Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc
Tóm tắt Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc: ... T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 13-19 15 sai phải bị phạt 80 trượng; quan nhận những đơn sai sự thật này, mà không nghiên cứu kỹ vẫn đem ra xét xử thì bị phạt tiền 30 quan [2, tr 194]. Khi thu thập chứng cứ, các quan lại phải theo trình tự nhất định. Việ...ch của giai cấp phong kiến. Tuy nhiên, bên cạnh những hạn chế mang tính chất thời đại của chế độ phong kiến, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thời kỳ này đã có nhiều điểm tiến bộ, trong đó có những qui định thể hiện nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng và người...u tòa đệ tam cấp có chia ban, thì họp ban thứ nhất. Nếu quan thẩm phán An nam ở ban thứ nhất xin hồi tị, thì lấy quan thẩm phán ở ban thứ nhì thay. Nếu quan thẩm phán ở ban thứ nhì có bận việc hay là cũng xin hồi tị thì sẽ do quan viện trưởng tòa Thượng thẩm cử một quan thẩm nghị Đại – P...
rị xã hội. Những triều đại sau này của Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tiếp tục và phát triển tư tưởng đó trong các bộ luật của mình như: Quốc triều Hình luật (Thời Lê), Hoàng Việt luật lệ (Thời Nguyễn)... Đặc biệt, Quốc triều Hình luật được đánh giá là bộ luật có nhiều nét tiến bộ so với đương thời, thể hiện tư tưởng pháp trị kết hợp hài hoà với đức trị của Lê Thánh Tông: “Tôi nghĩ rằng Lê Thánh Tông là một người tôn sùng Nho giáo, một nhà Lý học theo phái Tống nho, nhưng ông biết kết hợp tư tưởng Nho giáo, T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 13-19 14 tư tưởng đức trị và lễ trị với tư tưởng pháp trị trên một tinh thần và ý thức dân tộc sâu sắc” [1, tr 18]. Mặc dù với tên gọi là “Quốc triều Hình luật” nhưng nó là văn bản tổng hợp chứa đựng qui phạm của nhiều ngành luật khác nhau trong đó có qui phạm luật tố tụng hình sự (TTHS). Thông qua đó chúng ta thấy rằng việc giải quyết vụ án hình sự do một cơ quan tiến hành, tập trung vào tay vị quan lại đứng đầu địa phương, tuy nhiên vị quan này cũng lập ra những quan giúp việc: “quan tra hỏi tù phạm”, “quan xét hỏi” [2, tr 239-240] đó là những người làm công tác điều tra và xét hỏi trong quá trình giải quyết vụ án. Ngoài Bộ Hình đã có từ thời kỳ trước, Lê Thánh Tông đã lập thêm Đại lý tự và Đề hình (soát xét việc xét xử đúng hay sai). Điều này được minh chứng bởi Sắc chỉ định chức danh của quan Đề hình năm 1471 “Từ Hình bộ thượng thư trở xuống, tới Đại lý tự và các ngục quan, người nào tha tội hay buộc tội cho người không đúng pháp luật thì phải tâu hặc. Người có tội bị oan uổng cũng phải xét lại và minh oan cho họ”. Đồng thời thời kỳ này quy định cụ thể vể tiêu chuẩn của hình quan trong Sắc chỉ năm 1480: “Hình quan là chức quan quan trọng, phải chọn người có sở trường. Quan các ty ở Hình bộ, không kể là nho hay lại, nếu tài năng kiến thức nông cạn, không am hiểu về hình danh, thì đường quan bộ ấy lựa thải ra”. Về người làm chứng trong Quốc triều Hình luật đã có quy định: “Những người là chứng trong việc kiện tụng nếu xét ra ngày thường đôi bên kiện tụng là người thân tình hay có thù oán, thì không cho phép ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra làm chứng, thì bị khép vào tội không nói đúng sự thực” [2, tr 257]. Việc quy định này cũng nhằm bảo đảm sự vô tư của người làm chứng khi tham gia vào tố tụng trong thời kỳ này. Sự