Nguyên lý chủ quyền nhân dân và biểu hiện của nó trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Tóm tắt Nguyên lý chủ quyền nhân dân và biểu hiện của nó trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam: ...công cụ của đảng để thực hiện các sứ mệnh giai cấp mà đảng đại diện, mà quan trọng phải đại diện cho toàn thể nhân dân để quản lý, giải quyết các nhu cầu phát triển chung của xã hội. Thứ hai, quyền lực nhà nước và quyền lực của đảng cầm quyền đều được hình thành thông qua phương thức ủy quyền từ nh...thực thi quyền lực của mình một cách có hiệu quả và đúng mục đích, đảng cầm quyền phải thiết kế và thực thi các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; buộc quyền lực nhà nước tuân thủ định hướng chính trị của đảng cầm quyền; biến định hướng chính trị đó thành thực tiễn điều hành, quản lý của nhà nước;...nước và Nhân dân cũng như giữa Đảng và Nhà nước. Thứ hai, từ phương diện tổ chức quyền lực nhà nước, “bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát c...
ng chế độ pháp quyền, pháp luật là công cụ người dân cai trị nhà nước theo ý chí của xã hội. Nói một cách khác, trong một nhà nước phi pháp quyền, quyền lực nhà nước đứng cao hơn quyền lực của pháp luật; trong một nhà nước pháp quyền, quyền lực của pháp luật đứng cao hơn quyền lực nhà nước. Pháp quyền là một chế độ thượng tôn quyền lực pháp luật để kiểm soát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền không đơn thuần được hiểu đồng nghĩa với sự ngự trị của pháp luật. Trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại và thực tiễn tổ chức nhà nước của thế giới đương đại, đã có nhiều sự bổ sung nhận thức về các yếu tố khác của nhà nước pháp quyền cũng như có nhiều mô thức tổ chức khác nhau của nhà nước pháp quyền. Cho đến nay, mặc dù không có một định nghĩa thống nhất về nhà nước pháp quyền và các mô thức tổ chức nhà nước pháp quyền có sự đa dạng về hình thức và nội dung, nhưng trên những nét chính và ở những mức độ nhất định, những yếu tố hợp thành của nhà nước pháp quyền được vận dụng tương đối nhất quán. Theo đó, yếu tố tiên quyết và mang tính bản chất của nội hàm khái niệm nhà nước pháp quyền là quyền lực thuộc về nhân dân mà sự hiện diện hữu hình của nó là chủ nghĩa lập hiến với bản văn Hiến pháp được coi như “sự đồng thuận của những người bị trị” thể hiện ý chí của chủ thể quyền lực là nhân dân. Với tính cách là một thể chế đề cao tuyệt đối quyền lực nhân dân, nhà nước pháp quyền đã định vị bản chất của mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước. Nếu xuất phát từ cái gốc của chế độ pháp quyền là dân chủ thì quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước là quan hệ giữa hai chủ thể bình đẳng (hiểu theo nghĩa là phương thức cùng nhận ủy nhiệm của nhân dân) và mang tính độc lập. Đặc tính này được quy định bởi những yếu tố sau: Thứ nhất, nhà nước là một tổ chức công quyền, trong ý nghĩa là một hình thức tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do nhân dân tự tổ chức thành. Nhà nước, xét trong bản chất sâu xa, là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sứ mệnh của nhà nước là phụng sự lợi ích của nhân dân và chịu sự định đoạt của nhân dân. Vì vậy, nhà nước không thuần túy là công cụ của đảng để thực hiện các sứ mệnh giai cấp mà đảng đại diện, mà quan trọng phải đại diện cho toàn thể nhân dân để quản lý, giải quyết các nhu cầu phát triển chung của xã hội. Thứ hai, quyền lực nhà nước và quyền lực của đảng cầm quyền đều được hình thành thông qua phương thức ủy quyền từ nhân dân, có chung nguồn gốc từ nhân dân. Sự khác nhau chỉ thể hiện ở phạm vi, mức độ và tính chất của quyền lực, được xác định bởi sự ủy quyền của nhân dân phù hợp với mục tiêu thực hiện các nhiệm vụ được phân giao cho đảng và nhà nước. Điều này cũng có nghĩa tính chính đáng không chỉ là yêu cầu đặt ra đối với nhà nước mà còn là yêu cầu tất yếu phải được đặt ra đối với đảng cầm quyền trong nhà nước pháp quyền. Thứ ba, trong các điều kiện của của chế độ dân chủ pháp quyền, pháp luật là ý chí của nhân dân, là công cụ điều chỉnh cơ bản và trọng yếu mọi quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội. Do