centro nhƣng phần trăm giá trị moment gia tăng trong cọc so với giá trị tĩnh chỉ khoảng 110 %, ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 74 nhỏ hơn gần 3 lần so với phần trăm gia tăng của nhóm cọc ở vị trí giữa đài bè. Qua kết quả phân tích Hình 24 có thể nhận thấy mức độ gia tăng của giá trị moment trong cọc khi chịu tác động của động đất so với trƣờng hợp chỉ chịu tải trọng tĩnh công trình cũng nhƣ thấy đƣợc sự cần thiết của việc xét đến tác động của động đất trong các bài toán thiết kế, đặc biệt ở những vùng có nguy cơ xảy ra động đất. Khi cƣờng độ động đất càng tăng thì giá trị moment trong cọc càng tăng, đặc biệt là trong phạm vi 15 m tính từ đầu cọc. Tuy nhiên, các cọc ở vị trí trung tâm đài bè có xu hƣớng chịu tác động nhiều hơn các cọc ở vị trí ngoài cùng khi các cọc này có phần trăm gia tăng moment trong cọc gấp khoảng 3 lần các cọc ở ngoài cùng. Ở Việt Nam, vùng có nguy cơ chịu tác động của động đất lớn nhất có gia tốc nền khoảng 0.144g và dựa vào kết quả nghiên cứu này có thể thấy mức độ tác động của động đất có thể làm gia tăng đến 40% moment trong cọc so với trƣờng hợp chỉ chịu tải trọng tĩnh. Do đó, việc xét đến động đất trong bài toán thiết kế là thực sự cần thiết. 5. K T LUẬN Khi chịu tác động của động đất thì giá trị moment trong cọc có sự gia tăng so với trƣờng hợp chỉ chịu tải trọng tĩnh và mức độ gia tăng giá trị moment phụ thuộc vào cƣờng độ của trận động đất. Khi cƣờng độ động đất càng tăng thì giá trị moment trong cọc càng tăng, đặc biệt là trong phạm vi 15 m tính từ đầu cọc. Tuy nhiên, các cọc ở vị trí trung tâm đài bè có xu hƣớng chịu tác động nhiều hơn các cọc ở vị trí ngoài cùng khi các cọc này có phần trăm gia tăng moment trong cọc gấp khoảng 3 lần các cọc ở ngoài cùng. Do đó, việc xét đến tác động của động đất trong thiết kế hệ móng bè-cọc bên dƣới là thực sự cần thiết trong các bài toán thiết kế, đặc biệt là ở những vùng có nguy cơ chịu tác động của động đất. Một trong những phƣơng pháp có thể áp dụng để xét đến tác động của động đất đến hệ móng bè-cọc là phƣơng pháp giả tĩnh, trong đó tác động của động đất đƣợc mô phỏng nhƣ một lực tĩnh ngang tƣơng đƣơng tác dụng lên đài cọc. Tuy nhiên, qua kết quả nghiên cứu và phân tích nhận thấy kết quả moment trong cọc chịu tác động của động đất giữa phƣơng pháp phân tích hệ kết cấu - móng - đất nền làm việc đồng thời (SSI) và phƣơng pháp phân tích của Ashutosh Kumar chỉ mô phỏng hệ móng bè - cọc có sự chênh lệch đáng kể, trong đó giá trị moment phân tích theo phƣơng pháp phân tích SSI có xu hƣớng nhỏ hơn so với kết quả phân tích chỉ mô phỏng hệ móng bè-cọc. Tại vị trí đầu cọc, giá trị moment chênh lệch giữa hai phƣơng pháp lớn nhất, lên đến 3600 kN.m tƣơng ứng với phần trăm chênh lệch là 35 %. Tuy nhiên, càng xa vị trí đầu cọc thì các giá trị chênh lệch này có xu hƣớng giảm dần đến khoảng nhỏ hơn 300 kN.m tại vị trí mũi cọc. So với phƣơng pháp chỉ mô phỏng hệ bè-cọc thì phƣơng pháp mô phỏng cả hệ khung-móng-đất nền không chỉ mô phỏng đúng ứng xử thực tế mà còn đem lại hiệu quả về mặt kinh tế trong thiết kế với kết quả moment trong cọc nhỏ hơn đáng kể lên đến 35 %, giúp tiết kiệm vật liệu làm cọc. Do đó, khi phân tích tác động của động đất lên hệ móng bè-cọc trong các phần mềm phần tử hữu hạn cần mô phỏng cả hệ kết cấu bên trên và xét đến sự làm việc đồng thời của hệ khung-móng-đất nền. Lời cảm ơn Chúng tôi xin cảm ơn Trƣờng Đại học Bách Khoa, ĐHQG-HCM đã hỗ trợ thời gian, phƣơng tiện và cơ sở vật chất cho nghiên cứu này. TÀ L ỆU T AM K ẢO [1] Ashutosh Kumar, Deepankar Choudhury and Roft Katzenbach, “Effect of Earthquake on Combined Pile-Raft Foundation”, International Journal of Geomechanics, vol. 16, no. 5, 2016. [2] Rolf Katzenbach, Gregor Bachmann and ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1 - 2021 75 Hendrik Ramm, “Combined Pile Raft Foundations (CPRF): An Appropriate Solution for The Foundations of High-Rise Buildings”, Slovak Journal of Civil Engineering, vol. 3, pp. 19-29, 2005. [3] Horikoshi, K., Matsumoto, T., Hashizume, Y., Watanabe, T., and Fukuyama H, “Performance of piled raft foundations subjected to dynamic loading”, Int. J. Phys. Model., vol. 3, no. 2, pp. 51-62, 2003. [4] Sommer, H., Katzenbach, R., and DeBeneditis, “Lát Verformungsverhalten des mesturmes Frank am Mai”, Vortrage dẻ Baugrundtagung in Karlsruhe, DGGT, Essen, Germany, pp. 371-380, 1990. [5] Reul, O., “In situ-Messungen und numerische stuien Zum Tragverhalten der Kombinierten Pfahl-plattengtundung.”, Mitteilungen des Institutes und der versuchsanstalt fur Geotechnik ser Technischen Universitat Darmstadt, Heft 53 (in German), 2000. [6] Banerjee, S., Goh, S. H., and Lee, F. H., “Earthquake induced bending moment in fixed head piles in soft clay”, Geotechnique, vol. 64, no. 6, pp. 431-446, 2014. [7] Amann, P./ Breth, “Verformungsverhalten des Baugrundes beim Baugrubenaushub und anschließendem Hochhausbau am Beispiel des Frankfurter Ton Mitteilungen der Versuchsanstalt für Bodenmechanik und Grundbau der Technischen Hochschule Darmstadt”, (1975). [8] Zheng, C., Ding, X., and Sun, Y., “Vertical vibration of a pipe pile in viscoelastic soil considering the three-dimentional wave effect of soil”, Int. J. Geomech., 2015. [9] PLAXIS 3D Manual 2018. Người phản biện: PGS, TS NGUYỄN VĂN DŨNG
File đính kèm:
- nghien_cuu_anh_huong_tuong_tac_ket_cau_mong_dat_nen_den_ung.pdf