Nhật Bản, trân châu cảng và chiến tranh
Tóm tắt Nhật Bản, trân châu cảng và chiến tranh: ...u vận tải, 60.000 tàu đổ bộ và 86.000 xe tăng. Phụ nữ Mỹ, được thể hiện qua hình ảnh tiêu biểu của cô thợ tán đinh Rosie, đã có những đóng góp quan trọng hơn bao giờ hết vào sản xuất công nghiệp. Tổng số binh sỹ trong quân đội Mỹ tính đến cuối cuộc chiến là khoảng 12 triệu người. Tất cả các ... và Đức đã chạm trán nhau không phân thắng bại tại Libi và Ai Cập để giành quyền kiểm soát kênh đào Suez. Vào ngày 23/10, quân đội Anh, dưới sự chỉ huy của Tướng Bernard Montgomery đã đẩy lùi quân Đức khỏi El Alamein. Được trang bị 1000 xe tăng, mà phần lớn do Mỹ sản xuất, sau hai tuần giao ...i quân lớn hơn nhiều, ra khỏi mặt trận Liên bang Xô-viết. Tướng Mỹ Dwight D.Eisenhower được cử làm Tư lệnh Tối cao các lực lượng Đồng minh ở châu Âu. Sau những đợt chuẩn bị công phu, ngày 6/6/1944, liên quân Mỹ, Anh, Canada được lực lượng không quân bảo vệ đã đổ bộ lên năm bãi biển ở vùng...
NHẬT BẢN, TRÂN CHÂU CẢNG VÀ CHIẾN TRANH Trong khi phần lớn người Mỹ đang lo lắng theo dõi diễn biến cuộc chiến ở châu Âu, thì sự căng thẳng lại leo thang ở châu Á. Lợi dụng cơ hội tăng cường vị trí chiến lược của mình, nước Nhật đã táo tợn tuyên bố về một trật tự mới, theo đó, nước Nhật sẽ chiếm vị thế bá chủ ở khu vực Thái Bình Dương. Trong khi giao chiến chống lại Đức Quốc xã, nước Anh đã không thể kháng cự lại và buộc phải rút lui khỏi Thượng Hải, rồi tạm thời ngừng trợ giúp cho Trung Hoa thông qua con đường từ Miến Điện. Vào mùa hè năm 1940, Nhật Bản đã được Chính phủ Vichy đang suy yếu của nước Pháp cho phép được sử dụng các sân bay ở Bắc Đông Dương (Bắc Việt Nam). Đến tháng 9, người Nhật đã chính thức liên minh với trục Rome - Berlin. Nước Mỹ đã phản đối bằng cách cấm vận xuất khẩu phôi thép sang Nhật Bản. Tháng 7/1941, quân Nhật chiếm Nam Đông Dương (miền Nam Việt Nam), báo hiệu ý định của Nhật Bản muốn hướng về phía nam để nhòm ngó các mỏ dầu, đồn điền cao su, các mỏ thiếc của Malaysia thuộc Anh và vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan. Đáp lại, nước Mỹ đã phong tỏa tài sản của Nhật Bản và tiến hành cấm vận hàng hóa quan trọng bậc nhất đối với nước Nhật là dầu mỏ. Tướng Hideki Tojo đã trở thành Thủ tướng Nhật Bản vào tháng 10/1941. Vào giữa tháng 11, ông đã cử đặc phái viên tới Mỹ để gặp Ngoại trưởng Cordell Hull. Trong số những vấn đề được thảo luận, Nhật yêu cầu Mỹ giải phóng các tài sản của Nhật và ngừng mở rộng lực lượng hải quân Mỹ trên Thái Bình Dương. Ngoại trưởng Hull đáp lại đòi hỏi này bằng việc yêu cầu Nhật ngưng tất cả các cuộc chinh phục của mình. Nhật Bản đã thẳng thừng bác bỏ yêu cầu trên vào ngày 1/12, khiến các cuộc đối thoại rơi vào bế tắc. Sáng ngày 7/12, nhiều máy bay xuất phát từ tàu sân bay Nhật đã triển khai một cuộc tấn công bất ngờ hủy diệt toàn bộ hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tại Trân Châu Cảng, Hawaii. 21 tàu chiến Mỹ đã bị hủy diệt hoàn toàn hoặc bị tàn phá nặng nề, 323 máy bay Mỹ bị phá hủy; 2388 lính, thủy thủ và công dân Mỹ đã thiệt mạng. Tuy nhiên, các tàu sân bay Mỹ có vai trò quyết định trong cuộc chiến hải quân sau này trên Thái Bình Dương lại đang ở ngoài khơi và không buông neo ở Trân Châu Cảng vào thời điểm xảy ra cuộc tấn công. Người Mỹ, vốn vẫn còn có những quan điểm khác nhau về cuộc chiến ở châu Âu, chỉ sau một đêm đã hoàn toàn thống nhất lời mà trước đây Tổng thống Roosevelt nói - là một ngày ô nhục. Vào ngày 8/12, Quốc hội Mỹ đã tuyên chiến với Nhật Bản; ba ngày sau đó Đức và