vậy, quyền lực chính trị của đảng cầm quyền không thể chỉ do đảng tự quy định trong điều lệ đảng mà phải chịu sự chi phối của pháp luật; toàn bộ tổ chức và hoạt động của đảng phải được quy định bởi pháp luật, tuân thủ các quy định pháp luật, được xác định và giới hạn bởi pháp luật. Đồng thời, sự cầm quyền của đảng cũng đòi hỏi phải tôn trọng quyền hạn của các cơ quan nhà nước đã được luật pháp quy định. Từ phương diện này, tính hợp pháp của đảng cầm quyền cũng là một yêu cầu đặt ra trong nhà nước pháp quyền. Nếu xem xét từ góc độ chức năng, phạm vi, thẩm quyền của quyền lực thì quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước trong nhà nước pháp quyền là quan hệ mang tính chi phối - phụ thuộc. Đây là đặc tính xuất hiện giữa hai chủ thể không bình đẳng: giữa lãnh đạo (đảng cầm quyền) và bị lãnh đạo (nhà nước), được quy định bởi chính địa vị cầm quyền của đảng. Với tư cách là thiết chế cầm quyền, quyền lực của đảng là cơ sở để thực hiện sự lãnh đạo chính trị của đảng đối với các quá trình phát triển đất nước thông qua phương thức lãnh đạo đặc thù. Đảng thực hiện các quyết định chính trị, tạo khuôn khổ chính trị cho các quá trình phát triển đất nước. Với tư cách là thiết chế điều hành, quản lý xã hội, quyền lực nhà nước là căn cứ để nhà nước biến các quyết định và khuôn khổ chính trị do đảng đề xướng thành hiện thực đời sống. Nhà nước phải chịu sự dẫn hướng và kiểm soát của đảng cầm quyền. Tuy nhiên, trong nhà nước pháp quyền, đảng cầm quyền trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, phục tùng luật pháp của nhà nước. Xét trên phương diện nội dung, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước trong nhà nước pháp quyền thể hiện trên ba khía cạnh. Thứ nhất, nhà nước chịu sự lãnh đạo của đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền thực chất là việc đảng trở thành lực lượng chi phối toàn bộ phương hướng hoạt động, chính sách của chính quyền nhà nước và đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị đa đảng, khi một đảng chính trị trở thành đảng cầm quyền thì xét về hình thức tổ chức, đảng cầm quyền gần như “hòa tan” vào nhà nước. Nhưng dưới khía cạnh chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm, đảng cầm quyền và nhà nước vẫn là hai thực thể chính trị khác nhau. Suy cho cùng, đảng cầm quyền không chỉ là đảng nắm được nhà nước, có được nhà nước, mà là được xã hội tôn vinh, thừa nhận là người lãnh đạo, biết sử dụng nhà nước, pháp luật như một công cụ, sức mạnh để duy trì, củng cố, không ngừng làm tăng thêm lòng tin của xã hội đối với chính mình, làm cho vị thế xã hội của đảng luôn ưu trội so với các đảng chính trị đối lập. Từ phương diện này, cũng có thể nói quyền lực chính trị của đảng cầm quyền chính là cầu nối giữa quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước, tạo nên sự gắn kết giữa chính phủ và nhân dân. Đối với nhà nước, sự lãnh đạo, cầm quyền của đảng là sự lãnh đạo chính trị, quyết định phương hướng chính trị của nhà nước. Sự lãnh đạo này được thực hiện chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối của đảng cầm quyền cũng như số lượng, vị trí nhân sự của đảng trong cơ cấu nhà nước, đặc biệt là ở vai trò của các nhà lãnh đạo chính trị trong nhà nước do đảng cầm quyền cung cấp. Chính vì vậy, đảng phải có phương thức lãnh đạo đặc thù. Đảng thực hiện các quyết định chính trị, tạo ra khuôn khổ chính trị cho các quá trình phát triển của đất nước. Đảng, các tổ chức của đảng cầm quyền không thực hiện thay quyền lực nhà nước, không can thiệp vào các công việc nhà nước trên lĩnh vực quản lý, điều hành vốn là chức năng, thẩm quyền của nhà nước. