Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam
Tóm tắt Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam: ...Nho giáo Trung Quốc sơ kỳ. Trung quân phải gắn liền với ái quốc. Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa vua với nước thì nước được đặt lên hàng đầu. Ở mỗi nước mà Nho giáo ảnh hưởng, những phạm trù đạo đức được đưa lên hàng đầu là khác nhau. Chẳng hạn, ở Trung Quốc đó là nhân, ở Nhật Bản đó là...hẫn, thương xót mà nới rộng cho dân một đôi phần”(11). Vì vậy, theo ông, để có xã hội thái bình, cần phải thực hành đạo đức nhân nghĩa, bởi nhân nghĩa là vô địch: “Từ xưa đến nay người có nhân không ai địch nổi. Việc gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh”(12). Chỉ có nhân nghĩa mới đem...của người con “xưa nay đều trọn đường trung hiếu, sách vở còn ghi lẽ chính tà. Năm phẩm dường như săn sóc lấy, ấy là đạo vị ở lòng ta”(18). Sự vận dụng sáng tạo những khái niệm Nho giáo ở Nguyễn Đình Chiểu là một trong những minh chứng rằng, ngay khi Nho giáo đã lỗi thời, một người trí...
58 một phạm trù đạo đức chung chung, trừu tượng, mà chính là lòng nhân đạo, là tinh thần yêu nước chân chính. Đó là “chí nhân” với sứ mệnh thay “cường bạo”; còn nghĩa là điều nên làm, thậm chí cần phải làm. Chữ trung ở Nguyễn Trãi cũng khác với chữ trung trong Nho giáo Trung Quốc sơ kỳ. Trung quân phải gắn liền với ái quốc. Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa vua với nước thì nước được đặt lên hàng đầu. Ở mỗi nước mà Nho giáo ảnh hưởng, những phạm trù đạo đức được đưa lên hàng đầu là khác nhau. Chẳng hạn, ở Trung Quốc đó là nhân, ở Nhật Bản đó là trung, còn ở Việt Nam đó là nghĩa. Trung quân trong quan niệm của Nguyễn Trãi là bất di bất dịch, ngay cả trong trường hợp không được tin dùng, ông vẫn ấp ủ niềm trung của mình trong sự “cô trung”. Nói như vậy không có nghĩa ở Nguyễn Trãi xuất hiện tư tưởng “ngu trung”, mà “cô trung” được ông suy xét nguyên nhân từ thế sự chứ không phải do chủ quan, độc đoán của vua. Gác bỏ mọi lợi ích cá nhân, nhận thức được mặt trái của xã hội đang xâm lấn, can thiệp vào thế ứng xử bất công bằng của triều đại, Nguyễn Trãi đã vượt lên tất thảy mọi biểu hiện nhỏ nhen của thói đời để giữ gìn bản chất trung nghĩa của mình. Nếu như trong tư tưởng của Khổng Tử và Mạnh Tử, nhân và nghĩa phản ánh các mối quan hệ xã hội cho phù hợp với lễ và chính danh nhằm duy trì trật tự đẳng cấp xã hội, thì ở Nguyễn Trãi, nhân và nghĩa trước hết được giải thích bằng thái độ đối với dân, lo cho cuộc sống của dân sao cho được an bình: “Quyền mưu vốn dĩ để trừ gian/ Nhân nghĩa giữ gìn thế nước an”(5). Quyền mưu của kẻ dẹp loạn phải được sử dụng đúng mục đích là trừ gian, bảo vệ chính nghĩa chứ không phải được sử dụng vào việc xâm lược và đối xử tàn bạo với dân tộc khác. Có như vậy thì dân - nước mới được yên ổn: “Quân của vương giả chỉ có dẹp yên mà không có đánh chém. Việc nhân nghĩa cốt để yên dân”(6). Quan điểm trên của Nguyễn Trãi được hình thành trên cơ sở nghiên cứu chính tư tưởng của kẻ xâm lược, cậy thế nước lớn “dạy” nước nhỏ những luận điệu giả nhân giả nghĩa để ép nước nhỏ phục tùng vô điều kiện. Nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi được bắt nguồn từ Nho giáo, nhưng đã được ông vận dụng trên quan điểm dân tộc, vì lợi ích của dân tộc, đất nước. Do đó, nội dung của nó có những điểm sáng tạo và độc đáo. Đó là đóng góp của Nguyễn Trãi cho tư tưởng triết học dân tộc. 4. Phạm trù nghĩa trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là nhà nho, nhà tư tưởng vĩ đại thế kỷ XVI. Ông sống trong thời đại loạn lạc với (5) Nguyễn Trãi (1976), Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.290. (6) Sđd, tr.160. Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam 59 những “vua quỷ”, “vua lợn”. Thời kỳ này, cùng với sự khủng hoảng của chế độ phong kiến, Nho giáo cũng từng bước bộc lộ sự bất lực và đang mất dần vai trò lịch sử của mình, mặc dù các nhà nho vẫn tán dương nhân nghĩa, đề cao nhân chính, coi đó là việc làm quan trọng nhất. Bản thân Nguyễn Bỉnh Khiêm khi nhìn thế sự như ngôi nhà “bị dột từ nóc”, thế đứng chênh vênh, đã đưa ra nhận định khá chính xác cho rằng: “Nhân nghĩa thời nay tựa vàng mười” (tức là cái cốt lõi của đạo đức Nho giáo trong thời loạn đang trở nên một thứ “xa xỉ phẩm” mà ai nói đến nó cũng đều là sáo rỗng, viển vông). Là nhà nho chân chính, trong suốt cuộc đời mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn ôm ấp hoài bão về một xã hội bình trị, vua thánh tôi hiền, đối xử với dân theo tinh thần khoan thứ “phải lấy dân làm gốc, muốn giữ được nước cốt phải được lòng dân, phải chăm lo cho dân, trừng trị bọn sâu mọt, tham quan, hại dân”(7). Ông quan tâm nhiều tới “đạo làm người”, ở đó “vua tôi, cha con là nghĩa cương thường bền vững nghìn đời”(8). Từ đó, quan niệm của ông về đạo làm người được dựa trên một nền tảng vững chắc của đạo trung chính. Ông viết: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ, thuận giữa anh em, hòa giữa vợ chồng, tín giữa bạn bè, đó là trung vậy. Thấy của phi nghĩa đừng có lòng tham, vui làm điều thiện để đối đãi với mọi người, đó cũng là trung vậy”(9). Đạo đó không có gì là xa lạ, mà là đạo Nho, một đạo đã khái quát các mối quan hệ cơ bản của gia đình và xã hội thành “cương thường”. Tuy nhiên, khác so với Nho giáo truyền thống, đạo làm người trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm “mang tính nhân dân, tính dân tộc, mềm mỏng hơn, mặn nồng, sâu sắc đầy tình người, mang đậm chất Việt Nam”(10). Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn tự nhận mình là nhà nho, đã trót đội lên đầu chiếc mũ của nho sĩ. Do đó, những chuẩn mực đạo đức Nho giáo luôn thường trực và thôi thúc ông phải “lo trước vui sau đến già không nguôi”. Nhấn mạnh đến nghĩa trong đạo cương thường, ông viết: “Nghĩa phải thờ vua (lý đó) sáng như mặt trời, mặt trăng; vua tôi, cha con là nghĩa cương - thường bền vững nghìn đời; lòng luôn nghĩ đến vua cha cho đến lúc già cỗi”. Tuy nhiên, quan điểm của ông không thoát khỏi sự ràng buộc của chế độ và giới hạn của tri thức phong kiến. Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng, chiến tranh dưới bất kỳ hình thức nào cũng là nguyên nhân gây (7) Dẫn theo Nguyễn Văn Bình (2001), Quan niệm của Nho giáo về các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.99. (8) Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.361. (9) Sđd, tr.362. (10) Nguyễn Văn Bình (2001), sđd, tr.100. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 60 ra bao nỗi khổ đau cho con người: gia đình li tán, đồng ruộng bỏ hoang, làng mạc tiêu điều. Ông viết: “Rất thương dân mọn mặc nạn đói rét; ai nêu đại nghĩa diệt lũ hung tàn; người có nhân nếu biết suy lòng bất nhẫn, thương xót mà nới rộng cho dân một đôi phần”(11). Vì vậy, theo ông, để có xã hội thái bình, cần phải thực hành đạo đức nhân nghĩa, bởi nhân nghĩa là vô địch: “Từ xưa đến nay người có nhân không ai địch nổi. Việc gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh”(12). Chỉ có