Italia đã tuyên chiến với Hoa Kỳ. TỔNG ĐỘNG VIÊN CHO CUỘC CHIẾN Nước Mỹ đã nhanh chóng thích ứng với việc động viên dân chúng và huy động toàn bộ ngành công nghiệp của đất nước cho cuộc chiến tranh. Sau ba năm rưỡi, ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh đã đạt được những những mục tiêu sản xuất đáng kinh ngạc: 300.000 máy bay, 5.000 tàu vận tải, 60.000 tàu đổ bộ và 86.000 xe tăng. Phụ nữ Mỹ, được thể hiện qua hình ảnh tiêu biểu của cô thợ tán đinh Rosie, đã có những đóng góp quan trọng hơn bao giờ hết vào sản xuất công nghiệp. Tổng số binh sỹ trong quân đội Mỹ tính đến cuối cuộc chiến là khoảng 12 triệu người. Tất cả các hoạt động của quốc gia như trồng trọt, sản xuất, khai thác mỏ, buôn bán, lao động, đầu tư, truyền thông, thậm chí giáo dục và văn hóa, trên một khía cạnh nào đó đều được diễn ra dưới sự kiểm soát mới và trên phạm vi rộng. Vì hậu quả của cuộc tấn công Trân Châu Cảng và nỗi khiếp sợ đối với các gián điệp châu Á, người Mỹ đã phạm phải một hành động mà sau này bị đánh giá là thiếu khoan dung: đó là việc giam giữ những người Mỹ gốc Nhật. Tháng 2/1942, gần 120.000 người Mỹ gốc Nhật sống ở California đã bị cưỡng bức rời khỏi nhà của họ và bị giam giữ đằng sau hàng rào dây thép gai trong 10 khu trại tạm giam, sau đó, họ bị chuyển tới các trung tâm tái định cư ở ngoại vi các thành phố biệt lập ở miền Tây Nam nước Mỹ. Gần 63% người Mỹ gốc Nhật này được sinh ra trên đất Mỹ và là công dân Mỹ. Một số ít trong số họ là người Nhật nhưng không có bằng chứng nào chứng tỏ họ có hoạt động gián điệp. Những người khác thì tình nguyện tòng quân cho quân đội Mỹ và đều chiến đấu rất xuất sắc và can đảm trong hai đơn vị bộ binh tại mặt trận Italia. Một số khác làm phiên dịch và biên dịch trên các hạm đội Thái Bình Dương. Vào năm 1983, Chính phủ Mỹ đã công nhận sự bất công trong việc giam giữ này và đã trả một khoản tiền bồi thường lớn cho những người Mỹ gốc Nhật hiện còn sống và đã phải chịu đựng những bất công tại thời điểm đó. CUỘC CHIẾN Ở BẮC PHI VÀ CHÂU ÂU Không lâu sau khi Hoa Kỳ tham chiến, Mỹ, Anh và Liên Xô (trong cuộc chiến tranh với Đức từ ngày 22/6/1941) đã quyết định rằng các nỗ lực quân sự chính của họ phải tập trung ở châu Âu. Trong năm 1942, quân đội Anh và Đức đã chạm trán nhau không phân thắng bại tại Libi và Ai Cập để giành quyền kiểm soát kênh đào Suez. Vào ngày 23/10, quân đội Anh, dưới sự chỉ huy của Tướng Bernard Montgomery đã đẩy lùi quân Đức khỏi El Alamein. Được trang bị 1000 xe tăng, mà phần lớn do Mỹ sản xuất, sau hai tuần giao chiến, quân Anh đã đánh bại quân Đức do Tướng Erwin Rommel chỉ huy. Ngày 7/11, quân đội Mỹ và Anh đã đổ bộ lên vùng thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi. Bị kẹt giữa các đội quân đang tiến đến từ cả phía Đông và phía Tây, quân Đức, sau khi chống trả dữ dội, đã đầu hàng vào tháng 5/1943. Năm 1942 cũng là bước ngoặt trên mặt trận phía Đông nơi Liên Xô, sau khi phải chịu những tổn thất nặng nề, đã chặn đứng cuộc xâm lăng của quân Đức Quốc xã tại cửa ngõ thành Lê-nin-gờ-rát và Matx-cơ-va. Mùa đông năm 1942- 1943, Hồng quân đã đánh bại quân Đức ở Stalingrat (Volgograd) và bắt đầu cuộc phản công trường kỳ đẩy lùi quân Đức Quốc xã rút lui về Berlin năm 1945. Tháng 7/1943, quân đội Anh và Mỹ đã tấn công đảo Sicil và trong tháng đó, đã kiểm soát được toàn bộ đảo này. Trong thời gian này, Benito Mussolini đã từ chức ở Italia. Người kế nhiệm ông bắt đầu đàm phán với lực lượng Đồng minh và lập tức trao trả lại các vùng đất mà quân đội Italia đã đánh chiếm