Phân tâm học và tân phân tâm học - Từ Freud đến Adler và trường phái Frankfurt
Tóm tắt Phân tâm học và tân phân tâm học - Từ Freud đến Adler và trường phái Frankfurt: ...c nhau. Quan hệ giữa Adler và Freud ngày càng xấu đi. Trong vòng hai tháng cuối năm 1910 Freud thay đổi liên tục sự đánh giá của mình về học thuyết của Adler, từ chỗ khen Adler là thông minh, có triển vọng, đến chỗ quy kết học thuyết của Adler là rối rắm và không thể hiểu nổi. Cũng năm...kết xã hội, tầng “xã hội – hư ngụy” (liên tưởng hố sâu ngăn cách giữa “vật tự nó” và “hiện tượng”); 2) tầng trung gian, tầng chống đối xã hội (liên tưởng vô thức của Freud), tổng số những xung động bậc hai những cuồng vọng ngu xuẩn hung bạo, những hành vi dâm đãng; 3) tầng đáy sâu, hạt... mối liên hệ với cả chủ nghĩa Mác lẫn chủ nghĩa hiện sinh. Yếu tố chiết trung này lẽ cố nhiên cần được xem xét một cách có phê phán. Mặt khác, sự tích hợp, thậm chí hòa lẫn các dòng tư tưởng đối lập nhau có thể gợi mở câu trả lời khá thiết thực trong điều kiện phức tạp của xã hội phươn...
RANKFURT Alfred Adler là nhà tâm lý học, bác sĩ tâm thần và nhà tư tưởng người Áo, một trong những tiền bối của chủ nghĩa Freud-mới (neo-freudianism)(1), người sáng lập hệ thống tâm lý học cá nhân, mở đường cho sự ra đời quan điểm của thuyết cá nhân về nhân cách. Khác với Freud đề cao vơ thức, Adler được gọi là Ego-psychologist vì ơng đặc biệt nhấn mạnh vai trị của ý thức cá nhân. Con người ý thức được động cơ sâu kín của các hành vi, cử chỉ của mình, chứ khơng phải tất cả đều được điều khiển một cách vơ thức. Năm 1901 Adler lên tiếng ủng hộ cuốn sách mới của Freud – cuốn Giải mã giấc mơ, nhờ đĩ ơng được Freud để ý mời tham gia nhĩm học thuật mới vừa được thành lập về phân tâm học. Năm 1902 Adler tiếp cận với nhĩm Freud, song khơng tán thành luận điểm của Freud về vai trị của dục tính ở trẻ thơ trong sự phát triển tâm lý. Trong cuốn sách được cơng bố năm 1907, Tìm hiểu tính khơng hồn thiện của các cơ quan, ơng đưa ra thơng điệp về sự cần thiết xác lập các phương thức nghiên cứu phân tâm học khác nhau. Quan hệ giữa Adler và Freud ngày càng xấu đi. Trong vịng hai tháng cuối năm 1910 Freud thay đổi liên tục sự đánh giá của mình về học thuyết của Adler, từ chỗ khen Adler là thơng minh, cĩ triển vọng, đến chỗ quy kết học thuyết của Adler là rối rắm và khơng thể hiểu nổi. Cũng năm đĩ Adler được chọn làm Chủ tịch Hội Phân tâm học Vienna. Nhiều nhà nghiên cứu xem Adler như học trị của Freud, song xét nội dung tư tưởng cả Adler và Jung đều xa dần nguyên tắc xuất phát của phân tâm học Freud. Dù hợp tác với Freud, song họ vẫn kiên trì quan điểm vốn cĩ của họ, vì thế khơng thể chỉ nĩi rằng Adler và Jung phát triển phân tâm học, mà đúng hơn là thực hiện sự hiệu chỉnh một phần phân tâm học. Năm 1912 Adler cơng bố tác phẩm Về đặc tính của thần kinh, trong đĩ thể hiện những luận điểm cơ bản của tâm lý học cá nhân. Ơng cũng cho ra đời Tạp chí