Nứt nẻ trong bê tông xi măng, nguyên nhân và một số giải pháp phòng tránh, khắc phục
Tóm tắt Nứt nẻ trong bê tông xi măng, nguyên nhân và một số giải pháp phòng tránh, khắc phục: ...kia. Có khá nhiều nguyên nhân gây ra khuyết tật rỗ tổ ong và chủ yếu tồn tại trong giai đoạn thi công: - Do vữa bê tông bị phân tầng trong quá trình vận chuyển, đổ và đầm bê tông; - Do độ dày của bê tông quá lớn vượt quá phạm vi ảnh hưởng tác dụng của đầm; - Do vữa bê tông trộn không...t có dạng đường khép kín Vùng gối tựa của cấu kiện chịu uốn. Vết nứt dọc không xuyên suốt Cấu kiện chịu nén Bảng 2. Vết nứt do tác động của ngoại lực trong bản sàn toàn khối [5] 3. Giải pháp phòng ngừa, khắc phục 3.1. Nguyên tắc và nội dung xử lý khuyết tật 3....ờng độ. ■ Trường hợp 2: Phạm vi và kích thước vết nứt lớn, cấu kiện bê tông cốt thép nguy hiểm có thể sử dụng một số giải pháp sau đây: - Phương pháp bao bọc vị trí hư hỏng bằng bê tông hoặc bê tông cốt thép; - Phương pháp dùng bản thép gia cường (dán bản thép); - Phương pháp dùng bê...
rỗ tổ ong sẽ làm tiết diện chịu lực tại vị trí rỗ thu hẹp do đó giảm khả năng chịu lực của kết cấu, tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường xâm thực vào phá hoại cốt thép, phá hoại liên kết giữa bê tông và cốt thép. Hình 4. Rỗ tổ ong Cong vênh Cong vênh là hiện tượng các góc, cạnh của kết cấu bê tông bị biến dạng (co ngót) do sự chênh lệch về độ ẩm và nhiệt độ giữa lớp trên và lớp dưới của kết cấu bê tông (sàn, bản mỏng). Đặc biệt khi ứng suất gây biến dạng lớn hơn độ bền uốn của bê tông thì các vết nứt sẽ hình thành và phát triển; sự tồn tại của vết nứt lúc này sẽ làm giảm ứng suất gây biến dạng. Hình 5. Hiện tượng cong vênh sàn do co ngót Hình 3. Các vết rạn nứt 53 Tách lớp Tách lớp tương tự như hiện tượng phồng rộp blister, các mảng vữa xi măng bề mặt bị bong tróc và tách khỏi kết cấu bê tông do kết quả của quá trình thoát hơi nước và bọt khí. Tuy nhiên, so với blister thì diện tích lớp hơi nước và bọt khí trong trường hợp này lớn hơn, nó tích tụ thành các mảng, miếng và tạo thành một phân lớp trong kết cấu bê tông. Thông thường tương đối khó để phát hiện dấu hiệu của khuyết tật này kể từ khi nó xuất hiện cho đến khi nó bị phá hủy, chỉ sau khi bề mặt bê tông khô và khu vực tách lớp bị phá vỡ bởi ngoại lực với chiều dày của các mảng vữa xi măng nằm trong khoảng từ 3-5mm. Bên cạnh đó, hiện tượng bong tróc cũng có thể là kết quả của ứng suất kéo sinh ra trong quá oxy hóa kết cấu thép trong bê tông. Hình 6. Hiện tượng bong tróc Hiện tượng trắng mặt (phấn hóa) Hiện tượng trắng mặt hay bụi bê tông là hiện tượng xuất hiện lớp bột xi măng do sự tan rã của của bề mặt bê tông sau khi ninh kết. Bản chất của hiện tượng này như sau: Thành phần chính của bê tông xi măng là chất kết dính vô cơ (xi măng), nước và các hạt hạt cốt liệu, khi tiến hành trộn các thành phần này với nhau sẽ xảy ra phản ứng giữa xi măng và nước, phản