Những mô hình hợp tác liên kết trong sản xuất gỗ nguyên liệu cho công nghiệp giấy

Tóm tắt Những mô hình hợp tác liên kết trong sản xuất gỗ nguyên liệu cho công nghiệp giấy: ... giao 788,33 Tuy nhiên, kết quả điều tra các hộ gia đình cho thấy rằng: diện tích rừng trồng của các hộ rất phân tán, diện tích trồng rừng nhỏ nhất là 0,2 ha và lớn nhất là 3,7 ha với các cấp tuổi rừng trồng khác nhau. Điểm lợi thế của sự phân tán này là khai thác tối đa hoá lao động của ...đổi nếu chất lượng rừng thay đổi dựa vào kết quả đánh giá nhiệm thu từng giai đoạn của chu kỳ kinh doanh. Trong trường hợp sản lượng gỗ vượt quá khối lượng phải hoàn trả cho Lâm trường thì các hộ được quyền bán theo giá thoả thuận nhưng không được thấp hơn giá quy định của tỉnh để đảm bảo lợ...ra vùng nguyên liệu, một số mô hình hợp tác liên kết trồng rừng như nêu trên đã giải quyết được sự manh mún trong sản xuất GNL và thể hiện vai trò quan trọng "dịch vụ 2 đầu" của Lâm trường. Trên cơ sở của những liên kết hợp tác này, các Lâm trường trồng rừng đang phát triển, áp dụng các mô h...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Những mô hình hợp tác liên kết trong sản xuất gỗ nguyên liệu cho công nghiệp giấy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những mô hình hợp tác liên kết trong sản xuất 
gỗ nguyên liệu cho công nghiệp giấy 
Nguyễn Thị Lai, Hoàng Liên Sơn, §Æng §×nh Kh¶i 
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 
Tiến trình hội nhập kinh tế thế giới là một thách thức lớn đối với hầu hết các 
ngành sản xuất của nước ta, trong đó tăng cường sức cạnh tranh của ngành giấy chuẩn 
bị hội nhập là một ưu tiên cấp bách. Một trong những khâu giúp cho sản xuất giấy có 
lãi là "bài toán" của nguyên liệu đầu vào, sao cho giảm được giá gỗ nguyên liệu tại 
cổng nhà máy nhưng phải bảo đảm lợi ích kinh tế cho người trồng rừng. 
Vì thế, ngành giấy và ngành lâm nghiệp, ngành sản xuất ra các loại cây nguyên 
liệu cho sản xuất bột giấy và ván nhân tạo, cần phải nhìn nhận một cách đầy đủ hơn 
cho chiến lược phát triển gỗ nguyên liệu (GNL) cho công nghiệp giấy và ván nhân tạo 
từ công nghệ đến chính sách. 
Bài viết này là một phần của đề tài “Nghiên cứu chính sách phát triển thị 
trường gỗ nguyên liệu cho công nghiệp giấy và gỗ ván nhân tạo” được thực hiện 
tại Huyện Thanh Sơn để nghiên cứu tác động của một chính sách tới tình hình sản 
xuất GNL và chỉ ra một số mô hình hợp tác liên kết nhằm khắc phục sự manh mún 
trong sản xuất gỗ nguyên liệu cho công nghiệp giấy. 