nhân nghĩa mới đem lại cho dân, cho nước một nền thái bình thịnh trị. Chịu ảnh hưởng của Tống Nho, ông sử dụng các khái niệm như Đạo, Lý, Thiên lý, Vận hội, Thời cục... Song, ông không đi đến những triết thuyết sâu sắc như các nhà triết học Tống Nho từng làm, mà chủ yếu trình bày các khái niệm đó trong bối cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam thế kỷ XVI. Ông tiếp thu Tống Nho là để có “lòng vững tin ở thiên lý, nhân tâm, ở vận hội, ở cách ứng xử hợp với thiên lý nhân tâm là làm điều thiện, thực hành nhân nghĩa”(13). Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, lòng người và lẽ trời gần như đồng nghĩa với nhân nghĩa. Bởi, theo ông, lẽ trời vừa mang tính qui luật của tự nhiên, vừa được áp dụng vào đời sống xã hội. Trong tư tưởng của ông còn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo với tình người mộc mạc, tự nhiên, nhân bản của người dân lao động. Ông coi trọng đạo “cương thường” nhưng “mềm mại và linh hoạt” hơn Nho giáo. Trên tấm bia dựng bên quán “Trung Tân”, ông đã tập trung chú giải rất rõ cái nghĩa trong “đạo làm người” là: “Trung - hiếu - hòa thuận - tín nghĩa Thấy của phi nghĩa không tham, thấy lợi mà không tranh, vui điều nghĩa mà rộng lượng với người, đem lòng thành mà đối đãi với vật, đó là trung vậy, trung ở chỗ nào thì thiện ở chỗ ấy”(14). Như vậy, nhân nghĩa là một phạm trù đạo đức được Nguyễn Bỉnh Khiêm trình bày một mặt, theo truyền thống Nho Việt là: an dân, thương yêu nhân dân; mặt khác, theo xu hướng tam giáo đồng nguyên mà chủ yếu là chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Quan niệm về đạo người cũng như đường lối trị nước của Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự là mới mẻ, tiến bộ đối với đương thời. 5. Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là nhà nho yêu nước tiêu biểu, nhà thơ lớn của Việt Nam thế kỷ XIX. Cuộc đời, sự nghiệp của ông là sự phản ánh trung thành của thời kỳ Nhà nước phong kiến Việt Nam đi vào thế suy tàn, đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Tư tưởng của ông mang đậm dấu ấn của một nhà nho yêu nước nặng trĩu nỗi lòng đối với (11) Sđd, tr.222. (12) Sđd, tr.218. (13) Sđd, tr.140. (14) Nguyễn Bỉnh Khiêm (1991), sđd, tr.200. Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam 61 người dân Nam Bộ muốn trung thành với vua, muốn đấu tranh bảo vệ đất nước. Vì vậy, cái gốc của đạo làm người trong tư tưởng Nguyễn Đình Chiểu chính là nhân nghĩa, trung, hiếu. Ông viết: “Hai chữ cương thường dằng cả nước. Một câu trung hiếu vững muôn nhà”. Theo ông, bối cảnh xã hội mục nát như vậy, cần phải hướng tới giáo dục con người biết đấu tranh vì chính nghĩa. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, nên nhân nghĩa ở ông chính là yêu nước, có nghĩa vụ phải trung quân, trung với lý tưởng thánh hiền nhưng không dập khuôn theo kinh sách của Nho giáo. Vì vậy, khi nhận xét về tư tưởng của ông, Vũ Ngọc Khánh đã có cái nhìn xác thực rằng: “Ông cũng theo đạo Khổng, nhưng đúng ra là đã dân tộc hóa, bình dân hóa, thời sự hóa nho học cho phù hợp với yêu cầu cấp thiết của đất nước khi bị nạn giặc ngoại xâm”(15). Ông vừa là một nhà thơ lớn (mang đậm hào khí đấu tranh), vừa là một nhà nho thấm nhuần tư tưởng của Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người. Do đó, những sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu luôn hướng tới đạo đức nhân nghĩa, coi đó là đạo đức của nhân dân, là gốc rễ để trau dồi rèn giũa con người. Theo ông, làm người chính là làm trọn