cách tân rõ nhất của Lê Thánh Tông là chế độ quan lại luôn ràng buộc, giám sát lẫn nhau trong các lĩnh vực công quyền phần nào đã thể hiện nguyên tắc bảo đảm sự vô tư trong hoạt động tố tụng. Nhà vua quy định quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ phận, khu vực, quan lại trên cơ sở đó trách nhiệm giám sát lẫn nhau. Mỗi bộ làm một việc; các bộ chịu sự giám sát của các khoa,các Hiến ty giám sát việc của các đạo; các quan lại chịu sự giám sát lẫn nhau, quan trên giám sát quan dưới, vua có thể sai một số quan thường xuyên hoặc đột xuất kiểm tra, giám sát công việc các các quan khác. Cho công sai hoặc bản thân người thợ, dân tố cáo với các quan giám sát, ngự sử, hiến sát về hành vi những nhiễu của các công sai [3, tr 75]. Thời kỳ này đã lấy thước đo về học vấn và đức độ làm tiêu chuẩn dùng người, hạn chế hoặc có lúc bỏ chế độ bổ dụng theo kiểu “cha truyền con nối”. Một trong những qui định khá tiến bộ của Quốc triều Hình luật là xác định, yêu cầu phải làm đúng trách nhiệm, bổn phận của các cấp quan lại, không được lợi dụng chức vụ để sách nhiễu, vì ân oán cá nhân. Điều 197 trong Quốc triều Hình luật có quy định: “Những quan liên phóng (quan mật tra) mật xét việc phải đúng sự thật, nếu sơ xuất sai lầm, thì bị tội biếm hoặc đồ. Nếu vì báo ân báo oán, hay ăn hối lộ mà đổi trắng thay đen, thì không kể việc lớn hay nhỏ, ăn nhiều hay ăn ít, đều xử tội lưu hay tội chết” hay Điều 199 có ghi: “Các quan đang tại chức, mà trễ nhác việc công thì bị phạt 70 trượng, biếm ba tư và bãi chức. Nếu trễ nhác để xảy ra việc gì, thì tội thêm một bậc” [2, tr 94]. Ngoài ra, những quy định cụ thể về thủ tục tố tụng trong Quốc triều Hình luật cũng thể hiện việc bảo đảm giải quyết vụ án một cách khách quan, những người thực hiện giải quyết vụ án cũng như những người liên quan phải vô tư, liêm khiết. Trách nhiệm của người tố cáo tội người khác là phải trình bày sự thật, không được nói là việc đó không đáng tin. Nếu tố cáo T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 13-19 15 sai phải bị phạt 80 trượng; quan nhận những đơn sai sự thật này, mà không nghiên cứu kỹ vẫn đem ra xét xử thì bị phạt tiền 30 quan [2, tr 194]. Khi thu thập chứng cứ, các quan lại phải theo trình tự nhất định. Việc xét hỏi được qui định thành một qui trình và chú ý tới tính khách quan của lời khai: “Khi lấy khẩu cung người phạm tội, quan tra án phải xem xét kỹ, tìm ra sự thực để cho người phạm tội phải nhận tội, không được hỏi quá rộng cả đến người ngoài để tìm chứng cứ bậy” [2, tr 239] Chỉ khi nào: “Nếu xét đi, xét lại, còn chưa quyết định được tội, cần phải tra hỏi nữa, thì phải lập hội đồng các quan án, rồi mới tra khảo”. “Tra khảo tù phạm không được quá 3 lần” [2, tr 240]. Đồng thời để phòng ngừa quan lại tham nhũng, nhận hối lộ trong quá trình xử án, làm trái pháp luật, Điều 664 có quy định: “Viên coi ngục nhận tài vật của tù nhân mà xui bảo thay đổi lời cung, hay ngầm bảo lời lẽ để thêm bớt tội, thì khép vào tội làm trái pháp luật.”