1. Đặc điểm chung về điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội và giao đất nông - lâm 
nghiệp 
Địa điểm nghiên cứu đựơc lựa chọn là huyện Thanh Sơn, huyện được đánh giá 
có tiềm năng lớn nhất cho sản xuất GNL của tỉnh Phú Thọ. Các lâm trường trồng 
rừng GNL hoạt động trên địa bàn 40 xã và nằm dọc theo tuyển quốc lộ 32 a - 32 b và 
tỉnh lộ 316 tập trung chủ yếu ở phía Tây Bắc. Trình độ dân trí của các vùng phát triển 
không đồng đều; có 25 dân tộc sinh sống, trong đó chủ yếu là người dân tộc Mường, 
Kinh, Dao. Theo báo cáo đánh giá công tác giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử 
dụng (GCNQSD) đất nông nghiệp, lâm nghiệp và đất ở cho các hộ gia đình thì Thanh 
Sơn là một huyện làm tốt công tác này, được thể hiện ở biểu sau 
Biểu 1: Kết quả giao đất và cấp GCNQSDĐ của huyện Thanh Sơn 
Loại đất Số HGĐ 
được cấp 
GCNQSDĐ 
Diện tích 
cần cấp 
(ha) 
Diện tích đã 
cấp (ha) 
Tỷ lệ so 
sánh (%) 
Đất nông 
nghiệp 
31749 10334 10334 100 
Đất lâm 
nghiệp 
11425 84257 74118 88 
Đất ở 31556 1149 1090 94,9 
 Nguồn: Báo cáo kết quả giao đất và cấp GCNQSD đất. Sở NN & PTNT Phú thọ 
Từ kết quả giao đất và cấp giấy CNQSD đất cho thấy rằng: Toàn bộ diện tích 
đất nông nghiệp được giao đã cấp giấy CNQSDĐ cho 31749 hộ gia đình, trong khi đó 
diện tích đất lâm nghiệp đã giao được cấp giấy CNQSD đất chỉ chiếm 88%. Theo 
đánh giá của các cán bộ địa phương, nguyên nhân của sự chậm trễ cấp giấy CNQSD 
đất lâm nghiệp là do một số nơi trong huyện giao đất lâm nghiệp theo nhóm hộ gia 
đình và thủ tục cũng như ranh giới đất lâm nghiệp được giao giữa các hộ gia đình 
không rõ ràng. Điều này làm cản trở cơ hội tham gia trồng rừng GNL của các hộ khi 
giấy CNQSD đất lâm nghiệp được coi như là một điều kiện cần để bảo lãnh vốn đầu 
tư và hợp tác trồng rừng với các Lâm trường trồng rừng GNL trên địa bàn huyện. 
 Kết quả điều tra tại 2 xã Thu Cúc và Thu Ngạc của huyện Thanh Sơn cho thấy: 
Diện tích và cơ cấu đất đai của 2 xã được mô tả như biểu 2. Phần lớn diện tích tự 
nhiên của 2 xã là đất lâm nghiệp, chiếm tới trên 70 % tổng diện tích tự nhiên và đã 
được giao cho các hộ gia đình và Lâm trường trồng rừng NLG Tam Sơn. Đặc biệt, 
toàn bộ diện tích đất lâm nghiệp của xã Thu Ngạc được giao cho các hộ gia đình xã 
viên, trong khi tại xã Thu Cúc gần 50 % diện tích đất lâm nghiệp thuộc quyền sử 
dụng của Lâm trường và được giao cho các hộ thành viên của Lâm trường. Chỉ còn 
một diện tích đất lâm nghiệp rất nhỏ, 788,33 ha chưa giao cho các hộ. 
Biểu 2: Diện tích và cơ cấu các loại đất 
Xã Thu Cúc Xã Thu Ngạc 
Các loại đất 
Diện tích 
(ha) 
Tỷ lệ 
(%) 
Diện tích 
(ha) 
Tỷ lệ 
(%) 
Tổng diện tích tự 
nhiên 
10030 100 4404 100 
Đất nông nghiệp 773,98 7,7 711 16,2 
Đất lâm nghiệp 7313,13 72,9 3093 70,2 
Đất khác 1942,89 19,4 600 13,6 
Đối tượng quản lý 
đất lâm nghiệp 
Lâm 
trường 
Hộ gia 
đình 
Lâm 
trường 
Hộ gia 
đình 
Đất LN được giao 3483 3041,8 3093 
Đất LN chưa được 
giao 
788,33 
Tuy nhiên, kết quả điều tra các hộ gia đình cho thấy rằng: diện tích rừng trồng 
của các hộ rất phân tán, diện tích trồng rừng nhỏ nhất là 0,2 ha và lớn nhất là 3,7 ha 
với các cấp tuổi rừng trồng khác nhau. Điểm lợi thế của sự phân tán này là khai thác 
tối đa hoá lao động của hộ gia đình, các hộ không phải thuê mướn thêm lao động bên 
ngoài, phù hợp với phân bổ lao động thời vụ của các hộ và tạo ra công ăn việc làm 
thường xuyên cho họ. Nhưng điểm bất lợi là khó khăn trong khai thác, vận xuất gỗ 
hàng hoá ra bãi 1, phải chi phí cao cho việc bảo vệ rừng trong suốt chu kỳ kinh doanh 
và ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật. Vì vậy, những điểm bất lợi này cần được khắc 
phục là yêu cầu bức bách của vùng sản xuất GNL. Sự công bằng theo nghĩa hẹp của 
lối tư duy sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc là nguyên nhân chính dẫn đến sự manh mún của 
đất lâm nghiệp được giao. Bên cạnh đó là sự thiếu trách nhiệm trong quá trình giao 
đất dẫn đến những xung đột về ranh giới đất đai giữa các hộ mà những người trồng 
rừng cho biết: "Có nhiều nơi không thể tiến hành hợp tác liên kết trồng rừng đựơc bởi 
sự tranh chấp về đất đai". Kết quả là hầu như không có một trường hợp nào các hộ gia 
đình muốn tự bỏ vốn hoặc vay vốn trồng rừng mà chủ yếu liên doanh liên kết với 
Lâm trường để trồng rừng GNL để giảm bớt những chi phí không hợp lý. 