Tâm lý học cá nhân, nhưng sau đĩ bị gián đoạn do ĐINH NGỌC THẠCH - NGUYỄN THỊ THANH THỦY – PHÂN TÂM HỌC 4 Adler thay thế cơ chế dục tính của Freud bằng một hệ thống mục tiêu tưởng tượng (fictional finalism), đĩ là tập hợp những mục tiêu lý tưởng hĩa thúc đẩy con người cố gắng hồn thiện bản ngã. Tưởng tượng được hiểu là được lý tưởng hĩa, khơng hồn tồn căn cứ trên thực tế, nhưng hướng dẫn hành động thực tế, chẳng hạn những quan niệm về tự do, bình đẳng, dân chủ khơng phải lúc nào cũng được vận dụng trong thực tiễn, song chính chúng là cái thúc con người vươn đến mục tiêu đĩ bằng nỗ lực của nhiều thế hệ. Khác với Freud đề cao vơ thức, Adler được gọi là Ego-psychologist vì ơng đặc biệt nhấn mạnh vai trị của ý thức cá nhân. Trong bài phát biểu năm 1926 với tiêu đề “Tâm lý cá nhân như con đường dẫn đến sự nhận thức và tự ý thức của con người”, Adler nhấn mạnh: “Đứa trẻ gia nhập vào thế giới, đầy ắp khả năng phản ứng và một số nhu cầu. Rất nhanh chĩng, đứa trẻ bắt đầu buộc phải hướng chuyển động của mình lệ thuộc vào ý tưởng chủ đạo nào đĩ; chúng ta cĩ thể đồng thuận bày tỏ ý tưởng ấy khi nĩi: tự bảo tồn, ước muốn dành ưu thế, sự cần thiết bảo vệ; nhưng chúng ta hiểu điều này: vấn đề trước tiên là về bước đi mà đứa trẻ phải làm. Sinh lực tự nhiên của nĩ tất yếu tuân thủ nguyên tắc tự bảo tồn, tạo nên khả năng phát triển, khi kế hoạch cuộc sống tương tự được vạch ra, tuy nhiên ở đây đứa trẻ cứ mỗi phút lại hình thành năng lực của mình trong sự giao tiếp bền chặt với mơi trường xung quanh. Và điều này khơng phải là sự phát triển ngẫu nhiên của các sự kiện: nĩ được gia nhập vào mối liên hệ xã hội, cái vạch ra những con đường định hướng, những con đường ấy trong khi tạo được sự cân bằng trong đời sống tâm hồn của đứa trẻ, cũng đồng thời được thẩm thấu vào kế hoạch cuộc sống và sự hình thành chính đứa trẻ (như một con người)”(2). Những nguyên tắc cơ bản của học thuyết Adler tập trung ở cảm giác về sự khơng hồn thiện và mặc cảm tự ti, ước muốn khẳng định tính vượt trội, phong cách sống, tâm thế xã hội, cái tơi sáng tạo, vị thứ sinh ra (anh/chị em trong gia đình chẳng hạn) Muốn hiểu ý nghĩa của hành vi, cần hiểu khái niệm tự tơn, tự ti và sự bù trừ. Khi cảm thấy bị yếu kém một mặt nào đĩ, người ta cố gắng sửa đổi, bù trừ để cĩ được cái tốt đẹp, hồn thiện đáng tự hào (tự tơn). Adler cho rằng, cảm giác ban đầu ở phần lớn trẻ em là cảm giác về sự ĐINH NGỌC THẠCH - NGUYỄN THỊ THANH THỦY – PHÂN TÂM HỌC 5 Cĩ nhiều yếu tố cấu thành nhân cách như di truyền, hồn cảnh xã hội, thế giới quan cá nhân, nhưng theo Adler, cĩ hai yếu tố đặc biệt quan trọng: thứ nhất, vị thứ anh chị cả (anh/chị cả và em út cĩ nhân cách, ứng xử khác nhau, được xã hội quy định từ trước), thứ hai, giáo dục gia đình (anh/chị cả trong gia đình khá giả, nền nếp chăm sĩc các em nhiều hơn anh/chị cả trong gia đình nghèo, buơng lỏng giáo dục). Trong số các nhà phân tâm học sau Freud, vận dụng phân tâm