hồi tháng 9. Tuy nhiên, quân đội Đức Quốc xã vẫn còn đang kiểm soát bán đảo Italia. Cuộc chiến đấu chống lực lượng Đức Quốc xã ở Italia thực sự gian khổ và lâu dài. MÃi đến ngày 4/6/1944, thành Rome mới được giải phóng. Trong lúc tiến quân chậm chạp về phía Bắc, quân Đồng minh đã xây dựng các sân bay để từ đó tiến hành các vụ không kích ác liệt nhằm vào hệ thống đường sắt, nhà máy và các kho vũ khí tại miền Nam nước Đức và Trung Âu, trong đó có cả những kho cấp dầu ở Ploesti, Rumani. Cuối năm 1943, sau nhiều cuộc tranh luận về chiến lược, quân Đồng minh đã quyết định mở mặt trận trên đất Pháp, buộc quân Đức phải rút các đội quân lớn hơn nhiều, ra khỏi mặt trận Liên bang Xô-viết. Tướng Mỹ Dwight D.Eisenhower được cử làm Tư lệnh Tối cao các lực lượng Đồng minh ở châu Âu. Sau những đợt chuẩn bị công phu, ngày 6/6/1944, liên quân Mỹ, Anh, Canada được lực lượng không quân bảo vệ đã đổ bộ lên năm bãi biển ở vùng Normandy. Sau khi giành được các vị trí đầu cầu trên các bờ biển sau những trận đánh ác liệt, nhiều đơn vị khác đã tiếp tục đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp và khiến quân Đức phải rút lui hết trận này đến trận khác. Vào ngày 25/8, thành phố Paris đã được giải phóng. Các cuộc phản công của quân Đồng minh đã bị chững lại vào mùa thu năm đó, và sau đó đi xuống tại miền Đông nước Bỉ trong suốt mùa đông năm đó. Tuy nhiên, tới tháng 3, liên quân Anh - Mỹ đã vượt qua sông Ranh, còn Hồng quân Liên Xô vẫn tiếp tục tiến lên không ngừng từ phía Đông. Vào ngày 7/5, nước Đức Quốc xã đã đầu hàng vô điều kiện. Trả Lời Với Trích Dẫn Trả Lời Với Trích Dẫn Like Tặng Vàng 03-02-2010 04:44 PM #69 trucmuoi Á Quân Thơ Thu Đông BBP 2008 trucmuoi's Avatar Tham gia ngày Jul 2007 Bài gởi 2,277 Tài sản (Vàng) 11,385 Say 'Thank You!' for this post. : 0 For This Post 6 tổng số Cảm Ơn 0 Được Cảm Ơn 114 lần trong 113 Bài Viết Vàng 11,385 CUỘC CHIẾN TRÊN THÁI BÌNH DƯƠNG Tuy các binh đội Mỹ đã bị bắt buộc phải đầu hàng ở Philippin vào đầu năm 1942, nhưng đội quân Mỹ đã hồi phục vào những tháng sau đó. Tướng James Jimmy Doolitle đã chỉ huy không quân Mỹ ném bom Tokyo vào tháng 4. Tuy cuộc tấn công đó có ít giá trị quân sự trên thực tế, nhưng nó đã đem lại cho quân đội Mỹ một sự củng cố mạnh mẽ về tâm lý. Vào tháng 5, trong trận đánh ở biển San hô - trận thủy chiến đầu tiên trong lịch sử mà tất cả các cuộc ném bom đều do phi cơ trên tàu sân bay tiến hành - một hạm đội tàu chiến Nhật được cử đi tấn công Australia và New Ghinê đã buộc phải quay về trước sức tấn công giáp lá cà của lực lượng đặc nhiệm Mỹ. Một vài tuần sau đó, trận đánh Midway tại Trung Thái Bình Dương đã khiến Hải quân Nhật phải chịu thất bại lớn đầu tiên trong lịch sử, trong đó Hải quân Nhật đã mất bốn tàu sân bay. Nhờ việc chấm dứt sự tiến quân của Nhật Bản ngang qua Trung Thái Bình Dương, nên trận Midway đã được coi là một bước ngoặt quan trọng. Những trận đánh khác cũng góp phần vào thắng lợi của phe đồng minh. Trận đánh kéo dài sáu tháng trên đất liền và các trận đánh trên biển chiếm đảo Guadalcanal (từ tháng 8/1942 đến tháng 2/1943) là chiến thắng quan trọng đầu tiên của quân đội Mỹ, góp phần vào thắng lợi của Mỹ trên biển Thái Bình Dương. Trong hai năm sau đó, liên quân Mỹ - Australia đã chiến đấu mở đường lên phía bắc, dọc theo chiếc thang nối gồm các đảo Trung Thái Bình Dương và sau đó, chiếm được các quần đảo Solomons, Gilberts, Marshalls và Marianas bằng một loạt các cuộc đột kích của lính thủy đánh bộ.
File đính kèm:
- nhat_ban_tran_chau_cang_va_chien_tranh.pdf