[2, tr 238]. Quan xử án phải có trách nhiệm phải vô tư, không được thiên vị bao che cho người quyền quý phạm tội. Nếu làm trái luật thì sẽ bị xử phạt [2, tr 243]. Điều 679 nghiêm cấm quan lại xử tội người phạm tội tùy tiện, trái luật. Quan xét xử, nếu xử tội không đúng luật quy định thì xử tội xuy đánh 30 roi, nếu để tội nhân bị chế thì xử biếm [2, tr 244]. Quan lại có quan hệ thân thích với người đi kiện hay người bị kiện phải xin thay đổi ngục quan. Việc đề nghị thay đổi phải có lý do chính đáng thì vụ án đó mới được giao sang cho cơ quan khác xét xử. Nếu vì tình ý riêng mà cố ý giữ việc xét xử lại thì bị phạt. Hoặc không được làm quan và do vậy không được tiến hành tố tụng trên quê hương của mình[2, tr 240]. Nếu vụ án đó được xét lại thì phải mang sang ty khác xét xử. Các quan xử án đã xử vụ án đó không được phép ngồi xử lại án đó [2, tr 248]. Quan lại không được dung túng cho những người kiện tụng đi lại nhà riêng để xúi bảo lời lẽ làm đảo điên trái phải, thì đều bị tội [2, tr 256]. Như vậy, Quốc triều Hình luật tuy không quy định cụ thể về các nguyên tắc của tố tụng hình sự nhưng cũng đã có những quy định mang tính nguyên tắc thể hiện được nội dung của một số nguyên tắc như nguyên tắc xác định sự thật vụ án, nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Đến thế kỷ XIX, Hoàng Việt luật lệ triều Nguyễn cũng chứa đựng nhiều qui phạm pháp luật tố tụng hình sự qui định việc kiện tụng, điều tra và xét hỏi đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải trung thực, có trách nhiệm trong việc giải quyết vụ án như quy định về xét nghiệm xác chết bị thương không đúng sự thật (Điều 377): Phàm quan ti giữ việc xét nghiệm thây chết (vì bị thương) được giấy gởi mời đi mà thối thác, dây dưa không đi xét nghiệm ngay để đến nỗi thây biến dạng. Và có đến xét nghiệm nhưng không đích thân đến ngay chỗ thây chết để xem xét, lại ủy lại cho tốt làm (rồi ức đoán thêm bớt vết thương kia). Nếu lần đầu xét qua, rồi đến phúc nghiệm, quan lại cùng thấy mà thông đồng nhau về trạng thái của thây chết. Và tuy đích thân có đến xem xét, nhưng lại không dụng tâm xét nghiệm, lại đổi dời nặng, nhẹ, thêm bớt. Sự xét thây chết bị thương này không đúng sự thật là do định chấp nhằm hại người đến nỗi căn do đưa đến chết cũng mập mờ. Trường hợp này, chính quan bị phạt 60 trượng, quan thủ lãnh 70 trượng, lại điển 80 trượng. [4, tr 1009-1010]. Nhìn chung các triều đại phong kiến Việt Nam đã có những qui định về điều tra, xét xử và thi hành án hình sự, nhưng các qui định này chưa thành ngành luật tố tụng hình sự một cách độc lập như hiện nay mà được qui định ở những văn bản pháp luật chung với các qui phạm pháp luật khác. Mặc dù đã có tiến bộ nhất định song T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 13-19 16 luật tố tụng hình sự phong kiến còn đơn giản, việc phân định các cơ quan điều tra, truy tố xét xử chưa rõ ràng, các phương tiện pháp lý để bảo vệ lợi ích của bị can, bị cáo gần như chưa được qui định, phương pháp xét hỏi bằng tra khảo vẫn được dùng phổ biến trong quá trình giải quyết vụ án. Những qui định này phản ánh ý thức hệ và lợi ích của giai cấp phong kiến. Tuy nhiên, bên cạnh những hạn chế mang tính chất thời đại của chế độ phong kiến, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thời kỳ này đã có nhiều điểm tiến bộ, trong đó có những qui định thể hiện nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tất cả những qui định nêu trên đã khẳng định Luật tố tụng hình sự của các triều đại phong kiến Việt Nam đã chú ý tới sự vô tư của quan xử án, những người tiến hành tố tụng khác cũng như những người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án là tiền đề của việc ra các phán quyết đúng người, đúng tội của quan tòa. Đây là điểm tiến bộ so với đương thời và cũng là cơ sở để pháp