học vào việc lý giải những vấn đề xã hội, phải kể đến Wilhelm Reich (1897-1957) với học thuyết tình dục- kinh tế(3). Năm 1922 Reich làm trợ lý chuyên mơn cho Freud và đồng thời xác lập một bệnh viện thực hành tại Vienna. Năm 1924 Reich trở thành Giám đốc của Viện Nghiên cứu về Phân tâm học đầu tiên tại Áo. Những quan điểm khá táo bạo của ơng gây ra sự bất đồng ngay cả trong các học trị của ơng, chẳng hạn quan điểm cho rằng cơ sở của căn bệnh rối loạn thần kinh chức năng nằm ở sự thiếu thốn thỏa mãn tình dục. Năm 1939 Reich được Ban lãnh đạo Trường phái mới về nghiên cứu xã hội mời sang New York cùng tồn bộ phịng thí nghiệm của ơng. Tại New York, Reich sáng lập Viện Orgone(4). Mơn nghiên cứu orgone được gọi là Orgonomy. Ơng tiếp tục đào sâu tìm hiểu năng lượng sinh học, hay năng lượng vũ trụ, năng lượng sự sống (life energy), hay đơn giản là orgone energy, thứ năng lượng nền tảng, hiện diện ở tất cả sinh thể. Năng lượng này lấy quan điểm libido của Freud, cái được xem là sinh lực của mọi sinh thể, cả lồi vật lẫn con người, làm cơ sở. Đặc trưng của tư tưởng Reich là khơng chú trọng đến từng cá nhân riêng lẻ, mà hướng đến lĩnh vực chính trị-xã hội. Reich chỉ giữ lại quan điểm nền tảng của phân tâm học Freud: bên ngồi ý thức tồn tại một hiện thực tâm lý, vơ thức. Reich đưa ra phương án lý giải mới về “cơ cấu tâm lý sinh học của cá thể”: 1) tầng bề mặt, tức tầng liên kết xã hội, tầng “xã hội – hư ngụy” (liên tưởng hố sâu ngăn cách giữa “vật tự nĩ” và “hiện tượng”); 2) tầng trung gian, tầng chống đối xã hội (liên tưởng vơ thức của Freud), tổng số những xung động bậc hai những cuồng vọng ngu xuẩn hung bạo, những hành vi dâm đãng; 3) tầng đáy sâu, hạt nhân sinh học, những tố chất tự nhiên-xã hội tiềm tàng nơi con người như trung thực, yêu lao động. Tiếc thay khi đi qua tầng trung gian những tố chất bị xuyên tạc, nhiễm bẩn, khúc xạ. Những điều vừa nêu cho thấy, tư tưởng của Reich, được triển khai trong bệnh viện thực hành của ơng, ít nhiều vượt qua thời đại ơng, do đĩ khơng tìm được sự chia sẻ trong xã hội. Cương lĩnh của ơng khơng cịn xa lạ trong điều kiện hiện nay, bao gồm một số điểm căn bản: giáo dục tăng cường trong lĩnh vực kiểm sốt sinh sản, cho phép phá thai, cho phép ly hơn, từ chối ĐINH NGỌC THẠCH - NGUYỄN THỊ THANH THỦY – PHÂN TÂM HỌC 6 Trong quan điểm chính trị Reich phê phán “chủ nghĩa cực quyền”, chủ nghĩa phát xít từ khía cạnh tâm lý. Trong Tâm lý đại chúng và chủ nghĩa phát xít ơng viết: “Do chỗ chủ nghĩa phát xít, khơng lệ thuộc vào thời gian và vị trí xuất hiện của nĩ, là phong trào của quần chúng nhân dân, nên nĩ cĩ tất cả những đặc trưng và mâu thuẫn, cố hữu ở cơ cấu tính cách của cá thể đại chúng. Trái với dư luận chung, chủ nghĩa phát xít đĩ khơng thuần túy là một trào lưu phản động, mà nĩ thể hiện ra như sự kết hợp cảm xúc nổi loạn và tư tưởng xã hội phản động”(5). Reich khơng phủ nhận sự hiện diện của năng lực libido trong cơ cấu