2. Cơ chế hợp tác trồng rừng GNL giữa các hgđ và lâm trường 
Điều kiện cần đầu tiên để các hộ nông dân và hộ thành viên lâm trường tham gia 
trồng rừng là phải có đất lâm nghiệp được giao (Có GCNQSD đất hoặc xác nhận của 
UBND là đất không có tranh chấp) hoặc được lâm trường giao khoán sử dụng đất lâm 
nghiệp lâu dài. 
a. Mô hình hợp tác trồng rừng GNL 
Điều khoản ràng buộc thể hiện trách nhiệm được thể hiện trong bản cam kết 
hợp tác giữa hai bên. Một bên là các hộ gia đình có đất lâm nghiệp và lâm trường. 
Lâm trường Tam Sơn đặt ra 3 mức khoán sàn sản phẩm tuỳ thuộc vào điều kiện đất 
đai, kinh nghiệm sản xuất lâm nghiệp và sự tích cực của các hộ gia đình. 
Đối với cây lấy gỗ: Lâm trường (Nhà đầu tư và bao tiêu sản phẩm) đưa ra 4 phương 
án lựa chọn đầu tư với giá bình quân 1 m3 gỗ tại bãi 1 là 65.600 đồng. 
o Phương án 1: 3.280.000 đồng/ha cho một chu kỳ sản xuất 8 năm. Rừng chất 
lượng trung bình, sản lượng thu hồi 50 m3/ha. 
o Phương án 2: 3.920.000 đồng/ha. Rừng chất lựơng khá, sản lượng thu hồi 
60m3/ha. 
o Phương án 3: 4.560.000 đồng/ha. Rừng chất lựơng khá, sản lượng thu hồi 
70m3/ha. 
o Phương án 4: 4.800.000 đồng/ha. Rừng chất lựơng khá, sản lượng thu hồi 
75m3/ha, nhưng mức này thường áp dụng cho các hộ thành viên công nhân Lâm 
trường. 
 Các HGĐ sẽ lựa chọn một phương án để nhận mức đầu tư và trả khối lượng sản 
phẩm theo phương án đã lựa chọn. Mức đầu tư có thể sẽ thay đổi nếu chất lượng rừng 
thay đổi dựa vào kết quả đánh giá nhiệm thu từng giai đoạn của chu kỳ kinh doanh. 
Trong trường hợp sản lượng gỗ vượt quá khối lượng phải hoàn trả cho Lâm trường thì 
các hộ được quyền bán theo giá thoả thuận nhưng không được thấp hơn giá quy định 
của tỉnh để đảm bảo lợi ích cho người trồng rừng. 