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải phân định thế nào cho đúng về chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của đảng cầm quyền và của nhà nước cũng như nhận diện thế nào cho đúng về mối liên hệ về thẩm quyền và trách nhiệm giữa đảng cầm quyền và nhà nước trong nhà nước pháp quyền? Thứ hai, nhà nước chịu sự kiểm soát của Đảng cầm quyền. Vai trò kiểm soát nhà nước của đảng cầm quyền trong các xã hội dân chủ và pháp quyền mang tính tất yếu và xuất phát từ chính vị trí cầm quyền cũng như tính chính đáng của đảng cầm quyền. Trong hệ thống chính trị đa đảng, xét tương quan quyền lực của các đảng chính trị thì quyền lực chính trị của đảng cầm quyền là lớn nhất. Khi ở cương vị cầm quyền, quyền lực tiềm năng của đảng chính trị biến thành quyền lực thực tế. Để thực thi quyền lực của mình một cách có hiệu quả và đúng mục đích, đảng cầm quyền phải thiết kế và thực thi các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; buộc quyền lực nhà nước tuân thủ định hướng chính trị của đảng cầm quyền; biến định hướng chính trị đó thành thực tiễn điều hành, quản lý của nhà nước; làm cho thực tiễn điều hành, quản lý không đi ngược, đi chệch hay xa rời định hướng chính trị của đảng cầm quyền. Từ một phương diện khác, nhân dân, bằng bầu cử, ủy quyền cho đảng cầm quyền thẩm quyền quyết định phương hướng chính trị của nhà nước. Như vậy, thực chất sự kiểm soát của đảng cầm quyền đối với nhà nước cũng là một cơ chế để nhân dân kiểm soát hoạt động của nhà nước. Quyền lực của các đảng chính trị không cầm quyền thường đóng vai trò là quyền lực đối trọng và đó chính là sự kiềm chế, giám sát, phản biện, phán xét của các lực lượng chính trị trong xã hội đối với trách nhiệm cầm quyền của đảng cầm quyền. Trong hệ thống chính trị nhất nguyên, đảng cầm quyền là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội, không chia sẻ cho bất kỳ lực lượng chính trị nào. Điều này càng cho phép và tạo khả năng để đảng kiểm soát nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, nhà nước chịu sự kiểm soát của đảng cầm quyền thông qua nhiều hình thức và cơ chế khác nhau. Đảng cầm quyền ở các quốc gia tư sản thực hiện sự kiểm soát trên các phạm vi quyền lực nhà nước. Thứ ba, nhà nước chế ước tổ chức và hoạt động của đảng cầm quyền bằng pháp luật. Nhà nước pháp quyền không đơn thuần là bộ máy nhà nước tuân theo các nguyên tắc pháp quyền, mà rộng hơn là một chế độ xã hội mà trong đó, nguyên tắc pháp quyền đóng vai trò chi phối toàn bộ quá trình tổ chức xã hội. Trong chế độ ấy không chỉ nhà nước mà trước hết đảng cầm quyền phải là “đảng pháp quyền”, “đảng pháp quyền” để “nhà nước pháp quyền”, “xã hội pháp quyền”. Như vậy, yêu cầu chung để thiết lập mối quan hệ đúng đắn giữa nhà nước với đảng cầm quyền là phải dựa trên nền tảng của những nguyên tắc pháp quyền. Phù hợp với bản chất của nó, việc xác lập chế độ pháp quyền đòi hỏi đồng thời với việc xây dựng xã hội dân chủ. Vì vậy, xây dựng một xã hội dân chủ trở thành yêu cầu cho việc thiết lập và duy trì sự đúng đắn trong mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước, làm cho đảng cầm quyền mang tính xã hội nhiều hơn. Sự ủy nhiệm quyền lực của nhân dân trong xã hội dân chủ, dưới sự bảo trợ của chế độ pháp quyền, là sự ủy nhiệm thực sự, thực tế, cho cả đảng cầm quyền và nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước với đảng cầm quyền được cụ thể thành các yêu cầu đối với hệ thống thể chế đảng. Theo những nguyên tắc pháp quyền, hệ thống thể chế điều chỉnh mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước gồm cả những thể chế quy định nội dung, phương thức lãnh đạo nhà nước của đảng cầm quyền. Theo những thể chế đó thẩm quyền và trách nhiệm của đảng cầm quyền trước nhà nước phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tức là phù hợp với ý chí chung của nhân dân, của dân tộc, lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Còn nhà nước phải mang “tính pháp quyền" (tức là nhà nước thực hành đầy đủ các nguyên tắc pháp quyền trong hoạt động, lập pháp, hành pháp và tư pháp) và phải có vị trí quyết định trong tiến trình hình thành chế độ pháp quyền, mà trọng tâm là phải bảo đảm cho tất cả các thiết chế của xã hội đều phải tuân theo các nguyên tắc dân chủ và pháp quyền. 