tâm lý cá nhân, hơn nữa lại phân tích nĩ dưới gĩc độ xung đột xã hội. Trong tác phẩm nổi tiếng Cách mạng tình dục (The Sexual Revolution, 1936) sự giải phĩng con người được xem xét ở khía cạnh tự do tình dục. Đây là tác phẩm gây sốc cho xã hội một thời. Vào nửa đầu thế kỷ XX phân tâm học tiếp nhận thêm những nguồn năng lượng mới từ chất liệu thực tiễn của đời sống xã hội, gắn những vấn đề tâm lý cá nhân với những mối quan tâm chung, tạo nên phong cách tư duy phê phán xã hội đặc trưng. Trường phái Frankfurt tiêu biểu cho phong cách này của phân tâm học, hay cĩ thể gọi là phân tâm học xã hội, phân tâm học cĩ định hướng phê phán xã hội. Về mặt lịch sử, trường phái Frankfurt ra đời từ những năm 20 (1923) với tên gọi Viện Nghiên cứu Xã hội (Institut für Sozialforschung), thuộc Đại học Frankfurt am Main do sáng kiến của Carl Grünberg, một nhà mác xít “chính thống” và giáo sư chính trị. Với nền tảng đĩ, trường phái Frankfurt đứng trên lập trường tư tưởng cánh tả, một số đại biểu tự gọi là đại diện của chủ nghĩa Mác phương Tây (đối lập với chủ nghĩa Mác Stalin hĩa, và nĩi chung là chủ nghĩa Mác bị biến dạng). Từ năm 1930 (hoặc 1931) Giám đốc Viện Frankfurt là M. Horkheimer. Bắt đầu từ vị Giám đốc này hoạt động của Viện chuyển dần sang khuynh hướng phê phán xã hội. Ơng tuyên bố mục tiêu của Viện là xác lập “triết học xã hội”, được bổ sung bằng quá trình nghiên cứu thực nghiệm. Vào thời kỳ chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền, một nhĩm các nhà triết học Frankfurt lánh nạn tại Thụy Sĩ, Pháp, Mỹ. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai một số ở lại Mỹ, một số khác trở về Frankfurt. Đến những năm 1950 trường phái Frankfurt mở rộng phạm vi hoạt động, đạt được nhiều thành quả nghiên cứu. Trong trường phái Frankfurt nổi bật nhiều tên tuổi lớn như Max Horkheimer, Theodor Ludwig W. Adorno, Herbert Marcuse, Erich Seligmann Fromm, Walter Benjamin, Leo Lưwenthal, Franz Leopold Neumann, Friedrich Pollock, Jürgen Habermas, Oskar Negt... Hai người sau cùng thuộc thế hệ thứ hai, đang tiếp tục làm việc trong các trường đại học. ĐINH NGỌC THẠCH - NGUYỄN THỊ THANH THỦY – PHÂN TÂM HỌC 7 Nhiều nhà tư tưởng của trường phái Frankfurt tiếp cận với học thuyết về cơ cấu nhân cách, vơ thức và nguyên tắc thỏa mãn của chủ nghĩa Freud (Freudism), từ đĩ họ nhấn mạnh sự thỏa mãn bản năng, cái dẫn đến sự kiểm sốt đối với cá nhân. Trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và mơi trường xã hội con người chế ngự bản năng, tuân thủ nguyên tắc hiện thực, thay đổi chúng. Nĩi khác đi, nguyên tắc thỏa mãn phụ thuộc vào nguyên tắc hiện thực, điều này đã đặt con người lệ thuộc vào xã hội. Từ gĩc độ phân tâm học, các đại biểu của trường phái Frankfurt cho rằng, chủ nghĩa phát xít (fascism)(6) khơng phải là một trường hợp ngoại lệ, một hiện tượng cá biệt trong lịch sử, mà là sự phản ánh những khuynh hướng chung nhất. Thay vì kết án các phong trào