b. Mô hình Lâm trường thuê đất liên kết HGĐ trồng rừng GNL 
o Đất trồng rừng 
o Lao động 
o Trả khối lượng s.phẩm theo P.án 
lựa chọn 
o Bảo vệ rừng trồng 
o Thực hiện Khai thác, v. xuất ra bãi 
1 
Hộ trồng rừng GNL Lâm trường 
(Nhà đầu tư và bao tiêu 
sản phẩm) 
o Đ.tư tín dụng 
o D.vụ kỹ thuật 
o Đưa ra phương án lựa chọn đầu 
tư 
o Giám sát và đánh giá 
o Chi phí khai thác 
o Bao tiêu sản phẩm theo p.án lựa 
chọn và phần dư dôi 
Dòng s.phẩm và lợi ích 
Dòng đ.tư và lợi ích 
Q.định 
p.án đ.tư 
Chọn p.án 
Đ.khoản 
ràng buộc 
Mô hình 1: Hợp tác liên kết trồng rừng với Lâm trường 
 Trong mô hình lâm trường thuê đất liên kết HGĐ trồng rừng GNL thì ngoài 
những mức đầu tư như đã nêu ở trên, Lâm trường phải trả 200.000 đồng/ha tiền thuê 
đất cho một chu kỳ kinh doanh 8 năm. Khi đó, Lâm trường sẽ là người cung cấp đất 
trồng rừng. Các hộ gia đình phải trả khoán chi phí thuê đất nay nên giá bình quân 1m3 
gỗ tại bãi 1 ước tính sẽ giảm xuống, dao động từ 58.000 - 60.000 đồng. 
c. HGĐ thuê đất liên kết lâm trường trồng rừng GLN 
Kết quả điều tra cũng phản ánh thêm một mô hình hợp tác liên kết trồng rừng 
GNL, khi đó HGĐ là người thuê đất để liên kết trồng rừng với Lâm trường. Đối 
tượng thuê đất chủ yếu là các hộ thành viên lâm trường, những người có kinh nghiệm 
trong lĩnh vực sản xuất lâm nghiệp và dự đoán được thị trường sản phẩm đầu ra trong 
sự trợ giúp bao tiêu sản phẩm của Lâm trường. Trong một số trường hợp để đảm bảo 
tư cách pháp nhân giữa các bên, các hộ gia đình đề nghị Lâm trường là người đại diện 
đứng ra thuê đất còn chi phí sẽ do các hộ thuê trả. Số tiền thuê đất sẽ được thanh toán 
vào năm đầu tiên của chu kỳ kinh doanh. 
o Lao động 
o Trả tiền thuê đất 1 chu kỳ k.doanh 
o Trả khối lượng s.phẩm theo P.án 
lựa chọn 
o Bảo vệ rừng trồng 
o Thực hiện khai thác, v. xuất ra bãi 1 
Hộ trồng rừng GNL Lâm trường 
(Nhà đầu tư và bao tiêu 
sản phẩm) 
o Đ.tư tín dụng 
o Cấp đất trồng rừng 
o D.vụ kỹ thuật 
o Đưa ra phương án lựa chọn đầu tư 
o Giám sát và đánh giá 
o Chi phí khai thác, vận xuất 
o Bao tiêu sản phẩm theo p.án lựa 
chọn và phần dư dôi 
Dòng s.phẩm và lợi ích 
Dòng đ.tư và lợi ích 
Q.định 
p.án đ.tư 
Chọn p.án 
Đ.khoản 
ràng buộc 
Người cho thuê đất 
Mô hình 2: Lâm trường thuê đất liên kết HGĐ trồng rừng 
2. Kết luận 
Kết quả nghiên cứu khởi đầu tại huyện Thanh Sơn, Phú Thọ cho thấy khu vực 
kinh tế Nhà nước vẫn là lực lượng chủ yếu tạo ra vùng nguyên liệu, một số mô hình 
hợp tác liên kết trồng rừng như nêu trên đã giải quyết được sự manh mún trong sản 
xuất GNL và thể hiện vai trò quan trọng "dịch vụ 2 đầu" của Lâm trường. Trên cơ sở 
của những liên kết hợp tác này, các Lâm trường trồng rừng đang phát triển, áp dụng 
các mô hình hợp tác với từng nhóm hộ gia đình có diện tích đất lâm nghiệp được giao 
liền lô, khoảnh tạo nên những lô rừng GNL cùng cấp tuổi thuận lợi cho việc bảo vệ 
và khai thác, vận xuất. Kết quả của nghiên cứu này thực chất là phản ánh tác động 
của chính sách giao đất, giao rừng; chính sách giao khoán rừng và đất lâm nghiệp; 
chính sách đầu tư; chính sách đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý Lâm trường quốc 
doanh tới quá trình phát triển vùng nguyên liệu. Xét về khía cạnh thị trường, điều này 
chính là tác động tới tiềm năng cung gôc nguyên liệu. Nhưng với các mức đầu tư ban 