luật tố tụng hình sự những giai đoạn sau này của Việt Nam kế thừa. Đến thời kỳ Pháp thuộc từ năm 1858, luật tố tụng hình sự nước ta bị ảnh hưởng và chịu sự chi phối của pháp luật tư sản. Thực dân Pháp đặt ra ở mỗi miền một chế độ cai trị và một hệ thống pháp luật khác nhau. Tại Trung kỳ có Bộ luật tố tụng hình sự Trung kỳ ban hành năm 1933, ở Bắc kỳ có Bộ luật Bắc kỳ ban hành năm 1921, còn ở Nam kỳ được coi là thuộc địa của Pháp nên áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự của nước Pháp theo Sắc luật 25/7/1864. Theo qui định của các bộ luật này, thì ở Việt Nam có hai hệ thống Toà án: Những Toà án xét xử người phạm tội bản xứ, Toà án xét xử người Pháp và người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam. Cả hai hệ thống Toà án này đều thành lập ở cấp tỉnh Toà án sơ thẩm và có ba Toà xét xử phúc thẩm ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn để xét xử lại bản án sơ thẩm có chống án ở ba miền Bắc - Trung - Nam. Viện công tố chỉ được thành lập ở Toà án phúc thẩm, còn Toà cấp sơ thẩm không có viện công tố, việc điều tra được giao cho ngành cảnh sát tiến hành. Các nguyên tắc tố tụng tư pháp trong đó có nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của thẩm phán được qui định trong các bộ luật này khá đầy đủ. Bắc kỳ Pháp viện biên chế (Code d'organisation judiciaire du Tonkin) ban hành năm 1921 được áp dụng ở Bắc kỳ thời kỳ thuộc Pháp đã qui định khá đầy đủ căn cứ từ chối (hồi tỵ) hoặc buộc phải (cáo tỵ) thay đổi Thẩm phán cũng như thẩm quyền, thủ tục thay đổi thẩm phán trong quá trình tiến hành tố tụng. Điều 23 của Bắc kỳ Pháp viện biên chế qui định căn cứ hồi tỵ, cáo tỵ gồm có ba căn cứ, đó là: (a) Thẩm phán có quan hệ thân thuộc với bên nguyên hoặc bên bị “Hoặc là quan thẩm phán đối với bên nguyên hay là bên bị là vai họ nội từ hàng anh em con chú con bác trở lại, hay là vai họ ngoại từ hàng cậu và hàng cháu trở lại”; (b) Thẩm phán có quan hệ kiện tụng với bên nguyên hoặc bên bị “Hoặc là quan thẩm phán đối với bên nguyên hay là bên bị, hiện đương có việc kiện hay là trước đã có việc kiện mà án nhất định kết chưa quá một năm”; (c) Thẩm phán có lợi ích liên quan đến vụ kiện “ Hoặc là quan thẩm phán đối với việc kiện đương thưa ở tòa, có lợi – quyền gì hiện có can thiệp đến mình.”. Những căn cứ này được đưa ra nhằm bảo đảm sự vô tư cho thẩm phán trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án và khá tương đồng với những căn cứ của pháp luật hiện nay ở nước ta cũng như pháp luật quốc tế. Nếu có một trong những căn cứ này thì phải hồi tỵ nếu không sẽ bị cáo tỵ: “Bất cứ thuộc về án vụ nào, quan thẩm phán An nam cũng có thể tự xin hồi tị hay là bị người đương sự cáo tị vì những duyên cớ” đã nêu trên. T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 13-19 17 Thẩm quyền, thủ tục hồi tỵ, cáo tỵ cũng được qui định từ Điều 24 đến Điều 29 của Bắc kỳ pháp viện biên chế. Thẩm quyền hồi tỵ cáo tỵ được qui định: Nếu quan thẩm phán sơ cấp xin hồi tị, thì phải làm một tờ trình nói rõ lý do, đệ trình lên quan chánh án tòa đệ nhị cấp; quan chánh án tòa ấy xem xong, phê ý kiến vào rồi chuyển trình lên quan chánh án tòa đệ tam cấp. Nếu quan thẩm phán An nam tòa đệ nhị cấp xin hồi tị, thì phải làm một tờ trình nói rõ lý do, đệ lên quan chánh án tòa mình; quan chánh án xem xong, phê ý kiến, rồi chuyển trình lên quan chánh án tòa đệ tam cấp. Nếu quan thẩm phán An