phát xít từ gĩc độ lợi ích của giai cấp, tập đồn chính trị, họ xem xét hiện tượng chủ nghĩa phát xít như biến thái của cơ chế tâm lý, dẫn tới các hành vi dã man, phi nhân tính. W. Reich(7) là một trong những người đầu tiên toan tính phân tích chủ nghĩa phát xít từ lập trường của phân tâm học. Trong tác phẩm Tâm lý đại chúng về (và) chủ nghĩa phát xít (The Mass Psychology of Fascism, Massenpsychologie des Faschismus 1946), Reich nhận định: “Tinh thần phát xít, đĩ là tinh thần của “con người nhỏ bé”, bị nơ dịch, mong muốn đạt đến quyền lực và cũng đồng thời phản kháng. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tất cả những kẻ chuyên chính phát xít đều xuất thân từ mơi trường phản động của “những con người nhỏ bé”(8). Phân tâm học, đặc biệt là phân tâm học xã hội của một số đại biểu thuộc trường phái Frankfurt cĩ mối liên hệ với cả chủ nghĩa Mác lẫn chủ nghĩa hiện sinh. Yếu tố chiết trung này lẽ cố nhiên cần được xem xét một cách cĩ phê phán. Mặt khác, sự tích hợp, thậm chí hịa lẫn các dịng tư tưởng đối lập nhau cĩ thể gợi mở câu trả lời khá thiết thực trong điều kiện phức tạp của xã hội phương Tây. Marcuse nĩi về “văn minh khơng cĩ tính đàn áp”, về việc phát huy sức mạnh của Eros (thần Ái tình trong thần thoại Hy Lạp), nhờ đĩ bản năng gây hấn, bản năng chết bị đẩy lùi. Cũng đề cập sự tha hĩa, nhưng Marcuse khơng đặt nĩ trong sự hiện hữu trường cửu trong mỗi cá nhân (tình thế phân đơi triền miên trong kiếp người), mà hướng đến cách tiếp cận mácxít về khả năng vượt qua trạng thái phi lý của đời sống, tìm niềm vui trong thơng điệp của Eros. Lao động khi ấy sẽ khơng cịn bị tha hĩa nữa, mà biến thành trị chơi tự do, phù hợp với bản tính con người(9). Trong logic phân tích của Fromm cĩ khá nhiều điểm chung với chủ nghĩa hiện sinh. Fromm cố gắng rút ra tính chất bi kịch của tồn tại cá nhân từ những mâu thuẫn của đời sống con người, mà đây lại là điểm nhấn trong chủ nghĩa hiện sinh. Các nhà hiện sinh khơng bàn đến cơ sở khách quan của cá thể tính, Fromm cũng vậy, mặc dù cĩ đề cập những thiên hướng phổ biến về tình yêu, niềm tin, suy nghĩ. Các nhà hiện sinh xốy sâu vào chủ thể tính, vào “hiện sinh” như phương thức tồn tại đặc trưng của con người. Fromm dành cho con người sự phân tích riêng, song rốt cuộc ơng vẫn cho rằng bản chất con người khơng nên nhìn từ gĩc độ bản thể, hay “chất nền tảng” trong con người, mà từ những va chạm, mâu thuẫn cố hữu ở tồn tại cá nhân. Ở Fromm việc giải quyết nhị phân lịch sử và nhị phân hiện sinh được thực hiện trên cơ sở nhận thức cả hai bình ĐINH NGỌC THẠCH - NGUYỄN THỊ THANH THỦY – PHÂN TÂM HỌC 8 diện – bình diện xã hội và bình diện cá nhân. Khắc phục nhị phân lịch sử, tức những mâu thuẫn trong tiến trình lịch sử, dưới tác động của những điều kiện xã hội, theo Fromm, cần gắn với việc xác lập một xã hội nhân đạo mới. Đối với nhị phân hiện sinh, do hình thành từ chính tồn tại của con người, nên chỉ giải quyết từng