đầu như trên vẫn không đủ hấp dẫn các HGĐ nâng cao mức đầu tư thâm canh tăng 
năng suất rừng trồng mặc dù họ sẽ được hưởng toàn bộ lợi ích trong trường hợp sản 
o Đất trồng rừng được thuê 
o Lao động 
o Trả khối lượng s.phẩm theo P.án 
lựa chọn 
o Bảo vệ rừng trồng 
o Thực hiện khai thác, v. xuất ra bãi 1 
Hộ trồng rừng GNL Lâm trường 
(Nhà đầu tư và bao tiêu 
sản phẩm) 
o Đ.tư tín dụng 
o D.vụ kỹ thuật 
o Đưa ra phương án lựa chọn đầu 
tư 
o Giám sát và đánh giá 
o Chi phí khai thác 
o Bao tiêu sản phẩm theo p.án lựa 
chọn và phần dư dôi 
Dòng s.phẩm và lợi ích 
Dòng đ.tư và lợi ích 
Q.định 
p.án đ.tư 
Chọn p.án 
Đ.khoản 
ràng buộc 
Người cho thuê đất 
Mô hình 3: HGĐ thuê đất liên kết Lâm trường trồng rừng 
lượng gỗ vượt quá khối lượng phải hoàn trả cho Lâm trường. Bên cạnh đó, thị trường 
GNL trong vùng nghiên cứu luôn rất sôi động vì gỗ nguyên liệu giấy có thể được sử 
dụng làm nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác như: cột chống cho xây dựng, dăm 
mảnh và củi nên các HGĐ có thể sẽ phá hợp đồng với Lâm trường. Và đây chính là lý 
do dẫn đến khó khăn trong công tác thu hồi sản phẩm của Lâm trường. Vi thế, để thấy 
rõ hơn ý nghĩa của những mô hình hợp tác liên kết, các lâm trường cần xác định 
chính xác năng suất rừng trồng tương xứng với tiềm năng từng loại đất rừng, lựa chọn 
giống có năng suất cao, đồng thời xây dựng kênh lưu thông GNL có hiệu quả nhằm 
giảm bớt những chi phí trung gian. Từ đó, có phương án nâng cao mức đầu tư ban 
đầu cho các hộ để bảo đảm lợi ích kinh tế và thu hút nhiều hơn nữa sự tham gia của 
họ trồng rừng GNL giấy. 
Tài liệu tham khảo 
1. Đặng Đình Khải và Hoàng Liên Sơn, 2003. Kết quả nghiên cứu khảo sát Tỉnh 
Phú THọ. Đề tài: Nghiên cứu chính sách phát triển thị trường gỗ nguyên liệu 
cho công nghiệp giấy và gỗ ván nhân tạo, 2003. chưa xuất bản. 
2. Hồ Khánh Thiện, 2003. Giấy ngoại chèn “rách” giấy nội. Thời báo kinh tế Việt 
Nam. Số 133. 
3. Nguyễn Thị Lai, 2003. Nghiên cứu chính sách phát triển thị trường gỗ nguyên 
liệu cho công nghiệp giấy và gỗ ván nhân tạo. Chưa xuất bản. 
4. Sở NN & PTNT Phú Thọ, 2002. Báo cáo kết quả giao đất và cấp GCNQSD 
đất. 
Summary 
 Content of the paper is part of the results of an initial study in Thanh Son district, Phu 
Tho province on joint undertaking models aiming at solving the fragmented production 
as raw material for paper industry. The finding of the study show the impact of the forest 
and forest land allocation policy and the policy renovation of the organizational make-up 
and management mechanism of State-owned forest enterprises on the development of 
the raw material region. To make known more clearly the significance of the joint 
undertaking models, the investors (Forest planting enterprises) should ascertain precisely 
the forest plantation productivity equivalent to the potentiality of each type of forest soil, 
select the planting stock of high productivity at the same time develop effective channels 
of wood raw material circulation aiming at reduction of intermediary costs and then a 
plan is devised to raise the initial investment rate for the households, ensuring economic 
benifits to further attract the participation of the households engaged in forest planting 
for paper raw material supply 

File đính kèm:

  • pdfnhung_mo_hinh_hop_tac_lien_ket_trong_san_xuat_go_nguyen_lieu.pdf