bổn phận của mình trong các mối quan hệ: con phải hiếu, tôi phải trung (người dân một nước, phải giữ tròn trung, không chịu làm nô lệ cho giặc). Nguyễn Đình Chiểu không tránh khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng Nho giáo, càng không thể không vận dụng các khái niệm của Nho giáo để diễn đạt tư tưởng của mình. Song, ông đã truyền tải một nội dung đầy tính nhân văn và dân tộc và trong các khái niệm của Nho giáo. Vì thế, ở ông những khái niệm đó mất dần những yếu tố tiêu cực và hấp thụ được thêm nhiều yếu tố tích cực có ích cho nhân dân trong cuộc sống, lao động và chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Nguyễn Đình Chiểu cho rằng, nhân là tình yêu thương con người, sẵn sàng cưu mang con người trong những cơn hoạn nạn, nghĩa là những quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong xã hội. Tất cả những sáng tác của ông đều đặc biệt đề cao nghĩa, coi nghĩa vừa là mục đích, vừa là phương pháp của đạo làm người.(15) Ngoài khái niệm nhân nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu còn đề cập và vận dụng đến nhiều khái niệm khác của Nho giáo như trung hiếu, tiết hạnh. Ông quan niệm rằng đạo trung quân là cần thiết cho mọi người. Nhưng ông đòi hỏi một ông vua được mọi người tôn thờ phải là ông vua hiền tài, thương dân, yêu nước. Ông vua ấy phải tượng trưng cho hạnh phúc của nhân dân và nền độc lập tự chủ của đất nước. Cũng như các nhà nho khác, ở Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm trung gắn với khái niệm hiếu. Nhưng qua sự (15) Vũ Ngọc Khánh (1995), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.121. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 62 vận dụng của ông, khái niệm hiếu của Nho giáo trở nên gần gũi với nhân dân hơn. Hiếu ở ông là lòng biết ơn, tôn kính cha mẹ, là trách nhiệm trông nom săn sóc cha mẹ với tất cả tình cảm sâu nặng của người con “xưa nay đều trọn đường trung hiếu, sách vở còn ghi lẽ chính tà. Năm phẩm dường như săn sóc lấy, ấy là đạo vị ở lòng ta”(18). Sự vận dụng sáng tạo những khái niệm Nho giáo ở Nguyễn Đình Chiểu là một trong những minh chứng rằng, ngay khi Nho giáo đã lỗi thời, một người trí thức đứng trên quan điểm và lập trường nhân dân vẫn có khả năng đưa vào những khái niệm của Nho giáo những giá trị cao đẹp vốn nảy sinh trong cuộc sống của đông đảo quần chúng lao động. Những nhân vật mà Nguyễn Đình Chiểu đề cao là những con người hào hiệp, nghĩa khí, giàu lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, quên mình vì nghĩa: “Ngư rằng: lòng lão chẳng mơ, dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn? Nước trong rửa ruột sạch trơn, một câu danh lợi chi sờn lòng đây”(19). Để khẳng định giá trị của nhân nghĩa, một mặt, ông ca ngợi cái chính nghĩa; mặt khác, ông phê phán cái phi nghĩa. Ông cho rằng, cái chính nghĩa cần được khuyếch trương, còn cái phi nghĩa, xấu xa, độc ác phải bị trừng trị thích đáng. Nguyễn Đình Chiểu là một con thuyền chở đầy đạo nghĩa. Ông đã kế thừa tư tưởng nhân nghĩa truyền thống chống giặc ngoại xâm của người Việt, mà Nguyễn Trãi là một tấm gương tiêu biểu. Ở Nguyễn Trãi, nếu nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, trọng dân, ơn dân thì ở Nguyễn Đình Chiểu, tư tưởng nhân nghĩa được mở rộng thành lời kêu gọi, động viên cứu nước “mến nghĩa bao đành làm phản nước, có nhân nào nỡ phụ tình nhà”(20). Giữ trọn đạo nghĩa theo tinh thần của Nho giáo thể hiện qua các phạm trù đã sử dụng, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện tinh thần và cốt cách của một nhà nho. Tuy nhiên, cái đẹp của đạo nghĩa được phản ánh trong thơ văn cũng chính là tâm nguyện của nhà nho yêu nước đang tắt dần trước sự bạc nhược của triều đình nhà Nguyễn. Tinh thần ấy chỉ được hồi sinh vào đầu thế kỷ XX trong tư tưởng của một số nhà nho yêu nước mà một trong số đó là Phan Bội Châu. 6. Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của Phan Bội Châu Phan Bội Châu (1867 - 1940) là người có công khôi phục những giá trị của Nho giáo trong bối cảnh thực dân Pháp bãi bỏ cổ học (từ năm 1919) trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Với tinh thần “Quốc gia hưng vong, sĩ phu hữu trách”, Phan Bội Châu không khỏi trăn trở trước vận mệnh của dân tộc và thể hiện ý chí phấn (18) Vũ Đình Liên, Hoài Thanh (1958), Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Văn hóa, Hà Nội, tr.131. (19) Nguyễn Đình Chiểu (1980), Toàn tập, t.1, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr.129. (20) Vũ Đình Liên, Hoài Thanh (1958), sđd, tr.131. Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam 63 đấu cho một xã hội mà ở đó mọi người đều thấy rõ nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với đất nước, với đồng bào. Phan Bội Châu luôn chủ trương “lấy yêu nước làm mục đích, nhóm họp đoàn thể, trao đổi tri thức, phục tùng công lý, sửa đạo đức, giữ nghĩa vụ, lập giao ước, xướng quyền lợi công dân, giúp đỡ, thương yêu nhau, không ghen ghét, không lừa dối, không khinh khi nhau”(21). Không chỉ chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, Phan Bội Châu còn chịu ảnh hưởng bởi các nhà tư tưởng Phương Tây tiến bộ. Vì vậy, Trần Đình Hượu khi đề cập đến những chuyển biến trong cuộc đời hoạt động cách mạng của cụ Phan Bội Châu, đã đưa ra nhận định chính xác rằng: “Cụ Phan là một nhà nho, thiếu một phần nhận thức khoa học có hệ thống, thiếu khả năng hành động có tổ chức có tính toán cụ thể - “quyền thuật” vốn xa lạ với nhà nho - thương dân nhưng không thể hình dung được cách mạng kinh tế - xã hội. Một nhà nho như cụ chỉ hành động theo Đạo, Lý, một Đạo, Lý đã cách tân, hành động theo Tâm, Chí mà thường là thiếu Trí, Mưu”(22). Đó cũng là điều dễ hiểu bởi ông lý giải yêu nước được xây dựng trên nền tảng bản thân và gia đình: “Yêu nước là tính gì? - là suy cái lòng yêu mình, yêu nhà mà thành vậy. Nước còn thì nhà còn, nước mất thì nhà mất. Nước vốn là đầu não của mình ta, nền tảng của quan niệm nhà ta vậy”(23). Trong quan niệm của ông, yêu nước vừa là nghĩa vụ chính trị, vừa là tình cảm đạo đức chân chính của con người. Trên cơ sở lấy đạo hiếu của Nho giáo sơ kỳ làm gốc, nhưng nhà nho yêu nước Phan Bội Châu đã làm rõ hơn nghĩa vụ của người làm con phải xuất phát từ tình cảm, huyết thống để thờ cha mẹ: “Bổn phận làm con, còn có ở trên nghĩa vụ ấy là nghĩa vụ làm người, có khi phải đi ra làm việc quốc gia, xã hội, nghĩa vụ làm người còn nhiều lắm, thời người làm con đó, có lẽ đóng cửa ở trong nhà được mãi sao? Vậy nên, nói đến nghĩa vụ làm người tất phải có lúc viễn du; nhưng mà khi viễn du đó, tất phải có một đạo lý tốt mà ta xu hướng được thời đã không trái với đạo lý làm con, lại đúng với đạo lý làm người”(24). Từ yêu thương con người phát triển thành lòng yêu nước thương nòi là một quá trình vận động của tư tưởng Phan Bội Châu vì nghĩa cả. Ông viết: “Hiểu được nghĩa đồng bào thì quốc gia càng thêm đầy đủ, mà ngày càng mạnh thêm. Đã biết đồng quốc là đồng bào thì biết hạnh phúc của người cùng nước, tức là hạnh phúc của đồng bào ta, là hạnh phúc của bản thân ta. Hạnh phúc của bản thân (21) Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, t.2, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.56. (22) Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.271. (23) Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, t.2, sđd, tr.56 - 58. (24) Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, t.10, sđd, tr.147. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 64 ta, chỉ khi nào tất cả đồng bào đều sung sướng, khi đó mới có thể nói hạnh phúc chân chính của ta được. Vì cả đồng bào mà mưu hạnh phúc thì dù có hy sinh bản thân cũng không nên tiếc. Không phải như thế là không thương tiếc thân ta, mà chính là rất thương tiếc thân ta đấy, nghĩa đồng bào thực là nguyên khí của quốc gia vậy”(25). Dưới nhãn quan của một nhà nho cấp tiến, Phan Bội Châu đã biện giải nội dung các phạm trù đạo đức (nhân, nghĩa, trung, hiếu,...) của Nho giáo trong sự kết hợp với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống. Tiếp thu và khẳng định những giá trị đạo đức của Nho giáo sơ kỳ trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, ông nhấn mạnh: “Vua với tôi, thảy người nào có chức phận của người ấy, chỉ chung gánh vác việc nước thôi, cho nên sai sử bề tôi phải có lễ. Nghĩa là, những việc không đúng lẽ phải, không được sai sử bề tôi. Tôi thờ phụng vua chẳng phải quyền thế nơi vua, chỉ duy biết nghĩa vụ của mình mà lo gánh vác việc nước, theo nghĩa vụ của mình mà thờ vua, cốt ở lòng ngay thẳng, nên phải dĩ trung(26). Luận điểm này, tiếp tục tái khẳng định tính cách mạng trong tư tưởng của Phan Bội Châu về chữ trung trong quan hệ vua tôi, đó là trung - nghĩa, tức là trung với nước, đễ với nhân dân. Việc xem xét hay tuyệt đối hóa nghĩa vụ, bổn phận của cá nhân người phiến diện, một chiều từ dưới lên trên đã tạo nên sự tùy tiện của kẻ bề trên trong các mối quan hệ người cùng với kiểu đạo đức phi nhân. Theo ông, “đạo đức mà chỉ vì quân, phụ, trưởng, quý; dụng tình áp bức thần, tử, ấu, tiện để thỏa lòng tư lợi mình, thiệt là tội bất đạo đức”(27). Từ đó chúng ta thấy quan điểm nhân nghĩa của ông khá rõ ràng: “Đã nói đến nhân tất phải bác ái, đã nói đến nghĩa tất phải cho người ta bình đẳng, tự do”(28). Bình đẳng, bác ái là mục tiêu của các nhà duy tân Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong đó người tiên phong là Phan Bội Châu. Phan Bội Châu xứng đáng là nhà cách mạng, nhà tư tưởng lớn thế kỷ XX, là con người thuộc lớp “những người bảo vệ cho cục than hồng dưới lớp tro khô để thế hệ sau thổi lên thành ngọn lửa đốt trụi quân thù cướp nước”(29). 7. Kết luận Phạm trù nghĩa trong cách luận giải của các nhà tư tưởng Việt Nam nêu trên đã tạo nên tính đặc thù của Nho giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, tính đặc thù của phạm trù nghĩa trong tư tưởng của các nhà nho Việt Nam trong văn hóa Việt Nam cần tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn. (25) Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, t.3, sđd, tr.352. (26) Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, t.9, sđd, tr.189. (27) Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, t.10, sđd, tr.413. (28) Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, sđd, tr.69. (29) Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, t.2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.153. Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam 65
File đính kèm:
- pham_tru_nghia_trong_tu_tuong_cua_mot_so_nha_nho_viet_nam.pdf