phần bằng cách giải phĩng nguồn xung lực của cuộc sống cá nhân, khai thơng khả năng của con người trong tình yêu, niềm tin và trong suy nghĩ. Như vậy, việc giải phĩng con người chỉ cĩ thể đạt được trên cơ sở sử dụng phân tâm học cĩ định hướng biện chứng và nhân đạo, nhờ đĩ mới đánh thức được những yếu tố phê phán trong ý thức con người. Những khái niệm như “kế hoạch hĩa nhân đạo”, “dự phĩng nhân đạo”, “tích cực hĩa” cá thể bằng con đường thay thế các phương thức của chế độ quan liêu bị tha hĩa bằng các phương thức của sự quản lý mang tính nhân đạo, sự thay đổi phương thức tiêu dùng trong xu hướng gia tăng tính tích cực của con người và khắc phục tính thụ động, sự phổ biến những hình thức mới của định hướng tâm lý-tinh thần, những định hướng cần phải tương thích với các hệ thống tơn giáo quá khứ. Fromm cũng đưa ra ý tưởng xác lập những cộng đồng nhỏ mà ở đĩ con người tự mình tạo lập nền văn hĩa, lối sống, phong cách tư duy, chuẩn mực đạo đức đặc trưng, nhưng khơng đối lập với định hướng chung, đồng thời làm phong phú cuộc sống của mình bằng các biểu tượng tâm linh, các nghi lễ, sinh hoạt tơn giáo. Như vậy, Fromm đã đưa vào tư tưởng về con người và xã hội những yếu tố mang tính hiện sinh chủ nghĩa để tạo nên một cách tiếp cận thực tế hơn về thân phận, sự nếm trải và khát vọng của con người-cá nhân. Ơng xem những ý tưởng đĩ thực sự là cách mạng về niềm hy vọng, về sự cải tổ ý thức để vượt qua khủng hoảng của xã hội hiện tại(10). 3. KẾT LUẬN Phân tâm học, như đã nĩi trên, ban đầu khơng phải là một trào lưu, hay khuynh hướng triết học, mà chỉ là một đột phá quan trọng trong việc chữa bệnh rối loạn thần kinh chức năng bằng liệu pháp tâm lý. Tuy nhiên với thời gian, phân tâm học được biết đến như “khám phá vơ thức”, một vấn đề hiếm thấy trong triết học truyền thống, mà đây là điều kỳ diệu trong quá trình phi cổ điển hĩa triết học, vốn bắt đầu từ những năm 30-40 của thế kỷ XIX. “Khám phá vơ thức”, đĩ là cách đánh giá cơng bằng và cĩ ý nghĩa nhất đối với phân tâm học, trước hết là phân tâm học Freud, “khơng cịn ai bảo vệ tồn bộ học thuyết phân tâm và hình thức nguyên thủy về trị liệu, nhưng cũng khơng thể phủ nhận ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết ấy đến tư tưởng chung của thời đại, đặc biệt về tâm lý học, tâm lý trị liệu”(11). Cho dù những người sau Freud, trong đĩ cĩ Adler, tìm cách cải biến một số vấn đề của phân tâm học, nhằm làm cho phân tâm học phát triển hơn, song cái cốt lõi nhất do Freud mở đầu vẫn cịn nguyên giá trị trong phạm vi học thuyết này. Quá trình từ phân tâm học “cổ điển” đến tân phân tâm học và phân tâm học xã hội (tập trung khá rầm rộ trong trường phái Frankfurt) đĩ là con đường của sự tìm tịi, khám phá, làm mới mình, quá trình thâm nhập vào đời sống xã hội, và đĩ cũng là một trong những đặc điểm nổi bật của triết học phương Tây hiện đại. ĐINH NGỌC THẠCH - NGUYỄN THỊ THANH THỦY – PHÂN TÂM HỌC 9 CHÚ THÍCH (1) Ra