ứng này xảy ra cho đến khi bê tông đạt cường độ (28 ngày); Với phương trình phản ứng như sau [2]: Ca2SiO4.4H2O + Ca(OH)2= = Ca2SiO4.4H2O + + Ca(OH)2 , (2) Bên cạnh đó, trong quá trình diễn ra phản ứng thủy hóa của xi măng thì các hạt xi măng và thành phần cốt liệu sẽ trôi lơ lửng trong nước, do trọng lượng riêng lớn hơn nên các thành phần cốt liệu có xu hướng di chuyển xuống dưới, đẩy nước và một phần hạt xi măng lên phía trên tạo thành một lớp vữa xi măng với khả năng chịu mài mòn kém, khi chịu tác dụng của ngoại lực thì lớp vữa xi măng bị mài mòn dần, đồng thời thành phần xi măng trong lớp vữa sẽ bị tách bóc sinh ra lớp bụi xi măng trên bề mặt. Hiện tượng phấn hóa sẽ làm cho khả năng chịu mài mòn và độ cứng của bề mặt kết cấu bê tông giảm ảnh hưởng đến khả năng làm việc của cấu kiện, đặc biệt khi cấu kiện thường xuyên chịu tác dụng của lực kéo trên bề mặt. Hình 7. Bụi xi măng Nứt vỡ Spalling là một dạng khuyết tật bề mặt, thường xuất hiện dưới dạng hình tròn, hình ovan với độ sâu từ 25-150m và có thể lớn hơn. Nguyên nhân chính là do quá trình các-bon-nát 54 hóa bê tông (carbonation), khí cacbon CO2 trong tự nhiên theo thời gian sẽ khuếch tán và xâm nhập vào trong bê tông và phản ứng với các chất kiềm có trong đó (kiềm thổ Ca, CaCO3, Ca(OH)2, MgCO3, kiềm trong Clinke) làm vỡ màng cacbonat để tạo thành bicacbonat axit canxi dễ tan theo phản ứng: CaCO3 + CO2 + H2O = Ca(HCO3)2 , (3) Đồng thời lớp bê tông bảo vệ cũng bị mất dần đi những đặc tính cơ lý ban đầu làm cho cốt thép trong bê tông bị các tác nhân xâm nhập phá hủy (gỉ thép) gây nở thể tích, quá trình này sẽ sinh ra ứng suất làm nứt lớp bê tông. Dấu hiệu của khuyết tật này cũng dễ dàng nhận ra, tại các vị trí xuất hiện thì bề mặt thường gồ ghề và có vết vỡ dạng vảy, thậm chí có thể thành các lỗ. Trong môi trường không khí, độ ẩm cao sắt dễ bị gỉ theo phản ứng sau đây: 4Fe + 3O2 + nH2O → 2Fe2O3.nH2O , (4) Hình 8. Quá trình ăn mòn kim loại là nguyên nhân chính gây nứt vỡ * Nhận xét Qua việc phân tích các khuyết tật, có thể nhận thấy rằng ngoài các vết nứt dạng cracking có kích thước và phạm vi ảnh hưởng lớn đến kết cấu bê tông (khả năng làm việc của cấu kiện) thì hầu hết các khuyết tật còn lại mức độ ảnh hưởng của chúng là không đáng kể mà nguyên nhân chủ yếu là do ở chính đặc tính của bê tông (phát sinh nhiệt do quá trình thủy hóa xi măng, lượng nước thừa và bọt khí không được thoát ra ngoài), phản ứng hóa học giữa các thành phần khoáng trong bê tông gây phá hủy và làm mất ổn định thể tích, đặc biệt nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ không khí cao, độ ẩm thường là cao nhưng lại thay đổi thất thường nên khi xuất hiện vết nứt thì các tác nhân bên ngoài dễ dàng xâm thực phá hủy kết cấu. Ngoài ra, dưới tác động của ngoại lực cũng có thể làm xuất hiện vết nứt, tùy thuộc vào loại kết cấu và ngoại lực tác dụng. Loại vết nứt Hình dáng vết nứt Cấu kiện bê tông cốt thép