nam tòa đệ tam cấp xin hồi tị, thì phải làm một tờ trình đệ lên quan chánh án tòa ấy. Quan chánh án Tòa đệ tam cấp, tiếp được tờ trình sẽ sức cho biện minh các lẽ rồi họp tòa ấy lại, nghe ý kiến quan Chưởng lý để quyết nghị trong phòng nghị sự. Nếu tòa đệ tam cấp có chia ban, thì họp ban thứ nhất. Nếu quan thẩm phán An nam ở ban thứ nhất xin hồi tị, thì lấy quan thẩm phán ở ban thứ nhì thay. Nếu quan thẩm phán ở ban thứ nhì có bận việc hay là cũng xin hồi tị thì sẽ do quan viện trưởng tòa Thượng thẩm cử một quan thẩm nghị Đại – Pháp ở ban thứ nhì, hay là cử một quan thẩm nghị Đại pháp nào ở trong tòa sung vào ban thứ nhất; trong trường hợp ấy, ban thứ nhất sẽ xét xử, không có quan An nam bồi thẩm. Quyết nghị thế nào, sẽ do quan chánh án tòa đệ tam cấp thông đạt cho quan thẩm phán xin hồi tị; cách thông đạt cũng theo cùng một đường lối chuyển đề tờ trình như trước. Nếu tờ trình xin hồi tị xét ra có lý, nếu quan thẩm phán xin hồi tị không có quan trợ thẩm để mà thay, thì quan Chưởng lý sẽ thông trị cho quan Nam án thủ hiến, để quan thủ hiến hợp ý với quan Thống sự Bắc kỳ lựa chọn người thay. Nếu tờ trình xin hồi tị xét ra vô lý, thì quan thẩm phán xin hồi tị phải tuân theo định lệnh của tòa đệ tam cấp. Tờ trình xin hồi tị phải làm trước khi chưa bắt đầu công phán thuộc về tình lý việc kiện.” Thủ tục cáo tỵ được qui định: Nếu cáo tỵ quan thẩm phán sơ cấp, thì đơn đệ lên quan chánh án tòa đệ nhị cấp; Nếu cáo tị quan thẩm phán An nam tòa đệ nhị hay là đệ tam cấp thì làm đơn đệ lên quan chánh án tòa đệ tam cấp; Đơn xin cáo tị phải theo thể lệ trong luật dân sự tố tụng định về đơn khởi kiện, cần nhất phải hợp hai cái lệ sau này, không thì bị bác cho là bất khả thụ lý, không cần phải xét: a) Thời kỳ đệ đơn chậm nhất phải vừa sau khi giải hòa mà giải hòa không xong, hay là trước khi tòa án chưa bắt đầu công phán thuộc về tình lý việc kiện; b) Đơn phải nói đích xác cái duyên cớ xin cáo tị, mà phải đính theo giấy má làm chứng cứ; nếu có những giấy má nào viện làm chứng cứ mà người đương sự không có thể được tùy dụng thì phải kê ra.” Đơn cáo tị quan thẩm phán sơ cấp thì do chánh án tòa đệ nhị cấp thông trị cho quan thẩm phán bị cáo tị và sau khi tòa đệ nhị cấp đã nhận được tờ thuyết minh của quan bị cáo tị, cùng đã sức cho biện minh các lẽ rồi, sẽ chung thẩm sự cáo tị hữu lý hay là vô lý. Đơn cáo tị quan thẩm phán An nam ở tòa đệ nhị hay là đệ tam cấp, thì quan chánh tòa đệ tam cấp thông tri cho quan bị cáo tị để quan ấy là tờ thuyết minh, rồi tòa đệ tam cấp chọn một quan thẩm phán An nam ở ban khác hay là một quan trợ thẩm để làm bồi thẩm, và sức cho biện minh các lẽ, rồi sẽ chiếu lời kết luận của quan Chưởng lý mà chung thẩm việc cáo tị ấy hữu lý hay là vô lý. Bất cứ là ở đệ nhị cấp hay là đệ tam cấp, phàm thẩm việc cáo tị thì trước hết phải xét hỏi trong phòng nghị sự, rồi sau mới đem kết án trước phiên tòa công, trong án phải nói rõ lý do và ở chủ văn phải biên rằng: “xét ra sự cáo tị hữu lý hay là vô lý. Nếu đơn cáo tị xét ra là vô khả thụ lý hay là vô lý, thì người đương sự cáo tị phải bị xử phạt bạc: cáo tị quan thẩm phán sơ cấp thì phạt năm T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 13-19 18 đồng bạc, cáo tị quan thẩm phán đệ nhị cấp thì phạt mười đồng bạc, cáo tị quan thẩm phán đệ tam cấp thì phạt hai mươi đồng bạc. Tòa án lại có thể tùy tình trạng mà xử người xin cáo tị phải bồi thường cho