đời từ những năm 20 của thế kỷ XX trên nền tảng học thuyết Freud, với một số đại diện như Karen Horney, Erich Fromm, Harry Stack Sullivan (2) Альфред Адлер. Индивидуальная психология как путь к познанию и самопознанию человека (Alfred Adler. Tâm lý cá nhân như con đường dẫn đến sự nhận thức và tự ý thức của con người). (3) Ơng là nhà tâm lý học Áo-Mỹ, một trong những người sáng lập trường phái châu Âu của phân tâm học, người duy nhất trong số các học trị của Freud (ta gọi là những nhà tân phân tâm học) phát triển tư tưởng phê phán xã hội một cách căn bản như địi hỏi thủ tiêu thứ đạo đức cĩ tính đàn áp và chủ trương giáo dục về tình dục, nhờ đĩ đã ảnh hưởng tích cực đến phong trào cánh tả mới ở Tây Âu, cũng như một vài trào lưu giáo lý bí truyền. (4) Thuật ngữ Orgone energy xuất phát từ tiếng Latinh Organismus, nghĩa là “thực thể sống”. Reich sử dụng thuật ngữ này luận giải “năng lượng phổ quát của cuộc sống” gắn với sự phá hủy các quy luật vật lý. (5) W. Reich Психология масс и фашизм. - СПб., 1997. (Перевод с английского Ю.М. Донца 3/11/2005). (6) Tiếng Italia: fascismo, xuất phát từ fascio – liên minh, thống nhất, kết nối, chẳng hạn tên gọi của tổ chức chính trị Co Mussolini (1883- 1945) đứng đầu là Fascio di Combattimento, nghĩa là Liên minh đấu tranh. (7) Wilhelm Reich (1897-1957), nhà tâm lý Áo- Mỹ, người duy nhất trong số các học trị của Freud (những người tự tuyên bố là đại diện tân phân tâm học, với những cách tiếp cận khác nhau) phát triển tư tưởng phê phán xã hội trong phân tâm học, cĩ ảnh hưởng đáng kể đến phong trào cánh tả tại phương Tây. (8) Вильге́льм Райх. Психология масс и фашизм. СПб., 1997, стр. 5 (Wilhelm Reich. Tâm lý đại chúng và chủ nghĩa phát xít. St. Petersburg, 1997, tr. 5. Bản dịch sang tiếng Nga). (9) Xem H. Marcuse. Eros and Civilization. A philosophical Inquiry Into Freud. New York, 1962, p. 4-6. (10) Xem E. Fromm. The Revolution of Hope. Toward a Humanized Technology. New York, 1968; p. 97-100. (11) David Stafford-Clark (Người dịch: Lê Văn Luyện-Huyền Giang), Freud đã thực sự nĩi gì. Nxb. Thế giới. Hà Nội. 1998, tr. 29. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Альфред Адлер. Индивидуальная психология как путь к познанию и самопознанию человека ( 2. David Stafford-Clark (Người dịch: Lê Văn Luyện-Huyền Giang). 1998. Freud đã thực sự nĩi gì. Hà Nội: Nxb. Thế giới. 3. E. Fromm. 1968. The Revolution of Hope. Toward a Humanized Technology. New York. 4. H. Marcuse. 1962. Eros and Civilization. A Philosophical Inquiry Into Freud. New York. 5. J.P. Charrier (Lê Thanh Hồng Dân dịch). 1972. Phân tâm học. Sài Gịn: Nxb. Trẻ. 6. Phạm Minh Lăng. 2000. Freud và tâm phân học. Hà Nội: Nxb. Văn hĩa Thơng tin. 7. Sigmund Freud (Vũ Đình Lưu dịch). 1969. Phân tâm học. An Tiêm. 8. Vũ Đình Lưu. 1968. Hành trình vào phân tâm học. Hồng Đơng-Phương.
File đính kèm:
- phan_tam_hoc_va_tan_phan_tam_hoc_tu_freud_den_adler_va_truon.pdf