Vết nứt xuyên suốt Cấu kiện chịu kéo lệch tâm Vết nứt không xuyên suốt Cấu kiện chịu uốn và cấu kiện chịu nén lệch tâm Vết nứt có dạng đường khép kín Vùng gối tựa của cấu kiện chịu uốn. Vết nứt dọc không xuyên suốt Cấu kiện chịu nén Bảng 2. Vết nứt do tác động của ngoại lực trong bản sàn toàn khối [5] 3. Giải pháp phòng ngừa, khắc phục 3.1. Nguyên tắc và nội dung xử lý khuyết tật 3.1.1. Nguyên tắc Trong mọi trường hợp, bề mặt bê tông phải được hoàn thiện thoả mãn yêu cầu về chất lượng, độ phẳng và đồng đều về màu sắc [6]. Đáp ứng yêu cầu thiết kế như: Bảo đảm an toàn 55 và khả năng làm việc của kết cấu, đáp ứng yêu cầu sử dụng và tính thẩm mỹ của công trình... 3.1.2. Nội dung thực hiện Tùy thuộc vào mục đích, cấu kiện cụ thể mà công tác xử lý khuyết tật có thể có những yêu cầu và cách thức khác nhau, nhưng một cách tổng quát có thể xây dựng nội dung xử lý khuyết tật bao gồm: - Khảo sát hiện trạng: tình trạng khuyết tật, tình trạng thực tế của kết cấu và kiến trúc; - Phân tích và nhận dạng khuyết tật; xác định mục đích xử lý; - Lựa chọn thời gian xử lí hợp lí; xử lý khuyết tật; quan trắc và theo dõi. 3.2. Giải pháp phòng ngừa Từ kết quả phân tích các khuyết tật tại mục 2.1, trên cơ sở xét tới tác động của chúng tới sự làm việc của kết cấu, cũng như cơ chế hình thành của mỗi loại khuyết tật, có thể phân làm 2 nhóm cơ bản: Nhóm 1: Không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng ít tới khả năng làm việc của kết cấu, cơ chế hình thành chủ yếu liên quan đến lượng nước thừa và lượng bọt khí trong bê tông chưa được thoát ra ngoài hoặc lượng nước bề mặt không đủ để quá trình thủy hóa xảy ra với phạm vi xuất hiện không lớn, xuất hiện cục bộ và chủ yếu bên trên bề mặt; bao gồm: phồng rộp bề mặt, rạn nứt chân chim, rỗ tổ ong, cong vênh, bong tróc, phấn hóa và nứt vỡ cục bộ. Để phòng ngừa sự xuất hiện của các khuyết tật thuộc nhóm này có thể sử dụng một số giải pháp sau đây: - Thiết kế chính xác tỷ lệ N/X (nước/xi măng), sao cho lượng dùng xi măng trong bê tông ít nhất. - Bê tông xi măng sử dụng không nên có quá nhiều bột khoáng, và có tính co ngót thấp. Xi măng ít tỏa nhiệt - Duy trì nhiệt độ và độ ẩm bề mặt thích hợp, không nên phủ bề mặt quá sớm để cho bê tông thoát nhiệt và cũng không nên quá muộn để giảm lượng bốc hơi nước trong bê tông. - Công tác đầm bê tông cũng cần hết sức lưu ý, tránh để tách (tập trung) và làm mất nước trong bê tông. - Tỷ lệ cuốn khí không được lớn quá 3% [9]. - Cân bằng nhiệt độ giữa lớp trên và lớp dưới của cấu kiện bê tông. - Bề mặt phân cách giữa 2 lớp đổ bê tông phải được đục nhám và vệ sinh sạch sẽ. Nhóm 2: Các vết nứt nẻ cracking với chiều dài, bề rộng và độ sâu lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng làm việc của kết cấu. Đối với nhóm này thì các giải phòng phòng ngừa cũng bao gồm như đối với nhóm 1, nhưng ở đây cần chú ý sau: Như phân tích ở trên, sự xuất hiện vết nứt trong bê tông