quan bị cáo tị; số bồi thường ấy do tòa án định. Nếu đơn cáo tị xét ra hữu lý thì quan Chưởng lý thông báo cho quan Nam án thủ hiến để khi có cần sẽ do quan Nam án thủ hiến thương đồng với quan Thống sự cử quan An nam khác tạm thay quan bị cáo tị. Khi nào quan hành chánh hay là quan tư pháp Đại Pháp sung làm quan chánh anh tòa đệ nhị cấp xin hồi tị hay là bị cáo tị, thì do tòa đệ tam cấp thẩm định, khong có quan an nam bồi thẩm, Tòa ấy sẽ cử một quan thẩm nghị trong ban thứ nhì, nếu không thì do quan viện – trưởng Tòa Thượng thẩm chọn một quan thẩm nghị khác để cho đủ số ba quan án mà thẩm định. Thủ tục cũng giống như thủ tục thi hành cho quan thẩm phán An nam. Nếu quan thẩm phán Đại Pháp xin hồi tị hay là bị cáo tị chính là quan chánh án hay là quan thẩm phán đệ tam cấp, thì thủ tục sẽ chiếu theo thể lệ trong luật Đại Pháp [5]. Như vậy, cũng như các qui phạm pháp luật khác, luật tố tụng hình sự thời kỳ Pháp thuộc là công cụ của nhà nước thực dân phong kiến để đàn áp giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó bị ảnh hưởng và chịu sự chi phối của pháp luật tư sản Pháp, cho nên những qui định của luật tố tụng hình sự ở Việt Nam là sự sao chép luật tố tụng hình sự của Pháp. Chính vì vậy một số nguyên tắc dân chủ của pháp luật tư sản đã hiện diện trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thời kỳ này như: Phân định thẩm quyền rõ ràng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó tòa án là cơ quan đại diện cho quyền tư pháp, có chức năng xét xử nói chung và xét xử hình sự nói riêng, tòa án xét xử theo nguyên tắc độc lập, tính khách quan của quá trình giải quyết vụ án được coi trọng; Cơ quan công tố được hình thành và Viện công tố là một bộ phận của Tòa án có chức năng truy tố người phạm tội ra trước tòa án; Những hoạt động điều tra được giao cho cơ quan cảnh sát dưới sự chỉ đạo của cơ quan công tố. Các nguyên tắc độc lập tư pháp, nguyên tắc khách quan, công bằng trong hoạt động tố tụng hình sự, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được qui định. Tài liệu tham khảo [1] Phan Huy Lê, “Lê Thánh Tông 1442- 1479 con người và sự nghiệp”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997. [2] Quốc triều hình luật, NXB thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003. [3] Bộ Tư pháp, Quốc triều hình luật, những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Viện khoa học pháp lý, NXB Tư pháp, 2008. [4] Hoàng Việt luật lệ, NXB Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 1994. [5] Bắc kỳ Pháp viện biên chế năm 1921, Bibliothèque Le Van Phuc, Hà Nội, 1922. T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 13-19 19 Principle of the Equity Warranty of the Proceeding People and Participants in Vietnam Criminal Procedure Code Issued by Feudal Government and French Colonial Authority Trần Thu Hạnh VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam Abstract: The equity warranty of the proceeding people and participants in criminal procedure code is one of the most important principles for ensuring that cases are judged objectively and justly. Hence, even in the feudal and French colonial periods, despite their historical limitations this principle was concerned and recognized. Keywords: Equity, criminal procedure, proceeding, rejection, change, basis.
File đính kèm:
- nguyen_tac_bao_dam_su_vo_tu_cua_nguoi_tien_hanh_to_tung_va_n.pdf