2. Biểu hiện của nguyên lý chủ quyền nhân dân trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền như một chủ trương hiện thực đã được đặt ra ở nước ta gần như đồng thời với quá trình đổi mới đất nước. Cho đến nay, mặc dầu chúng ta chưa có được một mô hình thật sự đầy đủ về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam nhưng trên bình diện nghiên cứu, gần như chúng ta đã đạt được sự thống nhất trong những hiểu biết cơ bản về nhà nước pháp quyền và trong việc xác định sự cần thiết, bản chất, vai trò, những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đặt trong sự so sánh với những mô hình nhà nước pháp quyền hiện thực đang tồn tại trong nhiều quốc gia, có thể nhận thấy rằng, bên cạnh những giá trị chung, phổ biến, thuộc về bản chất của nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn mang những yếu tố riêng, quyết định tính đặc thù của mối liên hệ giữa Nhà nước với Đảng cộng sản Việt Nam Thứ nhất, yếu tố mang tính chất chi phối là tính nhân dân triệt để của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Ở nước ta, tính pháp quyền của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước trước hết được khẳng định ở sự thừa nhận nguyên tắc chủ quyền nhân dân và thiết kế các cơ chế bảo đảm cho quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước luôn luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân. Tất nhiên, liên quan đến việc thực hiện chủ quyền nhân dân thì vấn đề thực tiễn mới thực sự là điều quan trọng nhất. Vấn đề đặt ra sẽ không chỉ là khẳng định và nhấn mạnh đến vai trò của dân chủ mà còn là thực hành thế nào, đi vào đời sống chính trị xã hội ra sao, dân chủ đến từng cơ quan tổ chức và người dân thế nào... Điều này, trên thực tế lại liên quan đến việc xây dựng và thực thi mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng và Nhân dân, giữa Nhà nước và Nhân dân cũng như giữa Đảng và Nhà nước. Thứ hai, từ phương diện tổ chức quyền lực nhà nước, “bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước” là một yêu cầu quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Ở Việt Nam, mặc dù thừa nhận có sự phân định giữa các bộ phận quyền lực nhưng các bộ phận đó không hoàn toàn độc lập, không đối trọng với nhau mà phối hợp với nhau trong thực thi quyền lực thống nhất. Cùng với đó là một hệ thống các cơ chế giám sát quyền lực. Các thiết chế nhà nước đều tự đặt mình dưới sự kiểm tra, giám sát (giám sát từ bên trong và từ bên ngoài hệ thống nhà nước). Phân công, phối hợp và kiểm soát một cách đúng đắn, hợp lý, rõ ràng, minh bạch trong việc thực hiện ba bộ phận quyền lực là để cho các bộ phận quyền lực này có điều kiện cam kết thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy định của hiến pháp và pháp luật. Nói cách khác, đây là yếu tố thể hiện tính pháp quyền và dân chủ của bộ máy nhà nước ở nước ta. Thứ ba, điểm đặc sắc nhất đồng thời cũng là yếu tố thể hiện rõ nhất bản chất xã hội chủ nghĩa của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là sự lãnh đạo duy nhất và toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Từ tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (bổ sung, phát triển năm 2011), Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục khẳng định: (1) Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; (2) Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; (3) Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan, là một yêu cầu mang tính bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng được đảm bảo bởi tính quyền lực nhân dân dẫn đến đòi hỏi về tính gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Tuy nhiên, cũng còn rất nhiều khía cạnh quan trọng liên quan đến mức độ chính đáng của sự cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay, đến nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng... cần tiếp tục làm rõ, đặc biệt là khía cạnh phân định vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý của Nhà nước. Những yêu cầu nói trên của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trực tiếp quy định những yếu tố đặc thù trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Có thể nhận diện đặc thù đó ở những nét cụ thể sau: Thứ nhất, quan hệ giữa Nhà nước và Đảng là mối quan hệ bền vững, được hình thành tự nhiên trong quá trình lịch sử. Thực tế lịch sử đã gắn bó sứ mạng của Đảng và Nhà nước. Sự suy tôn của Nhân dân đối với Đảng đã đem lại mối quan hệ bền vững giữa Nhà nước với Đảng. Điều đó đồng nghĩa với việc thừa nhận tính tất yếu của sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tuy nhiên, chính ở đây lại có vấn đề đang đặt ra. Để xứng đáng với sự suy tôn của Nhân dân, Đảng phải luôn luôn tự đổi mới. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, sự đổi mới đó phải được tiến hành trên những nguyên tắc dân chủ và pháp quyền. Thứ hai, quan hệ giữa Nhà nước và Đảng là quan hệ thống nhất, nhằm mục tiêu chung. Ở nước ta, Đảng có quan hệ máu thịt với Nhân dân, Đảng từ Nhân dân mà ra và không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Nhân dân. Mục tiêu chính trị của Đảng và cũng là lý do tồn tại của Đảng là ấm no, hạnh phúc của Nhân dân. Lợi ích của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng trùng hợp với lợi của của dân tộc, của Nhân dân. Giai cấp công nhân không thể thực hiện mục tiêu chính trị của mình một cách riêng rẽ, xa rời Nhân dân. Đó chính là cơ sở cho mối quan hệ thống nhất, chung mục tiêu giữa Nhà nước (lực lượng đại diện cho Nhân dân) với Đảng (đội tiên phong của giai cấp công nhân và đại diện cho cả dân tộc, được Nhân dân ủy quyền lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội). Thứ ba, quan hệ giữa Nhà nước và Đảng là quan hệ giữa lãnh đạo - quản lý trong một tương quan chính trị không có đối trọng. Như đã nói ở trên, điểm chung trong mối quan hệ giữa nhà nước và đảng cầm quyền trong các xã hội hiện đại thể hiện ở chỗ vai trò đại diện, quản lý, điều hành của nhà nước và vai trò cầm quyền của đảng chính trị đều đạt được thông qua phương thức ủy quyền từ nhân dân. Về mặt bản chất thì mối quan hệ giữa nhà nước và đảng chính trị cầm quyền là quan hệ định hướng, chỉ đạo của một lực lượng chính trị đối với hệ thống công quyền và qua đó dẫn hướng hoạt động của xã hội, vì vậy đó là quan hệ không bình đẳng về tính chất, chức năng. Trong các quốc gia tư sản hiện đại, tính chất không bình đẳng của mối quan hệ đó được hóa giải bằng sự hòa nhập giữa nhà nước và đảng cầm quyền. Sau khi đảng nắm được vị trí cầm quyền, đảng và nhà nước hòa làm một. Đồng thời quan hệ đó còn được kiểm soát bằng hệ thống đối trọng quyền lực bởi các đảng chính trị đối lập. Điểm khác biệt trong mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng ở Việt Nam chính là ở chỗ quan hệ không bình đẳng về tính chất, chức năng giữa Nhà nước và Đảng lại diễn ra trong trạng thái thể chế chính trị một đảng, không có sự đối trọng do các đảng chính trị khác thực hiện và về mặt tổ chức thì Đảng và Nhà nước là hai hệ thống thiết chế riêng. Tất nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc không có những cơ chế để kiểm soát hoạt động của Đảng, cũng không đồng nghĩa với việc hệ thống thiết chế Đảng và Nhà nước hoàn toàn độc lập với nhau. Trái lại, chúng ta có nhiều cơ chế để kiểm soát hoạt động của Đảng và Nhà nước nhằm khắc phục nguy cơ độc quyền dẫn đến mất dân chủ. Chúng ta cũng có nhiều cơ chế để tạo khả năng thống nhất hành động giữa Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn vận hành của các cơ chế đó vẫn đang tồn tại những thách thức rất lớn đối với Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Để vượt qua, chúng ta cần thiết kế các phương án giải mã dựa căn bản trên xuất phát điểm nhận thức về cái gốc của mối quan hệ Đảng - Nhà nước là chủ quyền nhân dân, mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Khánh (2010), Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước và nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Đào Trí Úc (2004), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Báo cáo tổng hợp đề tài KX 04-02, Hà Nội. 3. Báo cáo tổng hợp đề tài KX 10 - 03 (2006), Đổi mới các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Báo cáo tổng hợp đề tài KX 10 - 03, Hà Nội. 4. Nguyễn Văn Huyên (2010), Đảng Cộng sản cầm quyền - nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Văn phòng Quốc hội (2009), Quốc hội và các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Nxb Lao động, Hà Nội. 6. Đào Trí Úc (2010), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Josef Thesing (2002), Nhà nước pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
File đính kèm:
- nguyen_ly_chu_quyen_nhan_dan_va_bieu_hien_cua_no_trong_nha_n.doc