liên quan chặt chẽ đến tốc độ thoát hơi nước bề mặt và tốc độ nước trồi lên bề mặt. Do đó, vấn đề đặt ra là phải khống chế 2 quá trình này, nhất là tốc độ thoát hơi nước bề mặt nhằm hạn chế tốc độ nhiệt thủy hóa của xi măng trong bê tông. Để hạn chế tốc độ thoát hơi nước bề mặt, cần khống chế nhiệt độ, độ ẩm không khí, vận tốc gió và nhiệt độ bê tông, cũng như tạo màng ngăn cách giảm việc trao đổi hơi nước giữa bề mặt bê tông và không khí. Cụ thể là: Lựa chọn thời điểm thi công hợp lý: nên chọn vào sáng sớm hoặc chiều tối. Sử dụng các biện pháp che nắng và che gió. Giảm nhiệt độ của bê tông bằng cách hạ nhiệt độ cốt liệu, nước trộn, cốp pha,sử dụng xi măng ít toả nhiệt ... Trước khi thi công, nên làm ẩm và giảm nhiệt độ bề mặt nền, cốp pha. Phủ bề mặt bê tông sau khi đổ bê tông (bằng tấm polyethylene hay bao bố ẩm,...). Sử dụng giải pháp phun hơi sương lên bề mặt bê tông, đặc biệt khi thi công bê tông khối lớn hoặc nhiệt độ không khí cao. Dùng phụ gia giảm việc thoát hơi nước bề mặt ngay sau khi đổ bê tông và cho đến khi hoàn thiện bề mặt: Đây là biện pháp đang được dùng phổ biến trong thực tiễn xây dựng khi đổ bê tông trong điều kiện thời tiết không thuận lợi. Đối với bê tông khối lớn, nên áp dụng các giải pháp để đưa nhiệt độ bê tông ra bên ngoài 56 (đặt dàn ống nước trong lòng khối bê tông...) hoặc chia nhỏ khối đổ bê tông. Khi nhiệt độ không khí chênh lệch giữa ngày và đêm lớn, gây cho bề mặt bê tông bị sốc nhiệt, sinh ứng suất kéo làm nứt bê tông thì có thể phủ lên trên bề mặt bê tông một lớp cốt liệu rồi mới tiến hành phun nước dưỡng ẩm. Áp dụng các biện pháp dưỡng hộ bê tông ngay sau khi hoàn thiện bề mặt. Điều quan trọng là các biện pháp này cần phải được áp dụng theo đúng qui trình trong suốt quá trình để đảm bảo bê tông đủ cường độ trước khi ứng suất kéo cực đại trong bê tông ở trạng thái dẻo do sức căng bề mặt tăng cao. 3.3. Giải pháp khắc phục Tùy thuộc vào quy mô và mức độ ảnh hưởng của khuyết tật tới kiến trúc, đặc biệt là khả năng làm việc của kết cấu để lựa chọn giải pháp khắc phục phù hợp. Với nhóm khuyết tật thứ nhất, nhóm 1: Để tránh tác động của các yếu tố xâm thực, mỹ quan kiến trúc của cấu kiện thì cần thiết phải tiến hành loại bỏ khuyết tật và thay thế bằng chất kết dính mới (vữa xi măng) có cường độ và tính năng tương tự hoặc lớn hơn lớp bị loại bỏ. Khi loại bỏ, phải tiến hành vệ sinh và đục nhám bề mặt để tăng khả năng bám dính giữa 2 lớp. Với nhóm 2: ■ Trường hợp 1: Phạm vi và kích thước nhỏ (chiều dài vết nứt < 2/3 chiều cao dầm, chiều rộng <0,5mm đối với dầm đơn giản; dầm, sàn có cốt thép bị ăn mòn với bề rộng vết nứt <1mm...[5]), cấu kiện bê tông cốt thép chưa nguy hiểm. Tiến hành đục tẩy và loại bỏ lớp bê tông xung quanh vị trị vết nứt, đối với những cấu kiện chịu lực lớn (cột, dầm) phải tiến hành gia cố chống giữ trước khi loại bỏ và duy trì công tác này cho đến khi lớp bê tông mới đạt cường độ. ■ Trường hợp 2: Phạm vi và kích thước vết nứt lớn, cấu kiện bê tông cốt thép nguy hiểm có thể sử dụng một số giải pháp sau đây: - Phương pháp bao bọc vị trí hư hỏng bằng bê tông hoặc bê tông cốt thép; - Phương pháp dùng bản thép gia cường (dán bản thép); - Phương pháp dùng bê tông dự ứng lực căng ngoài; - Phương pháp sử dụng vật liệu composite sợi cường độ cao FRP (Fiber-Reinforced Polymer). Mỗi giải pháp đều có những ưu nhược điểm riêng, trong giới hạn báo cáo tác giả trình bày cụ thể về phương pháp FRP, đây là một trong những phương pháp mới đã được nghiên cứu vá áp dụng tại các nước tiên tiến từ những năm 1990. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là thi công đơn giản, không cần sử dụng cốp pha, có tính thẩm mỹ cao. Có 2 phương pháp thi công FR là: phương pháp khô (dry lay-up) và phương pháp dán tấm theo kiểu ướt (wet lay-up). a. Vật liệu FRP (Fiber Reinforced Polymer) - Vật liệu FRP là một dạng vật liệu composite được chế tạo từ các vật liệu sợi, trong đó có ba loại vật liệu sợi thường được sử dụng là sợi carbon CFRP, sợi thủy tinh GFRP và sợi aramid AFRP. Đặc tính của các loại sợi này là có cường độ chịu kéo rất cao, mô đun đàn hồi lớn, trọng lượng nhỏ, khả năng chống mài mòn cao, cách điện, chịu nhiệt tốt, bền theo thời gian - Các dạng FRP dùng trong xây dựng: dạng tấm, dạng thanh, dạng cáp, dạng vải, dạng cuộn Trong sửa chữa và gia cố công trình xây dựng thường dùng các loại FRP dạng tấm và dạng vải. - Vật liệu FRP thường được sử dụng nhất là của các hãng sản xuất: Mbrace, Sika Hình 9. Một số dạng của FRP 57 Hình 10. Ứng suất và biến dạng của vật liệu FRP [3] b. Thi công dán theo phương pháp khô (dry lay- up) Quá trình thi công dán tấm FRP bằng phương pháp khô bao gồm các bước sau: Bước 1: Chuẩn bị bề mặt bê tông Trước khi gia cố lắp đặt tấm FRP thì bề mặt bê tông phải được xử lý kỹ. Các vết nứt, các mảnh vụn sứt mẻ và cốt thép bị gỉ cần phải được chú ý trước khi thi công lắp đặt tấm FRP. Các sứt mẻ và các loại hư hỏng khác cần phải được loại bỏ và được vá lại với các loại vữa sửa chữa phù hợp. Tất cả các vết nứt có bề rộng lớn hơn 0,5mm cần phải được bơm êpoxy để sửa chữa. Bước 2: Sơn lót kết cấu cần gia cố Sơn lót bề mặt bê tông cần gia cố bằng cách dùng cọ lăn ngắn hoặc trung bình. Bước 3: Phủ bột trét làm phẳng bề mặt Bột trét được trét bằng các bay cầm tay. Bột trét được sử dụng để làm phẳng bề mặt và lấp các khuyết tật; việc bao phủ hoàn toàn thì không cần thiết. Bột trét có thể trét lên bề mặt sơn lót còn ướt không cần đợi sơn khô. Bước 4: Phủ lớp keo thứ nhất Keo được quét lên bề mặt đã được sơn lót và làm phẳng bằng cọ lăn. Lượng keo sử dụng cũng phụ thuộc vào từng loại FRP được sử dụng. Bước 5: Dán tấm FRP Tấm FRP cần được đo và cắt sẵn trước khi đặt lên bề mặt cần gia cố. Tấm FRP được đặt lên bề mặt bê tông và được ấn nhẹ nhàng vào lớp keo dán. Trước khi lột lớp giấy dán mặt sau, dùng con lăn bằng cao su lăn theo hướng sợi cho keo dễ dàng ngấm vào các sợi riêng rẽ. Cọ lăn không bao giờ được lăn theo hướng vuông góc với hướng sợi để tránh sợi có thể bị hỏng. Bước 6: Phủ lớp keo thứ hai và sơn bảo vệ bề mặt tấm FRP Lớp keo thứ hai có thể được phủ lên sau 30 phút kể từ khi đặt và lăn tấm FRP. Đến lúc này lớp keo đầu tiên đã rút hết vào vào tấm FRP. Sơn lót kết cấu Phủ bột trét làm phẳng Phủ lớp keo thứ nhất Hình 11. Quá trình thi công FRP theo phương pháp khô (dry lay- up) Dán tấm FRP Phủ lớp keo thứ 2 58 c. Thi công dán theo phương pháp ướt (dry lay-up) Phương pháp ướt về trình tự giống với phương pháp khô, điểm khác biệt là ở bước thoa keo nhúng nhựa tấm FRP. Khi dán tấm FRP bằng phương pháp ướt ta chỉ sử dụng tấm vải FRP dạng khô chưa tẩm nhựa. Tấm FRP khô sẽ được tẩm đẫm nhựa đến khi bão hòa và được dán lên bề mặt bê tông đã được xử lý kỹ. Ưu điểm của phương pháp dán ướt là có thể sử dụng cho cấu kiện có kích thước lớn (cột đường kính lớn, mặt đáy sàn, dán bọc ba mặt dầm), liên kết giữa lớp FRP với bề mặt bê tông cũng như liên kết giữa các tấm FRP được đảm bảo hơn, sẽ ít có trường hợp bị phá hoại liên kết. Tuy nhiên, khi dùng phương pháp dán ướt sẽ sử dụng một lượng keo dán rất lớn nên thời gian đợi cho tấm FRP khô keo sẽ lâu hơn làm cho thời gian thi công kéo dài hơn. Quá trình thoa keo tẩm nhựa cho tấm FRP có thể sử dụng máy tẩm nhựa đối với tấm vải FRP có bề rộng lớn hoặc có thể dùng phương pháp thủ công bằng tay đối với tấm FRP có bề rộng nhỏ. Các bước tiến hành tương tự như phương pháp thi công dán khô. a. Tẩm nhựa vào tấm FRP đến khi bão hòa b. Sơn bảo vệ bề mặt tấm FRP Hình 12. Quá trình tẩm nhựa tấm FRP theo phương pháp ướt (wet lay-up) 4. Một số kiến nghị Báo cáo tập trung tổng hợp và phân tích cơ sở khoa học về khuyết tật trong bê tông, với rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng cũng như nguyên nhân phát sinh khuyết tật, chắc chắn rằng, các khuyết tật sẽ đa dạng và biến đổi phức tạp nhiều hơn nữa. Do đó, để có thể đánh giá chính xác, định lượng hóa cũng như sự ảnh hưởng của các khuyết tật cần tiến hành nghiên cứu với từng cấu kiện cụ thể để có kết quả rõ dàng và phù hợp hơn trong việc phòng ngừa, khắc phục. 5. Kết luận Việc nghiên cứu khuyết tật bê tông khá phức tạp do sự biến đổi liên tục của các yếu tố ảnh hưởng: các yếu tố khách quan như tính chất cơ học của bê tông (cường độ chịu kéo, khả năng chịu uốn của bê tông, độ co ngót), tốc độ thoát hơi nước bề mặt, điều kiện khí hậu khu vực thi công; các yếu tố chủ quan bao gồm: công tác tổ chức thi công (sử dụng vật liệu sản xuất bê tông kém chất lượng, biện pháp tổ chức thi công chưa phù hợp), quá trình thiết kế chưa lường hết được các vấn đề phát sinh hoặc chưa tính toán chính xác về giải pháp kết cấu lựa chọn như sự ảnh hưởng của tải trọng và tác động, mối quan hệ giữa tải trọng – thời gian tới sự hình thành, phát triển của khuyết tật trong bê tông. Do đó, việc hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng tới khuyết tật bê tông là hết sức cần thiết, là cơ sở lý luận để lựa chọn và chủ động áp dụng hiệu quả các biện pháp nhằm phòng tránh, khắc phục các khuyết tật trong bê tông. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Tạ Minh Hoàng, 2009. Phân loại và nguyên nhân nứt bê tông. Viện vật liệu xây dựng ( [2] GS.TS Nguyễn Tấn Quý, TS. Nguyễn Thiện Ruệ, 2003. Giáo trình Công nghệ bê tông xi măng. NXB Giáo dục 2003. [3]. Ngo Quang Tuong, 2007. Repairing and strengthening renforced concrete structures by using FRP, Science & Technology development Journal, University of Technology, VNU-HCM. [4]. TCXDVN 358:2005. Cọc khoan nhồi- Phương pháp xung siêu âm xác định tính đồng nhất của bê tông. Bộ Xây dựng. 59 [5]. TCXDVN 373-2006. Chỉ dẫn đánh giá mức độ nguy hiểm của kết cấu nhà. Bộ Xây dựng. [6]. TCXDVN 4453-1995. Kết cấu bê tông và bê tông cốt thép toàn khối – Quy phạm thi công và nghiệm thu. Mục 6.10.2 trang 30. [7] M. Al Nasra, PhD, PE, 2008. Concrete methods and principle. [8]. Professor Mark Alexander, Dr. Hans Beushausen, 2010. Concrete deterioration (Workshop, May 2010). University of Cape Town. [9] Portland Cement Association. Cocrete information. [10]. SUMMARY Concrete cement defects, cause and some solutions to prevent, repair Nguyen Quang Phich, Bui Van Duc, Le Tuan Anh, Pham Ngoc Anh University of Mining and Geology Cement concrete already and in the process of being important constructon material in capital construction to all sectors of the national economy. During in use has appeared a lot of defects affecting the architectural and ability to work of concrete structure. The main reasons lies in the properties of concrete materials such as bending resistance is poor, the cement hydration reaction, chemical reaction between the mineral component to cause destabilizing volume. This article presents the nature of the mechanism of formation and the development of disability and recommends a number of measures to prevent and overcome the common defects in concrete. HIỆN TRẠNG VÀ PHƯƠNG ÁN CẢI TẠO HỆ THỐNG (tiếp theo trang 48) SUMMANY Status and solution on ventilation system renovation for Halam coal mine Nguyen Cao Khai, Tran Xuan Ha, Nguyen Van Thinh University of Mining and Geology Mine ventilation plays a significant role in underground mining, especially in mining at depths greater. Ha Lam Coal Mine is one of the mines in greater depth and tend to continue to further exploit, so ventilation issues need to be deeply concerned.The paper has analyzed and evaluated the status of the mining ventilation system of HaLam coal mine. Therefore, authors provide the most appropriate solution on renovation of ventilation system in order to improve and reduce the cost for mining ventilation.
File đính kèm:
- nut_ne_trong_be_tong_xi_mang_nguyen_nhan_va_mot_so_giai_phap.pdf